Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Cô Gái Trong Cabin Số 10

“Agatha Christie gặp Cô gái trên tà Đáng sợ và bất an, đây là một cuốn sách khiến bạn phải hồi hộp” - Fabulous Magazine   Laura “Lo” Blacklock, từng là một nhà báo trẻ tuổi đầy tham vọng, nhưng giờ đã ngoài ba mươi, đầu óc phần nào rệu rã bởi thói nát rượu, mắc kẹt trong một công việc tầm thường tại một tạp chí du lịch. Cô may mắn được đi trên Aurora, một chiếc du thuyền hạng siêu sang, và cô những tưởng đấy sẽ là một cơ hội có một không hai giúp cô đổi đời và thăng tiến sự nghiệp nhờ việc được gặp gỡ những người có địa vị chót vót trong xã hội. Nhưng rốt cục thứ cô nhìn thấy lại là một phụ nữ bị ném xuống biển trong đêm tối. Và tất cả mọi người trên thuyền đều khẳng định rằng cô hoang tưởng, bởi người phụ nữ đó không hề tồn tại. Độc giả trinh thám sẽ nhận ra lối viết trinh thám của Ruth Ware chịu ảnh hưởng rất lớn từ Agatha Christie: những không gian kín chật chội và cô lập, nhân vật nữ bị cuốn vào một vụ án mạng bí ẩn, những tình tiết mô tả tâm lý hoảng loạn và sợ hãi một cách xuất sắc. Cô gái trong cabin số 10 chính là một tác phẩm nhuần nhuyễn đủ sức khơi dậy và khéo léo duy trì nỗi hồi hộp của người đọc qua hàng trăm trang sách. TÁC GIẢ: Ruth Ware (1977) bắt đầu sự nghiệp văn chương khá muộn. Trước khi trở thành nhà văn toàn thời gian, cô đã từng làm các công việc bồi bàn, bán sách và quảng cáo. Bắt đầu bằng các tác phẩm dành cho thiếu niên, nhưng cô chỉ thực sự thành công khi chuyển sang thể loại trinh thám ly kỳ, giật gân. Những tác phẩm trinh thám của Ruth Ware như Rừng sâu tăm tối và Cô gái trong cabin số 10 nhanh chóng trở thành Bestseller và nhận được sự yêu mến của độc giả. *** Ruth Ware/ Anh Thư dịch Sau 3 ngày nghiền ngẫm thì mình cũng lên được bờ cùng với Laura “Lo” Blacklock, nhân vật chính của chúng ta. Mình sẽ tập trung vào điểm mạnh và điểm yếu của cuốn sách và sẽ không spoil để tránh là các bạn mất hứng +Điểm mạnh: Trong cuốn sách này, Ruth Ware đưa người đọc ra ngoài biển khơi trên một chiếc du thuyền hạng sang, có thể nói đây là trinh thám trong phòng kín khi xuyên suốt từ đầu câu chuyện nhân vật chính luôn luôn ở trong tình trạng 1 mình trong 1 căn phòng nhỏ hẹp với tâm lý bất ổn đến đáng sợ,và 1 vụ án mạng đầy uẩn khúc và khó khăn hơn khi không một ai tin lời cô nói. Tình tiết xây dựng chặt chẽ, tâm lý nội tâm được miêu tả khá rõ nên đôi chỗ mình phải đặt bản thân mình vào đó mới cảm nhận được dù đôi chỗ hơi dài dòng. Các nhân vật xuất hiện hợp lý, và mỗi lần xuất hiện đều liên quan chặt chẽ đến mạch truyện Nhân vật chính được xây dựng tốt, trong hoàn cảnh nguy hiểm nhưng luôn luôn đặt niềm tin vào bản thân, quyết đoán và mạnh mẽ đến giây phút cuối cùng +Điểm trừ: Như đã nói ở trên thì càng về cuối thì lời kể bị dài dòng, tác giả lạm dụng miêu tả cảm xúc quá đến mức cảm thấy hơi oải khi đọc tiếp Có 1 2 chỗ sai chính tả :< (có lẽ là lỗi đánh máy) Mình mong chờ 1 sự bùng nổ về cuối nhưng có chút gì đó hơi hụt hẫng, plot twist tạm ổn chứ ko đến nỗi xuất sắc P/s: Sau hôm nay, chắc chắn 1 điều mình sẽ bước sang Rừng Sâu Tăm Tối khi đã đọc các reviews từ goodread của tác phẩm. Còn về Cô Gái Trong Cabin Số 10, rất thích hợp cho fan trinh thám, đặc biệt là các bạn theo ngành tâm lý học, và với thời tiết nóng nực và tình hình dịch căng thẳng như hiện nay thì cuốn sách này sẽ là sự lựa chọn hoàn hảo nha các bạn Sr vì mình ko giỏi chụp choẹt lắm Hoang *** Trong giấc mơ, cô gái ấy đang bồng bềnh sâu, sâu mãi bên dưới những con sóng ầm ầm và tiếng rít của đám mòng biển, trong làn nước lạnh giá không ánh mặt trời của Bắc Hải. Tôi mơ thấy đôi mắt biết cười trắng dã và húp lên vì nước muối, thấy làn da trắng nhợt nhăn nheo, quần áo bị đá lởm chởm làm cho rách nát và đang tan dần thành từng mảnh vụn. Chỉ có mái tóc đen dài là còn lại, bồng bềnh trong nước như lá tảo biển đen, mắc vào vỏ trai vỏ sò và lưới đánh cá, bị sóng cuốn lên bờ biển thành nùi tựa dây thừng xác xơ; nằm rũ rượi ở nơi đó, tiếng ầm ầm của sóng xô bờ dội vào bãi sỏi lấp kín tai tôi. Tôi tỉnh dậy khiếp đảm ghê gớm. Mất một lúc tôi mới nhớ ra mình đang ở đâu, và phải một lúc lâu hơn mới nhận ra tiếng ầm ầm trong tai không phải là từ giấc mơ, mà là của hiện thực. Căn phòng tối om, với cùng một thứ sương mù ẩm ướt tôi cảm thấy trong mơ, và khi ngồi dậy, tôi nhận ra một luồng gió mát thổi lên má. Nghe như tiếng động phát ra từ phòng tắm. Tôi trèo xuống giường, hơi run rẩy. Cánh cửa đóng, nhưng khi bước tới chỗ nó, tôi nghe thấy tiếng rền vang lớn hơn, cùng tiếng tim tôi dập mạnh dần. Dồn hết can đảm vào hai bàn tay, tôi đẩy mở cánh cửa. Tiếng vòi sen lấp đầy căn phòng nhỏ khi tôi lần sờ tìm công tắc. Ánh sáng tràn khắp nhà tắm - và đó là lúc tôi nhìn thấy nó. Được viết ngang tấm gương phủ kín hơi nước, với những con chữ cao đến mười hai phân, là dòng chữ “ĐỪNG XÍA VÀO”. *** Lần đầu tiên tôi mơ hồ nhận ra có gì đó không ổn là khi tỉnh dậy trong bóng tối và nhận ra con mèo đang vỗ nhẹ vào mặt mình. Chắc là tôi đã quên đóng cửa nhà bếp tối qua. Thôi thì cũng đáng cái tội say xỉn về nhà. “Ra chỗ khác đi,” tôi rên rẩm. Delilah kêu meo meo và dụi đầu phản đối. Tôi cố vùi mặt vào gối nhưng nó cứ cạ vào tai tôi, thế là cuối cùng tôi trở mình và nhẫn tâm đẩy nó ra khỏi giường. Nó rơi thịch xuống sàn với một tiếng “méo” đầy bực bội, còn tôi thì kéo chăn lông vịt quá đầu. Nhưng ngay cả khi trùm kín chăn tôi vẫn có thể nghe thấy nó cào vào chân cửa khiến cửa kêu lạch cạch. Cửa đóng. Tôi ngồi dậy, tim đột nhiên đập thình thịch, còn Delilah nhảy lên giường với một tiếng ư ử hân hoan. Tôi siết nó vào ngực, không cho nó ngọ nguậy nữa, rồi lắng tai nghe. Hẳn là tôi đã quên đóng cửa nhà bếp, mà cũng có thể tôi chỉ đẩy cửa thôi chứ chưa đóng hẳn vào. Nhưng cửa phòng ngủ của tôi lại mở hướng ra ngoài - căn hộ của tôi thiết kế quái gở vậy đấy. Con mèo không thể tự đóng cửa khi ở trong phòng. Chắc chắn một ai đóđã đóng cửa. Tôi ngồi bất động, áp cơ thể ấm áp hổn hển của Delilah vào ngực mình và cố lắng tai nghe. Không có gì hết. Và rồi, với một cảm giác nhẹ nhõm, tôi nhận ra - hẳn là nó đã trốn dưới gầm giường rồi tôi đóng cửa phòng và vô tình nhốt nó lại khi về nhà. Dù không nhớ là mình đã đóng cửa, nhưng hẳn tôi đã vô thức làm vậy sau khi vào phòng. Phải thú thật là những gì xảy ra từ lúc ở ga Tube đều khá mờ nhạt trong ký ức tôi. Cơn đau đầu mon men xuất hiện trên đường về nhà, và giờ khi cơn hoảng loạn lui dần, tôi lại cảm thấy cơn đau ấy dâng lên dần dưới gáy. Tôi thực sự cần bỏ thói nhậu nhẹt giữa tuần thôi. Hồi đôi mươi thì chuyện đó chẳng vấn đề gì, nhưng giờ những cơn váng vất không còn chóng dứt như trước nữa. Delilah bắt đầu uốn éo bứt rứt, nghiến móng lên cẳng tay tôi, và tôi thả nó ra khi với tay lấy váy ngủ mặc lên người. Rồi tôi bế con mèo lên và sẵn sàng lẳng nó ra bếp. Khi tôi mở cửa phòng ngủ, có một người đàn ông đang đứng đó. Hỏi hắn ta trông thế nào cũng chẳng để làm gì, bởi tin tôi đi, tôi đã nói đi nói lại chuyện đó chừng hai mươi lăm lần với cảnh sát rồi. “Thậm chí quanh cổ tay hắn không hở ra tí da nào à?” - họ tra hỏi. Không, không, không và không. Hắn ta mặc áo nỉ có mũ, một cái khăn rằn quấn quanh mũi và miệng, phần còn lại đều chìm trong bóng tối. Ngoại trừ đôi tay. Hắn đeo găng tay cao su. Chính điều này khiến tôi sợ phát khiếp. Đôi găng đó nói, tao biết mình đang làm gì. Chúng nói, tao đã chuẩn bị trước khi đến đây. Chúng nói, có thể tao cần nhiều thứ hơn là tiền của mày. Chúng tôi đứng đó chừng một giây dài lê thê, mặt đối mặt, đôi mắt lóe sáng của hắn dán chặt vào mắt tôi. Hàng nghìn ý nghĩ rần rật trong tâm trí tôi: Điện thoại của tôi ở chỗ quái nào rồi? Tại sao tối qua tôi lại uống nhiều vậy? Nếu tỉnh táo thì hẳn tôi đã nghe tiếng hắn đột nhập. Ôi Chúa ơi, ước gì Judah ở đây. Và trên hết - đôi găng tay đó. Ôi Chúa ơi, đôi găng tay đó. Chúng trông thật chuyên nghiệp. Thật lạnh lùng. Tôi không nói. Tôi không nhúc nhích. Tôi chỉ đứng đó, chiếc váy ngủ rũ xuống và người run bần bật. Delilah vặn mình thoát khỏi đôi tay mềm oặt của tôi và chạy vọt qua hành lang để vào bếp. Làm ơn, tôi nghĩ. Làm ơn đừng hại tôi. Lạy Chúa, điện thoại của tôi đâu rồi? Rồi tôi thấy thứ gì đó trên tay gã đàn ông. Cái túi xách của tôi - cái túi xách Burberry mới của tôi, mặc dù giờ thì quan trọng gì nhãn hiệu nữa. Tôi chỉ còn nghĩ được một thứ duy nhất về cái túi xách đó. Điện thoại của tôi đang ở bên trong. Đôi mắt hắn nhíu lại theo một lối khiến tôi nghĩ có thể nào hắn đang cười bên dưới lớp khản quấn, và tôi cảm thấy máu trong người rút hết khỏi đầu và những ngón tay rồi dồn cả về trung tâm thân thể, sẵn sàng cho những gì sắp xảy đến, dù là chiến đấu hay bỏ chạy. Hắn ta tiến lên một bước. “Đừng...” tôi nói. Tôi muốn lời đó nghe như một mệnh lệnh, nhưng nó vang lên như một lời van xin, giọng tôi nhỏ, lí nhí và run rẩy thảm hại vì sợ hãi, “Đ...” Tôi còn chẳng nói hết được từ ấy. Hắn sập cánh cửa phòng ngủ đánh sầm, khiến nó đập vào má tôi. Suốt một lúc lâu tôi đứng đờ ra đấy, tay ôm mặt, hoảng loạn và đau đớn đến không nói lên lời. Những ngón tay lạnh buốt, nhưng có gì đó ấm và hơi ướt trên mặt tôi, và mất một lúc tôi mới nhận ra đấy là máu: đường gờ trên cửa đã cắt vào má tôi. Tôi muốn quay trở lại giường, vùi đầu dưới gối rồi khóc thật lâu. Nhưng một giọng nhỏ ngớ ngẩn trong đầu tôi cứ nói, Hắn vẫn ở ngoài đó. Nếu hắn quay lại thì sao? Nếu hắn quay lại tìm mày thì sao? Có tiếng động từ hành lang bên ngoài, có gì đó rơi xuống, và tôi cảm thấy một cơn sợ hãi đáng lẽ phải khiến tôi kích động nhưng thay vào đó lại làm tôi tê liệt. Đừng quay lại. Đừng quay lại. Tôi nhận ra mình đang nín thở, thế là tôi bắt mình thở ra một hơi dài và rùng mình, rồi tôi chầm chậm giơ tay về phía nắm cửa. Một tiếng động nữa vang lên ngoài hành lang - tiếng kính vỡ - khiến tôi xông tới chộp lấy nắm cửa rồi gồng mình, những ngón chân trần nhấn mạnh xuống sàn nhà cũ lỗ chỗ khe hở, sẵn sàng giữ chặt cửa càng lâu càng tốt. Tôi cúi xuống, khom mình, đầu gối chạm ngực, cố bịt những tiếng thổn thức bằng váy ngủ, lắng tai nghe tiếng hắn lục soát căn hộ, đồng thời cầu Chúa là Delilah đã chạy ra vườn, xa khỏi tầm với của hiểm nguy. Cuối cùng, sau một lúc lâu thật lâu, tôi nghe thấy tiếng cửa trước mở ra và đóng lại. Tôi ngồi đó, gục vào đầu gối khóc, không thể tin nổi hắn đã thực sự bỏ đi. Rằng hắn sẽ không quay lại để hại tôi. Đôi tay tôi tê dại và cứng đờ đau đớn, nhưng vẫn không dám bỏ tay nắm cửa ra. Tôi lại mường tượng thấy hai cánh tay lực lưỡng đeo găng tay cao su trắng. Tôi không biết chuyện gì sẽ xảy ra tiếp theo. Hẳn là tôi sẽ ngồi đó hết đêm mà không dám nhúc nhích. Nhưng tôi nghe tiếng Delilah ở bên ngoài, kêu meo meo và cào vào mặt bên kia cánh cửa. “Delilah,” tôi kêu lên, giọng khàn khàn. Giọng nói run rẩy đến mức tôi cũng không nhận ra nữa. “Ôi, Delilah.” Qua cánh cửa, tôi nghe thấy nó rên rừ rừ, cái tiếng khò khè cò cử quen thuộc, và như thể một bùa phép yểm lên tôi đã bị phá bỏ. Tôi để những ngón tay bị chuột rút cứng đờ buông nắm cửa ra, đau đớn nắm duỗi chúng cho hết cơn co rút, rồi đứng dậy, cố gắng giữ vững đôi chân đang run lên bần bật, rồi vặn tay nắm. Nó xoay. Mà thực ra nó xoay quá dễ dàng, nhẹ tênh trong tay tôi, và then cửa không nhúc nhích lấy một phân. Hắn ta đã tháo khóa từ phía bên kia. Mẹ kiếp. Mẹ kiếp, mẹ kiếp, mẹ kiếp. Tôi bị nhốt rồi. Mời các bạn đón đọc Cô Gái Trong Cabin Số 10 của tác giả Ruth Ware & Anh Thư (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Những Ngọn Cờ Trên Tháp - Anton Makarenko
Những ngọn cờ trên tháp là một cuốn tiểu thuyết tâm lý giáo dục của nhà văn Anton Makarenko, ra đời năm 1938. Trong tác phẩm "Bài ca sư phạm" vấn đề hấp dẫn tôi là miêu tả con người trong tập thể thế nào, miêu tả sự đấu tranh với bản thân của con người thế nào, cuộc đấu tranh đó gay gắt nhiều hay ít. Trong tác phẩm "Những ngọn cờ trên tháp", tôi đặt cho mình mục đích hoàn toàn khác. Tôi muốn miêu tả chính tập thể tuyệt vời mà tôi được vinh dự làm việc ở đó, miêu tả các phong trào nội bộ của nó, số phận của nó, môi trường xung quanh nó. *** Anton Semyonovich Makarenko (tiếng Nga: Анто́н Семёнович Мака́ренко , Tiếng Ukraina: Анто́н Семе́нович Макаре́нко , 13 tháng 1 năm 1888 - 1 tháng 4 năm 1939) là một nhà giáo dục, nhân viên xã hội và nhà văn Liên Xô, nhà lý luận giáo dục có ảnh hưởng nhất ở Liên Xô, người đã thúc đẩy các ý tưởng và nguyên tắc dân chủ trong lý thuyết và thực hành giáo dục. Là một trong những người sáng lập sư phạm Liên Xô, ông đã xây dựng lý thuyết và phương pháp giáo dục trong các tập thể trẻ tự quản và đưa khái niệm lao động sản xuất vào hệ thống giáo dục. Makarenko thường được coi là một trong những nhà giáo dục vĩ đại của thế giới, và sách của ông đã được xuất bản ở nhiều nước. Sau cuộc Cách mạng Nga, ông đã thành lập các trại trẻ mồ côi tự hỗ trợ cho trẻ em lang thang - bao gồm cả tội phạm vị thành niên - bị bỏ rơi mồ côi do Nội chiến Nga. Trong số các cơ sở này có Thuộc địa Gorky và sau đó là xã lao động Dzerzhinsky ở Kharkov, nơi sản xuất máy ảnh của Fed. Makarenko đã viết một vài cuốn sách, trong đó Bài thơ sư phạm (еееееее ее), một câu chuyện hư cấu về Thuộc địa Gorky, đặc biệt phổ biến ở Liên Xô. Năm 1955, một bộ phim có tựa đề tiếng Anh Road to Life đã được sản xuất. *** Chuyện này bắt đầu vào thời kỳ cuối kế hoạch năm năm lần thứ nhất. Mùa đông chỉ còn để lại những lớp băng mỏng đang lần tránh ánh mặt trời dưới mọi thứ rác rưởi: những cọng rơm, những váng bùn và những lớp phân khô. Lớp đá cuội đã mòn trải ngoài sân ga đang được sưởi ấm dưới ánh nắng, lớp đất bám quanh các viên đá cuội cũng đang khô dần và mỗi lần có bánh xe đi qua đã thấy tung lên những làn bụi mới. Giữa quảng trường là một mảnh vườn hoang. Mùa hè các bụi cây trong vườn này cũng đâm chồi nảy lá, nhưng giờ đây, cũng như toàn cảnh thiên nhiên, khu vườn trông thật bẩn thỉu, những cành cây trơ trụi run rẩy, tựa hồ như bây giờ không phải mùa xuân, mà đang là mùa thu vậy. Từ quảng trường vào thị trấn có một con đường lát đá. Thị trấn nhỏ bé, nó tình cờ được ghi tên trên bản đồ địa lý. Có lẽ nhiều người không biết tên thị trấn này, nếu họ không phải chuyển tàu ở cái ga phụ mang tên thị trấn. Trên quảng trường có vài hàng quán. Phía bên là bưu điện, ngoài cửa có tấm biển màu vàng chóe. Cạnh đó có hai con ngựa gầy nhom đang rầu rĩ, chúng bị thắng vào một cỗ xe song mã chở khách đã rệu rã. Người đi lại trên quảng trường thưa thớt, phần lớn chỉ là những nhân viên đường sắt, tay xách đèn chai, những cuộn dây thừng và những chiếc va-li bằng gỗ dán. Khách chờ tàu là mấy bác nông dân, đang ngồi dưới đất cạnh tường nhà ga để sưởi nắng. Cách mấy người này một quãng là chú bé Va-ni-a Gan-tsen-cô trạc mười hai tuổi đang ngồi thu lu một mình. Chú buồn bã ngồi bên cạnh cái kệ để chân đánh giày của mình, hấp háy mắt dưới ánh nắng. Cái kệ của chú rất đơn giản, làm bằng mấy mảnh gỗ ghép lại, nhìn qua cũng biết là Va-ni-a tự tay làm lấy. Còn đồ lề của chú cũng chẳng có bao nhiêu. ... Mời các bạn đón đọc Những Ngọn Cờ Trên Tháp của tác giả Anton Makarenko.
Những Cậu Bé Hỏa Tiễn - Homer Hickam
Nỗ lực biến ước mơ thành hiện thực. Một câu chuyện cảm động và đầy cuốn hút về tuổi trẻ dám mơ ước và nỗ lực để biến giấc mơ thành hiện thực. Cậu bé Homer Hickam sinh ra tại Coalwood - một vùng mỏ nghèo hẻo lánh của miền Tây Virginia, Mỹ. Tương lai của đa số trẻ em Coalwood là trở thành thợ mỏ; Homer với sức học trung bình và không có một năng khiếu đặc biệt nào, cũng sẽ khó lòng thoát khỏi vùng đất ấy. Nhưng một ngày kia, khi được chứng kiến vệ tinh Sputnik của Nga bay ngang bầu trời, cậu bé 14 tuổi bỗng bùng lên niềm khao khát chế tạo tên lửa để khám phá vũ trụ. Homer tập hợp nhóm bạn thân lại để chế tạo tên lửa. Và trái hỏa tiễn đầu tiên không bay lên bầu trời đêm như các bạn trẻ mong muốn mà như một trái bom làm nổ tung hàng rào vườn hồng của mẹ, biến Homer thành một “hiện tượng” chẳng lấy gì làm hay ho trong thị trấn. Mặc dù vậy, người mẹ tuyệt vời và khác người của Homer lại ra sức ủng hộ cho ý tưởng “điên rồ” của con, bất chấp sự ngăn cản của người chồng. Bà muốn gieo vào lòng con trai một khát vọng, một niềm đam mê để cậu có thể tìm ra con đường thoát khỏi khu mỏ, vùng đất mà theo bà đang dần tàn lụi vì sự cạn kiệt tài nguyên. Nhờ sự hỗ trợ của mẹ và cô giáo dạy hóa Riley, Homer đã thành lập Tổ chức tên lửa Big Creek. Những bạn trẻ ấy phải đối mặt với biết bao rào cản - rào cản về tri thức, những khó khăn về vật chất và cả rào cản vô hình từ bạn bè, gia đình - những người không ủng hộ dự án của họ. Tự mày mò nghiên cứu khoa học, những trái hỏa tiễn đầu tiên mang lại cho nhóm không ít rắc rối cùng những bi hài kịch cười ra nước mắt. Các bạn trẻ này đã nỗ lực bằng mọi cách, kể cả việc vô tình vi phạm pháp luật, để tìm kiếm các nguyên vật liệu chế tạo tên lửa... Với quyết tâm và niềm mơ ước được gia nhập đội ngũ kỹ sư NASA để khám phá vũ trụ, Homer và các bạn từng bước chinh phục được bầu trời Coalwood và tình cảm của người dân vùng mỏ này. Nhóm bạn trẻ đã đạt được huy chương vàng tại Hội chợ Khoa học Toàn quốc năm 1960 với sáng chế của họ. *** Đôi dòng về Những cậu bé hỏa tiễn Dám mơ ước và biến ước mơ thành hiện thực - đó chính là một trong những thông điệp chính của cuốn sách này. “Tên lửa không bay lên nếu không được ai châm ngòi” - O’Dell, một thành viên của nhóm thường lặp đi lặp lại câu nói này. Những quả tên lửa cũng như những khát vọng của tuổi trẻ và những khát vọng ấy sẽ mãi chỉ là mơ ước nếu không có một ai “châm ngòi” cho chúng. Tuổi trẻ luôn tràn đầy hoài bão lớn, song làm sao để biến chúng thành hiện thực lại là cả một hành trình đầy gian nan mà cũng thật thú vị nếu ai dám vượt lên chính mình như những cậu bé vùng mỏ nghèo xứ Coalwood. Một lần khi ngắm nhìn mặt trăng, những cậu bé hỏa tiễn nhận ra rằng từ khi quan tâm đến vấn đề khám phá vũ trụ thì mọi khái niệm về mặt trăng đã thay đổi. “Chúng tôi phóng đi một chiếc phi thuyền nhỏ, vượt qua khỏi giới hạn vật lý của nó; vượt qua những rặng núi cheo leo, qua khỏi những sự lừa dối và nước mắt của những phản đối gay gắt ban đầu; ngưỡng mộ những miệng núi lửa, những vùng tối và những ngọn núi của mặt trăng. Vậy thì một ngày nào đó, tôi tự nhủ rằng chúng tôi sẽ đến đó.” Chính cậu bé Homer Hickam, nhân vật chính và là tác giả của cuốn sách, sau này đã trở thành một kỹ sư NASA đúng như mơ ước thuở nhỏ. Đúng như nhận xét của tiến sĩ Mark A. Hill, Giám đốc Viện Giáo dục quốc tế Hoa Kỳ (IIE) tại Việt Nam, “...câu chuyện của Homer Hickam, một câu chuyện về hy vọng, kiên trì, thắng vượt nghịch cảnh không chỉ giới hạn ở nước Mỹ, mà là một câu chuyện phổ quát diễn ra ở mọi quốc gia trên địa cầu này. Những cậu bé hỏa tiễn kể về niềm tin, “một niềm tin vững chắc vào một điều gì đó không có chứng cứ,” niềm hy vọng về điều mình chưa từng thấy.” Và sự chân thực của cuốn sách đã tạo nên sức lay động lớn với trái tim độc giả. Những cậu bé hỏa tiễn là một tác phẩm đầy sức cuốn hút với giới trẻ. Bên cạnh câu chuyện chế tạo tên lửa, tác giả đã đưa người đọc đến với một vùng đất Mỹ hẻo lánh thuộc miền Tây Virginia, khám phá cuộc sống của những người thợ mỏ những năm 1950. Tác phẩm thật gần gũi với những câu chuyện tình yêu ngọt ngào và cũng không kém phần chua xót, những trăn trở của tuổi trẻ... Tác giả đã khắc họa những chân dung nhân vật thật sống động, chân thực. Homer Hickam được ngợi ca là một người kể chuyện tài tình và rất có duyên, người đã xóa nhòa ranh giới của tiểu thuyết và hồi ký. Điều đó khiến cho Những cậu bé hỏa tiễn có sức lan tỏa lớn đến hàng triệu người đọc trên thế giới. Cuốn sách được dịch ra 8 thứ tiếng và được sự đón nhận nồng nhiệt của rất nhiều trường phổ thông, đại học trên toàn nước Mỹ, trở thành động lực để các bạn trẻ học tập, nghiên cứu trong nhiều lĩnh vực khoa học, nghệ thuật. Năm 1999, bộ phim October Sky ra đời dựa theo cốt truyện của Những cậu bé hỏa tiễn cũng thực sự tạo nên một cơn sốt trên màn bạc. Tại Việt Nam, trong tháng 8 vừa qua, Viện Giáo dục quốc tế Hoa Kỳ (IIE) cũng đã phát động một cuộc thi “Biến giấc mơ thành hiện thực” (Turning dreams into reality), dựa trên cảm hứng của tác phẩm Những cậu bé hỏa tiễn, dành cho học sinh, sinh viên trên cả nước. *** Đôi dòng về tác giả Homer H. Hickam (19/2/1943), sinh trưởng tại Coalwood, miền Tây Virginia, Mỹ. Ông tốt nghiệp trường trung học Big Creek vào năm 1960, sau đó là Cao Đẳng Kỹ Thuật Virginia và nhận bằng cử nhân Kỹ sư Công nghiệp vào năm 1964. Ông cũng là một cựu chiến binh Mỹ tại Việt Nam. Trong thời gian này, ông bắt đầu viết sách, hầu hết là về những chuyến phiêu lưu dưới biển và về sau là về những cuộc chiến của Mỹ trong Thế Chiến Thứ 2. Sau đó ông làm việc cho NASA, huấn luyện các phi hành gia về những kiến thức và kinh nghiệm khoa học khi lên đến quỹ đạo. Homer Hickam được xếp vào danh sách một trong những tác giả có sách bán chạy nhất tại Mỹ. Homer Hickam là tác giả của hai cuốn sách được hoan nghênh thời “hậu” Những cậu bé hỏa tiễn: Con đường Coalwood (The Coalwood Way- 2000) và Bầu trời đá (Sky of Stone - 2001). Ông cũng viết Giao lộ Torpedo (Torpedo Junction - 1989), Trở lại mặt trăng (1999) và nhiều tiểu thuyết khác, tác phẩm mới nhất là Chiếc mũ bảo hộ màu đỏ (Red Helmet - 2008). Đầu tháng 9.2009, Homer H. Hickam có chuyến viếng thăm Việt Nam để trò chuyện với sinh viên ở Hà Nội và TP.HCM xung quanh chủ đề “Biến ước mơ thành hiện thực”. Đồng thời, tác giả cũng tham gia trao giải cho cuộc thi Turning dreams into reality, do IIE tổ chức. *** Nhận xét của báo chí quốc tế về Những cậu bé hỏa tiễn “[Hickam] là một người kể chuyện tài tình (...) Chắc chắn rằng đây là câu chuyện mà tác giả kể cho chính bản thân mình. Một câu chuyện đầy thú vị và trong sự nghiệp của Homer H. Hickam, Jr., ông đã vượt qua rào cản cuộc sống để trở thành một kỹ sư NASA, huấn luyện các phi hành gia trước khi vào không gian - chính điều đó đã làm cho cuốn sách này thực sự khác biệt.” - The New York Times Book Review “Hickam có một câu chuyện tuyệt vời để kể cho chúng ta... Những cậu bé hỏa tiễn chắc chắn sẽ gợi nên một nỗi hoài nhớ trong lòng bất kỳ ai đã từng lớn lên ở thời kỳ đầu của cuộc đua vào vũ trụ, nhưng câu chuyện này còn hơn thế nữa...” - The Philadelphia Inquirer “Một câu chuyện sôi nổi đưa ra một vấn đề đặc sắc... thông điệp của niềm hy vọng trong một thời đại của sự hoài nghi.... Có lẽ tất cả chúng ta có một điều gì đó để học từ sáu cậu bé, những người đã dám vượt qua mọi giới hạn... và quyết tâm gửi những giấc mơ vút lên trời cao.” -The San Diego Union-Tribune “Thật khó quên... Không giống như nhiều hồi ký khác, cuốn sách này mang đến cho đời sống không chỉ kinh nghiệm của một cá nhân. Nó còn mang đến cho đời sống một thị trấn đã mất của Coalwood, miền Tây Virginia.” - USA Today Mời các bạn đón đọc Những Cậu Bé Hỏa Tiễn của tác giả Homer Hickam.
Nhân Dân Bất Diệt - Va-xi-li Gơ-rô-xman
Năm 1934 trong Tập san văn nghệ Xô-viết, người ta thấy đăng truyện  "Trong thành phố Béc-đi-sép" của một cây bút mới lạ: Va-xi-li Gơ-rô-xman. Truyện đó nổi bật ngay trong vô số những tiểu thuyết và truyện ngắn của các nhà văn quen thuộc. Các độc giả, các nhà văn nhất trí chào mừng ở Gơ-rô- xman một tài năng mới có nhiều triển vọng. Va-xi-li Gơ-rô-xman sinh ngày 12-12-1905 ở thành phố Béc-đi-sép, con một ông kỹ sư hóa học và một bà giáo dạy tiếng Pháp. Năm 1914, Gơ-rô-xman học ở Ki-ép, rồi về Béc-đi-sép học ở một trường phổ thông lao động, vừa học vừa lao động và dạy học thêm. Năm 1923, Gơ-rô-xman vào học khoa hóa của trường đại học Mát-xcơ-va, đến năm 1929 thì tốt nghiệp và làm việc ở vùng Đôn-bát. Ông đã làm việc ở nhiều viện nghiên cứu khoa học tại địa phương và tham gia một công trình nghiên cứu về thuốc nổ và hơi độc. Năm 1932, bị lao nhẹ, ông phải dời Đôn-bát về Mát-xcơ-va, làm việc ở một xí nghiệp chì. Sáu bảy năm trước chiến tranh, Gơ-rô-xman đã viết một truyện ngắn và tiểu thuyết, trong đó có hai tập "Hạnh phúc" và "Bốn ngày”. Tháng 7 năm 1936, Gơ-rô-xman bắt tay vào viết cuốn tiểu thuyết "Xtê-pan Côn-sư-ghin" gồm 3 tập nhưng vì chiến tranh nổ ra nên không hoàn thành được, và đã xuất bản được hai tập. Tháng 8 năm 1941, Gơ-rô-xman gia nhập Hồng quân, được cử ra mặt trận trung tâm dưới danh nghĩa phóng viên chiến tranh của báo Sao đỏ, cơ quan ngôn luận của Hồng quân, và đến năm I943, ông được phong cấp trung tá.   Ông đã tham dự cuộc rút lui gian khổ của Hồng quân ra khỏi Biê-lô-rút-xi và U-cơ-ren. Chính trong thời kỳ này, ông đã tích lũy được nhiều tài liệu cho cuốn "Nhân dân bất diệt" nổi tiếng, xuất bản năm 1942. Ông đã tham dự chiến dịch Xta- lin-gơ-rát từ đầu đến cuối và những phóng sự ông viết về chiến dịch này đã được xuất bản thành tập sau khi in trên báo Sao đỏ. Ông cũng đã được tham dự các chiến dịch giải phóng Ki-ép, Ô-đét-xa, Min-xcơ, Vác-sa-va và Bá-linh. Xuân 1943, ông bắt đầu viết một bộ trường ca, ca ngợi cuộc chiến đấu vĩ đại cha quân dân Xta-lin-gơ-rát, và đó là công trình lớn nhất sau thời kỳ chiến tranh của ông. Tập đầu "Vì sự nghiệp chính nghĩa" viết trong bảy năm, đã xuất bản năm 1952 trên báo Thế giới mới. Trong chiến tranh, Gơ-rô-xman đã được tặng thưởng huân chương Cờ đỏ, huân chương Sao đỏ và sáu huy chương. Năm 1955, ông lại được tặng thưởng huân chương Lao động Cờ đỏ. Cuốn "Nhân dân bất diệt” được in lần đầu tiên năm 1942 trên báo Sao đỏ. Sau đó, nó được xuất bản thành sách, được tái bản nhiều lần trong nước và được dịch ra nhiều thứ tiếng nước ngoài. Nó là một trong những cuốn tiểu thuyết xuất sắc nói về đề tài chiến tranh của nền văn học Xô-viết. Bối cảnh lịch sử của nó là thời kỳ đầu cuộc chiến tranh ái quốc vĩ đại của nhân dân Liên-xô. Địch tấn công như vũ bão trên đường đi tới Gô-men, chiếm đóng và cướp bóc nhiều nơi. Bô-ga-rép, cựu giáo sư dạy về chủ nghĩa Mác - Lê-nin ở một trường đại học, được cử về làm chính ủy của trung đoàn do thiếu tá Méc-xa-lốp chỉ huy. Trung đoàn được trao nhiệm vụ hậu vệ và trong khi bảo vệ đường rút cho đại quân, một tiểu đoàn do chính ủy Bô-ga-rép trực tiếp chỉ đạo, đã bị rớt lại trong vòng vây quân Đức. Bác bỏ kế hoạch của tiểu đoàn trưởng đề nghị cho bộ đội bí mật luồn rút ra khỏi vòng vây, Bô-ga-rép đã lợi dụng hoàn cảnh, bắt liên lạc với trung đoàn, tổ chức phối hợp hai bên, trong đánh ra ngoài đánh vào, và giành được thắng lợi lớn. Đó cũng là trận mở màn cho thời kỳ phản công trên mặt trận đó. Đó là nội dung vắn tắt của cuốn truyện. Thực ra "Nhân dân bất diệt” thuộc loại tiểu thuyết khó tóm tắt. Cốt truyện đơn giản trên chỉ là cái nền trên đó tác giả vẽ nên những bức tranh đậm nét về những con người với những suy nghĩ và xúc cảm của họ trong những giờ phút nghiêm trọng đang quyết định vận mệnh của Tổ quốc. Bằng một lối viết nhẹ nhàng, trong sáng, súc tích, và chỉ bằng vài nét đặc sắc, Gơ-rô-xman đã nêu bật lên được những nét điển hình của con người và hoàn cảnh. Trong "Nhân dân bất diệt", cũng như trong các tác phẩm khác của mình, Gơ-rô-xman tỏ ra là một nhà văn có tài thâm nhập cuộc sống, thâm nhập nội tâm của những nhân vật rất khác nhau, hiểu họ như hiểu bản thân mình, dẫn người đọc đi thẳng vào đời sống tinh thần của họ, suy nghĩ về số phận của họ, thông cảm sâu sắc với những nỗi vui buồn của họ, và đó chính là sức lôi cuốn của cuốn sách. *** Vào truyện Chính ủy Bô-ga-rép và chiến sĩ nông dân I-nha-chi-ép là hai nhân vật chính của truyện. Bô-ga-rép là con người mà mỗi hơi thở nói lên tình yêu thắm thiết đối với đất nước Xô-viết của anh, đất nước của nhân dân, "một đất nước giành được trong sự phấn đấu vĩ đại của nội chiến, trong đói rét, một đất nước tất nhiên còn nghèo, sống được nhờ lao động gian khổ, và do những quy luật ngặt nghèo chi phối", nhưng là đất nước ở đó giấc mơ ngàn đời của bao nhiêu thế hệ lần đầu tiên đã được thực hiện. Kẻ thù giày xéo lên đất nước anh, anh hết lòng căm thù và khinh bỉ chúng. Anh coi chủ nghĩa phát xít là một cái gì đê tiện và phản động nhất trên đời, nó không có một chút yếu tố gì sáng tạo, nó tượng trưng cho bùn lầy nước đọng, nó chỉ mang được một yếu tố vào lịch sử và đời sống chính trị là: sự man rợ có tổ chức, sự cướp bóc giết người. Anh đấu tranh quyết liệt với những ai tỏ vẻ sợ sệt nó, khuyên họ chỉ nên khinh bỉ và chế giễu nó mà thôi. Trong người chiến sĩ bình thường, anh nhìn thấy người anh hùng chân chính làm nên thắng lợi. Đây là cảm giác của anh khi anh dẫn đầu chiến sĩ lên xung phong: anh đang lôi cuốn họ theo anh, còn họ thì hợp với anh thành một tổng thể thống nhất, vĩnh viễn, không thể chia cắt, như đang đẩy anh lên phía trước, như nước dâng thuyền. Anh đem chân lý của Đảng ra nhẫn nại thuyết phục quần chúng, đem sự thật không chút tô điểm trình bày một cách trung thực cho quần chúng, vạch cho họ biết những hy sinh nào đang chờ đợi họ bởi vì anh tin quần chúng không sợ hãi sự thật. Anh là người chỉ huy tỉnh táo, trong những giờ phút khó khăn nhất vẫn tin tưởng ở thắng lợi ("nhất định là phải thế, nếu không thì là tôi không trông thấy gì, không hiểu gì hết", anh nói như vậy) và biết tìm ra phương hướng hành động tích cực nhất. Anh phản đối tác phong của người chỉ huy không biết bao quát tình hình và quán xuyến toàn bộ lực lượng của mình, mà chỉ biết cầm cây súng trực tiếp dẫn đầu một bộ phận, xông vào khói lửa, mong lấy hành động dũng cảm không sợ hy sinh để tự lừa dối lương tâm, trốn tránh trách nhiệm trước sự thắng bại. Chiến sĩ nông dân I-nha-chi-ép là con người mà toàn bộ đặc tính được tóm tắt trong câu nhận xét của thượng sĩ Moóc-vi-nốp: "I-nha-chi-ép ạ, cậu có một tâm hồn rất là Nga". Anh là một người lực lưỡng, dẻo dai, có một bàn tay lao động cừ khôi biết sử dụng mọi thứ công cụ một cách khéo léo. Anh yêu cuộc sống, yêu ruộng đồng, quê hương đất nước anh. Anh thích lang thang trên cánh đồng, nghe chim hót, đắm mình trong cảnh thiên nhiên của đất nước, trên vai đeo một khẩu súng chim cà khổ để che mắt thiên hạ — vì anh sợ người ta cho là mình lập dị. Trước giờ chiến đấu anh có thể nằm sấp xuống đất hàng tiếng đồng hồ, hít thở hương rừng, theo dõi đàn kiến đang bận rộn dưới cỏ, suy nghĩ về đất nước anh, về cuộc chiến tranh khốc liệt đang tàn phá khắp nơi và đây là kết luận anh đã rút ra: "Chà ! Các cậu ạ, sống đến là thú! Phải một ngày như hôm nay mới thấy rõ như vậy. Có thể nằm đây hàng triệu năm mà không chán. Nằm mà thở cho đã !". Cuộc sống ấy, thiên nhiên ấy, đất nước ấy, anh là chủ. Ở ngay giữa lòng địch, trong vùng bị chiếm, anh vẫn nghĩ dứt khoát như vậy. Cho nên, khi xe địch sắp tới, anh em giục anh trốn đi, anh đã trả lời với một vẻ ngạc nhiên ranh mãnh: "Các cậu bảo tớ trốn đi đâu? Rừng này là của tớ, tớ là chủ ở đây. Nếu tớ chuồn, người ta sẽ hỏi: Thưa ông chủ, ông chủ chuồn đi đâu vậy?". Anh thuộc rất nhiều dân ca và truyện dân gian mà anh có tài kể lại một cách rất sinh động. Anh láu lỉnh, vui tính có thể uống hàng vò rượu mà không say, cũng có thể "chơi xỏ" người khác những vố khá đau, một cách hồn nhiên, không có ác ý. Nhưng anh chiến đấu cũng rất dũng cảm và mưu trí, với cái mưu trí ranh mãnh của quần chúng. Cho nên, không có gì là khó hiểu nếu ở đại đội, mọi người đều quý anh và nghe theo anh. Chính ủy Bô-ga-rép và chiến sĩ I-nha-chi-ép là như vậy đó. Người thứ nhất là người cán bộ lãnh đạo tiêu biểu cho phẩm chất, trí tuệ, quyết tâm, vai trò tổ chức và lãnh đạo quần chúng của Đảng. Người thứ hai tiêu biểu cho phẩm chất, sức mạnh và tài trí của chính bản thân quần chúng. Họ đại diện cho nhân dân và nhân dân là bất diệt. Đối với Gơ-rô-xman, nhân dân là kẻ sáng tạo nên mọi giá trị tinh thần và vật chất, là tượng trưng cho tất cà những cái gì cao cả nhất: trí tuệ, tinh thần sáng tạo, lòng yêu cuộc sống, yêu tự do, tình đồng chí, lòng nhân nghĩa, lòng dũng cảm... Còn kẻ thù của nhân dân, bọn bóc lột, chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa phát-xít, thì mang trong mình nó tất cả những cái gì đê tiện nhất: lòng thù hằn con người, sự man rợ, tính hèn nhát, sự khô cằn về mọi mặt... Cuộc đấu tranh của nhân dân chống kẻ thù, chính là cuộc đấu tranh của con người chiến thắng con vật, của sự sống chiến thắng cái chết, của điều thiện chiến thắng điều ác, của ánh sáng chiến thắng bóng đêm. Trong cuộc chiến đấu ấy cho cuộc sống, Đảng và quần chúng kết thành một khối và điều đó được nêu bật trong hình ảnh kết thúc cuốn truyện: tiếng súng của trận đánh thắng lợi vừa chấm dứt mọi người đang đi tìm chính ủy, thì thấy chính ủy Bô-ga-rép cùng chiến sĩ I-nha-chi-ép, mình mấy đầy thương tích, loạng choạng dìu dắt nhau từ trong khói lửa cùng bước tới, như đi ra với cuộc sống. Người dịch          Mời các bạn đón đọc Nhân Dân Bất Diệt của tác giả Va-xi-li Gơ-rô-xman.
Người Lữ Hành Kỳ Dị - Harold Robbins
Đọc lại "Người lữ hành kỳ dị" của Harold Robbins, thấy mình cũng kỳ dị chẳng kém. Cuốn truyện dày gần 900 trang, đã được đọc đi, đọc lại trong nhiều năm nay. Mỗi lần đọc lại phát hiện ra những thông điệp mới của cuốn truyện.  Kỳ lạ, cuốn truyện đầy ngập những xác chết, rất nhiều người chết, trai có, gái có, già có, trẻ có, đột tử có, phải nằm liệt trước khi chết có, chết bệnh có, mà tự tử cũng có nữa. Thế mà tuyệt nhiên không ở trang nào có chỗ cho sự bi quan. Bao trùm cả cuốn truyện là sự phấn đấu liên tục, bền bỉ, kiên trì, dũng cảm, khôn ngoan và đầy mưu lược để chiến thắng số phận, giành và giữ lấy những thứ của mình. Càng kỳ lạ hơn, là chỉ đến hôm nay, mình lần đầu tiên chú ý tới triết lý sống rõ ràng ấy. Mình đã từng yêu "Người lữ hành" vì nó là cuốn truyện đậm đặc màu sắc tâm lý, miêu tả tinh tế về mâu thuẫn nội tâm, để rồi lý giải đầy thuyết phục, đầy tính người về bản năng, về đạo đức, về ranh giới thiện ác.  Rồi về cái đẹp nữa chứ. Ca ngợi cái đẹp nhiều đến thế là cùng.  Cuốn truyện sẽ khiến bạn phải đứng trước gương, phải nhìn ngắm bản thân kỹ hơn và cảm ơn tạo hóa nhiều hơn vì đã sinh ra bạn như bạn đang có.  Đọc những dòng này, các bạn chớ có đi tìm mua "Người lữ hành", vì cuốn truyện sẽ nhanh chóng làm bạn thất vọng, bởi rất nhiều lý do: nó quá dày, văn phong của nó khá dài dòng, cốt truyện và nhân vật phức tạp, cách kể truyện không liền mạch, lối viết bất chấp thời gian, thậm chí luôn bỏ rơi nhân vật.  Đừng vội đọc cuốn truyện, cho đến khi bạn có một bản lĩnh đủ kiên cường, một tâm lí đủ bình tĩnh và một trái tim đủ nhân hậu. ANN *** Harold Robbins là một tác giả người Mỹ của tiểu thuyết nổi tiếng. Một trong những nhà văn bán chạy nhất mọi thời đại, ông đã viết hơn 25 cuốn sách bán chạy nhất, bán được hơn 750 triệu bản bằng 32 ngôn ngữ.  *** “Người lữ hành kỳ dị” bản dịch tiếng Việt của Mạnh Hà, Thanh Sơn, theo tôi là một bản dịch dở, người dịch có lẽ chưa từng sống ở Mỹ và cũng ít hiểu biết về văn hóa Mỹ. Ngay cả cái tựa, chỉ nên dịch là “những kẻ lữ hành”, tôi không hiểu sao lại thêm chữ “kỳ dị” vào đây, nghe rất là lá cải. Bản dịch tiếng Việt có lẽ đã làm mất gần hết tính văn học (vốn rất ít ỏi) của tiểu thuyết này, nhưng khổ nỗi, vì câu chuyện mà Harold Robbins kể, nó cực kỳ hấp dẫn, đến nỗi người đọc bị câu chuyện cuốn đi từ những trang đầu tiên cho đến trang cuối cùng mà không thèm quan tâm đến những cái tên chuyển ngữ rất kệch cỡm, kiểu như: Giônơx, hoặc những đoạn tả cảnh được dịch sượng sạo, hay những đối thoại đậm chất Mỹ bị biến dạng khi chuyển ngữ. Harold Robbins không kể một câu chuyện, không có một cốt truyện xuyên suốt như bản dịch “Người lữ hành kỳ dị” muốn ám chỉ. Harold Robbins viết lại một phần lịch sử nước Mỹ, từ sau thế chiến thứ nhất đến hết thế chiến thứ hai, xảy ra trong một vùng đất rộng lớn kéo dài từ NY đến phía tây. Harold Robbins không kể một cuộc đời, ông viết về nhiều cuộc đời, mà từ góc nhìn của họ, lịch sử và những biến động lịch sử được nhìn thấy và tương tác một cách khác nhau: một nhà tư bản thành công, một cô đào nổi danh, một tiểu thư khuê các, một đạo diễn tài năng, một gã da đỏ nổi tiếng, một cô điếm sang trọng, một kẻ cơ hội chuyên nghiệp…. tất cả đều là nhân vật chính, họ đều là “những kẻ lữ hành”, nếu dịch theo tựa của tôi. Lịch sử của Harold Robbins là lịch sử của ngành dầu mỏ, vũ khí, hàng không, điện ảnh…, là người Do Thái và cuộc thế chiến thứ hai, là cuộc khủng hoảng tài chính kinh hoàng… và các nhân vật nổi tiếng trong giai đoạn đó lần lượt xuất hiện đầy ấn tượng trong “những kẻ lữ hành”, vẫn nhắc lại là nếu dịch theo tựa của tôi. Tôi không thích cái tựa, tôi chưa hài lòng bản dịch, tính văn học của tiểu thuyết không cao, lịch sử Mỹ không hấp dẫn tôi, những cuộc đời cũng không làm tôi ngưỡng mộ… vậy tiểu thuyết này có gì khiến tôi lấy cái tựa (rất dở) của nó làm tiêu đề cho blog mình. Tất nhiên là tôi có lý do, một lý do rất cá nhân. Trong suốt câu chuyện lịch sử, xuyên qua và kết nối những cuộc đời, chủ đạo và kết cục cho những biến cố, làm gút thắt mở cho những sự kiện… là một không khí giản đơn và đậm chất miền tây, miền tây nước Mỹ cũng giống miền tây nước Việt: một không khí phóng khoáng, hào sảng, đậm đà tình nghĩa… tôi đã hít thở trong bầu không khí đó, nó cho tôi ô xy, nuôi tôi lớn lên và sống với nó… Tôi muốn mình sẽ luôn như vậy, blog mình sẽ là một chốn như vậy, một lần nữa xin cảm ơn bạn Land đã tặng tôi bản sách cũ, có lẽ là bản in đầu tiên, vô cùng giá trị.  Mời các bạn đón đọc Người Lữ Hành Kỳ Dị của tác giả Harold Robbins.