Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Tay Sát Thủ Mù

Giữa những sát thủ mù, người thằn lằn, ma nữ, tiểu thư thượng lưu, nghệ sĩ hiện đại, tư sản học làm sang, cựu  chiến binh, thủ lĩnh công đoàn, tài phiệt… Margaret Atwood cuốn người đọc qua một câu chuyện trải hơn một thế kỷ,  hai lục địa và vài hành tinh. Từ những mảnh tưởng chừng rời rạc, Atwood đã dệt nên một tiểu thuyết đáng kinh ngạc,  thêm một lần nữa khẳng định vị thế của bà như một trong những tiểu thuyết gia đương đại hàng đầu, người kể những  câu chuyện ly kỳ một cách xuất chúng.   Nhận định   “Nghệ thuật kể chuyện vĩ đại trên quy mô lớn… Tuyệt hay.” - The Washington Post Book World   Hãy tưởng tượng vị hãn Agha Mohammed, kẻ đã lệnh đem hạ sát hoặc chọc cho mù mắt toàn bộ dân thành Kerman, không từ một ai. Đội cận vệ hăm hở bắt tay vào việc. Chúng gom cư dân thành hàng, người lớn cắt đầu, trẻ con khoét mắt… Về sau, đàn đàn lũ lũ trẻ con mù rời khỏi đô thành. Một số, sau khi xiêu dạt nơi thảo dã, lạc đường trong sa mạc mà chết khát. Số khác tìm được tới nơi người ở… hát những bài ca về cuộc tận diệt gái trai già trẻ Kerman… - RYSZARD KAPUŚCIŃSKI   Ta bơi, biển khơi vô tận, nhìn chẳng thấy bờ. Tanit nguyệt thần không biết xót thương, ta nguyện cầu, người đền đáp. Hỡi kẻ kia chìm trong bể ái, hãy nhớ về ta. - KHẮC TRÊN BÌNH TRO THỜI CARTHAGE   Lời là lửa cháy trong lòng kính tối. - SHEILA WATSON *** TAY SÁT THỦ MÙ – BẤT CẦN VÀ SAY ĐẮM Có rất nhiều điều để nói về văn chương Margaret Atwood, một tên tuổi lớn khác của văn chương Canada hiện đại (cùng với Alice Munro). Chẳng hạn như lối viết hết sức chi tiết, nghệ thuật kể chuyện tự nhiên, sống động, cách dẫn dắt tài tình hay ngôn ngữ sắc lạnh và có phần giễu cợt nhưng chứa chan tình cảm. Tuy nhiên, đáng chú ý nhất có lẽ là tính nữ đậm đạc trong các tác phẩm của bà. NHỮNG CÂU CHUYỆN CỦA BÀ GIÀ IRIS “Bà Iris Chase Griffen đã đột ngột tạ thế thứ Tư tuần trước, thọ 83 tuổi, trong ngôi nhà của mình ở cảng Ticonderoga. Bà Griffen là chị gái nữ tác giả danh tiếng người thị trấn là Laura Chase. Bên cạnh đó bà còn là con gái Đại úy Norval Chase, chắc chắn sẽ được thị trấn ghi nhớ lâu dài, và cháu nội Benjamin Chase, người sáng lập công ty Công nghiệp Chase, đã mở Nhà Máy Cúc cùng nhiều cơ sở khác. Thêm vào đó, bà là vợ ngài Richard E. Griffen quá cố, nhà công nghiệp và chính trị gia lừng danh, cũng như chị dâu bà, Winifred Griffen Prior, nhà hảo tâm Toronto vừa qua đời năm ngoái, để lại quỹ tiền thưởng hào phóng cho trường trung học thị trấn ta. Gia đình còn lại cháu gái bà là Sabrina Griffen, cô vừa về nước và nghe đồn là sắp tới thị trấn lo liệu công việc cho bà ngoại” (tr. 469) Đó là những dòng trích bản tin về cái chết của bà Iris Chase Griffen mà tờ Sứ điệp và Tinh kỳ thuộc Cảng Ticonderoga đã đưa, trong chương cận kề chương cuối cuốn tiểu thuyết Tay sát thủ mù của Margaret Atwood (An Lý dịch; Nhã Nam & NXB Hội Nhà văn ấn hành 2015). Một bản tin tóm lược, giới thiệu ngược trở lại các nhân vật chính của cuốn tiểu thuyết. Laura Chase: em gái của Iris người đã qua đời ở tuổi 25, sau một tai nạn ô tô, hay có thể nói là tự lái xe lao xuống vực, để lại một bản thảo dở dang: Tay sát thủ mù. Iris, khi về già, lọm khọm, đơn độc, bị bệnh tim, luôn sống trong trạng thái bị phơi bày sự tan hoang của tuổi tác. Bà muốn náu mình, muốn quên lãng. Nhưng việc tình cờ tìm thấy bản thảo của Laura khiến quá khứ sống dậy. Từng trang bản thảo, mỗi khi giở ra, khiến bà nhớ lại, liên tưởng, ráp nối và “ngoan cường viết” như hiệu đính (những phần trong bản thảo dang dở của cô em Laura), bình luận và hoàn thiện, một cách tinh tế, hài hước, thậm chí có phần độc địa. Một thiên truyện trải dài gồm ba câu chuyện đan cài vào nhau như dệt vải kiểu ngẫu hứng, rất phong phú và bất ngờ. Từ thời thơ ấu, với những biến cố lớn lao như chuyện chiến tranh và những rung động đầu đời. Tưởng chẳng là bao, chẳng có nghĩa lý gì, nhưng khi chạm vào sột soạt trang giấy, khi chữ dẫn đường cho cảm xúc, thì Iris nhớ lại, cảm xúc cứ dâng mãi lên như nước dâng lên lòng hồ, rồi tràn bờ đập lai láng, miên man. Và dần dần hé lộ những bí mật trong cuộc đời từng nhân vật. Cấu trúc “truyện lồng trong truyện” Atwood sử dụng không phải tân kỳ gì. Nhưng đây không phải là cuốn sách đặt nặng vấn đề kỹ thuật hay cấu trúc (mặc dù nó được tác giả tính toán khá thông minh). Đây có lẽ là một tuyệt tác về văn phong, cách hành văn điêu luyện chỉ có ở những bậc thầy. Cho nên, câu chuyện dẫu dằng dặc, đôi khi có cảm giác lê thê, ảm đạm như bánh xe lửa rin rít trên đường ray ngày mưa vẫn khiến người đọc bị mê hoặc, chìm đắm. Từng câu chữ được viết ra, từng trang văn được bày biện ngập tràn cảm xúc, tỉ mẩn đến từng chi tiết. Tuy nhiên, không chỉ có vậy, văn chương Atwood vừa viễn tưởng về phía tương lai vừa phảng phất chút phong vị cổ điển u hoài. Giở bất kỳ trang văn nào, người đọc cũng có thể bắt gặp những câu, đoạn văn hay và lạ, tỉa ra những đoạn kinh điển. Một đoạn tả thời tiết: “Cái nóng mùa Hè đã về đầy đủ, vánh lại trên thị trấn như súp kem. Tiết trời sốt rét, một thời; tiết trời thổ tả. Hàng cây che đường tôi đi xòe những tán ô rũ rượi, giấy ẩm nhớp dưới tay, chữ viết đâm râu tua tủa như son môi rỉ vào đường chân chim ven khuôn miệng già cỗi. Chỉ cần leo thang đã trổ một hàng ria mồ hôi”… (tr. 48) Hoặc: “Thảm dệt ra đời này sang đời khác đều nhờ trẻ con nô lệ, bởi chỉ có ngón tay trẻ con mới đủ nhỏ cho những động tác tinh vi đến thế. Nhưng những giờ dằng dặc sít sao khiến đám trẻ lên tám hay chín là thảy mù lòa, và người bán thảm dựa vào đó mà tính toán cũng như quảng bá giá trị hàng hóa. Tấm thảm này đã khiến mười đứa trẻ mù đấy, họ rao thế”. (tr. 24) Những câu văn đầy bi phẫn và hài hước, bóc trần tất cả, từ chuyện tình yêu, hôn nhân đến chính trị, nghệ thuật, tài phiệt qua giọng kể cay độc, tưởng như vô cảm của bà già “khó ưa” Iris. Không dễ gì tìm được một tác giả có giọng văn vừa ngầu đời, bất cần mà vừa lại thi vị và say đắm như vậy. Nó dường như lột tả hết tính cách nhân vật, cô gái tên Iris với một vẻ nhu mì cam chịu nhưng ẩn chứa một nội tâm nổi loạn, cá tính ngang ngạnh tiềm tàng với khát vọng tự do. Không tâm sự hay thở than, không một chút ai oán, Iris chính là hiện thân của tính nữ, mềm mại dịu dàng nhưng không bao giờ đầu hàng hay bỏ cuộc, với sự bền bỉ âm thầm và khôn khéo. Iris là kiểu phụ nữ bao nhiêu sức mạnh lặn cả vào trong để sự nhún nhường ra mặt chiến đấu. Cô kiên cường nhưng không lộ liễu, mạnh mẽ nhưng không phô phang, nữ tính nhưng không ẻo lả. Và vì bà là một nhà thơ, nên chúng ta có một cuốn sách đầy chất thơ và tính ẩn dụ, đồng thời có một cuốn sách gai góc, đầy những vết thương. Tấm vải mà Margaret dệt nên vừa mềm mại vừa thô nhám, vừa êm ái vừa đầy vết cứa. Nó chính là thế giới được chiếu rọi từ ánh sáng phát ra phía tâm hồn những người phụ nữ, đầy nhạy cảm nhưng rất can trường. Không nhiều, nhưng đủ để quàng chiếc khăn lên mình như khát vọng của chính họ, được cuộc đời ôm ấp và vỗ về đầy dịu dàng và đau đớn. Như khoác lên mình thứ mà thế giới này ưu ái dành cho họ, là tình yêu. Một tác phẩm đáng thưởng thức, như lời Margaret mượn của Sheila Watson đề từ: Lời là lửa cháy trong lòng kinh tối. *** Mười ngày sau khi chiến tranh kết thúc, Laura em tôi lái xe lao khỏi cầu. Cầu đang sửa, nó phi thẳng qua biển báo Nguy hiểm. Chiếc xe rơi ba chục mét xuống vực, bổ qua những ngọn cây lơ thơ trổ lá, rồi cháy đùng đùng lăn xuống lòng con suối nông choèn dưới đáy. Từng tảng ván cầu lả tả rơi lên trên. Em tôi không còn lại gì ngoài tro tàn than vụn. Tôi được tin từ một viên cảnh sát: xe là xe tôi, họ tra ra biển số. Anh ta tỏ ra lễ độ: hẳn nhiên anh ta nhận ra họ Richard. Anh ta nói có lẽ bánh bị kẹt vào rãnh xe điện hoặc phanh bị hỏng, nhưng anh cũng có bổn phận báo tôi biết có hai người - một luật sư về hưu và một thu ngân ở nhà băng, toàn những người đáng tin tưởng cả - tự nhận đã chứng kiến từ đầu đến cuối. Họ cho biết Laura đã chủ động quành xe rất gắt, và đâm qua tường cầu thản nhiên cứ như đang bước trên hè xuống. Họ có nhận ra tay em tôi vẫn đặt trên vô lăng nhờ đôi găng trắng. Không phải tại phanh, tôi nghĩ. Nó có những lý do riêng. Không bao giờ giống lý do của ai khác. Về mặt đó nó tàn nhẫn vô cùng. “Tôi nghĩ các anh cần người nhận dạng,” tôi nói. “Tôi sẽ cố gắng xuống đó ngay khi được.” Tôi nghe giọng mình vang lên bình tĩnh, như từ xa vọng lại. Thực tế tôi hầu như không thốt được thành lời; miệng tôi tê dại, mặt sắt lại vì đau. Cảm giác như vừa đi nhổ răng. Tôi tức muốn điên vì việc Laura đã làm, và còn vì viên cảnh sát cả gan ám chỉ nó đã làm thế. Một luồng gió nóng đang cuộn quanh đầu tôi, những cọng tóc bị bốc lên ngoằn ngoèo trong gió, như mực loang trong nước. “Tôi e rằng sẽ có điều tra, thưa bà Griffen,” anh ta nói. “Tôi hiểu mà,” tôi đáp. “Nhưng đây là tai nạn thôi. Em gái tôi chưa bao giờ lái xe thành thạo cả.” Tôi hình dung khuôn mặt trái xoan của Laura, búi tóc cài trâm gọn, chiếc áo chắc hẳn nó mặc lúc ấy: áo chẽn eo cổ tròn khoét hẹp, một màu nghiêm nghị - xanh nước biển hoặc xám ánh thép, hoặc lá cây thứ màu hành lang bệnh viện. Những màu thống hối - nhìn không giống đồ tự chọn, mà như đồ ép mặc trước khi nhốt lại. Nụ cười nửa miệng nghiêm trang; đôi mày nhướng lên kinh ngạc, như là nó đang chiêm ngưỡng khung cảnh trước mắt. Găng tay trắng - cử chỉ học của Pontius Pilatus[1]. Nó đang rửa tay cho sạch khỏi tôi. Khỏi tất cả chúng tôi. Nó nghĩ gì khi chiếc xe bay bổng khỏi cầu, lơ lửng giữa hoàng hôn đầy nắng, lấp loáng như cánh chuồn trong khoảnh khắc nín hơi trước lúc bổ nhào? Nghĩ tới Alex, tới Richard, tới lòng man trá, tới cha chúng tôi và cuộc lụn bại của ông; có lẽ là tới Chúa, và cuộc thỏa thuận tay ba chết người của nó. Hay tới tập vở học trò rẻ tiền hẳn nó đã giấu vừa sáng hôm ấy, trong ngăn để tất của tôi, vì biết tôi sẽ là người tìm thấy. Khi viên cảnh sát đi rồi tôi lên lầu thay áo. Muốn tới nhà xác tôi cần găng tay, và mũ có mạng. Để che đôi mắt. Có thể sẽ có nhà báo. Tôi sẽ phải gọi tắc xi. Cũng cần báo trước cho Richard lúc này đang ở văn phòng; chắc sẽ muốn chuẩn bị trước vài lời ai điếu. Tôi vào phòng thay đồ: cần có đồ đen, và khăn tay nữa. Tôi mở ngăn kéo, nhìn thấy tập vở. Tôi tháo nắm chun chằng chịt buộc ngoài. Tôi nhận ra răng mình đang va lập cập, người mình đang lạnh từ đầu đến chân. Chắc đang bị sốc, tôi kết luận. Trong đầu tôi lúc đó nhớ lại Reenie, từ hồi chúng tôi còn nhỏ. Luôn là Reenie lo lấy bông băng, băng những vết trầy xước hay đứt tay và các thương tích lặt vặt khác: mẹ đang nghỉ, hoặc đi làm việc thiện ở đâu đó, nhưng Reenie thì luôn có mặt. Chị sẽ túm lấy chúng tôi đặt ngồi lên bàn men trắng trong bếp, cạnh chỗ bột làm bánh đang nhào hay con gà đang chặt hoặc con cá đang làm ruột, và dúi cho cục đường đen để chúng tôi ngậm miệng. Nói xem đau ở đâu nào, chị bảo. Đừng có rú lên nữa. Bình tĩnh lại rồi bảo cho tôi đau ở đâu. Nhưng có những người không thể nói được đau ở đâu. Không thể bình tĩnh lại. Thậm chí không thể ngừng rú lên. Mời các bạn đón đọc Tay Sát Thủ Mù của tác giả Margaret Atwood & An Lý (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Cái Chết Giữa Thinh Không - Agatha Christie
Cái Chết Giữa Thinh Không (Cái chết trên mây), Nguyên tác: Death in the Clouds/ Death in the Air. Là tập 12 trong series về Thanh Tra Hercule Poirot. Trên chuyến phi cơ hạng sang Prometheus nhắm hướng bay đến phi trường Croydon, thám tử Hercule Poirot theo thói quen nghề nghiệp đưa mắt theo dõi từng hành khách trên máy bay. Trước tiên là nàng Jane Grey đang ngồi thu mình rụt rè... còn Norman Gale đăm chiêu nghĩ ngợi... đến anh chàng nhà khảo cổ trẻ tuổi Jean Dupont vừa nhổm người đứng dậy giơ tay đập chết con o­ng vò vẽ bay vù vù trên đầu mọi người. Mãi đến lúc phát hiện Madame Giselle ngồi chết ở dãy ghế phía sau khoang tàu, thám tử Hercule Poirot mới nhận ra còn một con o­ng khác nữa, chính là một mũi tên tẩm độc dùng ống xì đồng thổi bay đi.  Tên của Hercule Poirot được lấy theo hai nhân vật thám tử khác là Hercule Popeau của nhà văn Marie Belloc Lowndes' và Monsieur Poiret của Frank Howel Evans trong đó Poiret là một thanh tra cảnh sát người Bỉ đã nghỉ hưu và sống ở Luân Đôn. Hercule Poirot xuất hiện lần đầu trong tiểu thuyết trinh thám đầu tay của Agatha Christie Vụ án bí ẩn ở Styles (The Mysterious Affair at Styles) xuất bản năm 1920. Hercule Poirot bắt đầu thực sự nổi tiếng sau khi tiểu thuyết Vụ ám sát Roger Ackroyd (The Murder of Roger Ackroyd) được Agatha Christie cho xuất bản năm 1926, sau đó nữ nhà văn còn cho ra đời nhiều tiểu thuyết xuất sắc khác về Poirot như Án mạng trên chuyến tàu tốc hành Phương Đông (Murder on the Orient Express), The ABC Murders (1935), Cards on the Table (1936) hay Five Little Pigs (1942). Lần xuất hiện cuối cùng của Poirot là trong tiểu thuyết Thám tử rời sân khấu (Curtain: Poirot's Last Case) xuất bản năm 1975 chỉ một năm trước khi Agatha Christie qua đời. Sau khi Thám tử rời sân khấu được xuất bản, tờ New York Times trong số báo ra ngày 6 tháng 8 năm 1975 đã có một bài điếu văn với tựa đề "Hercule Poirot is Dead; Famed Belgian Detective" ("Hercule Poirot đã chết; Thám tử người Bỉ danh tiếng"), Poirot là nhân vật giả tưởng duy nhất cho đến nay có được vinh dự này. Mặc dù Hercule Poirot là nhân vật xuất hiện nhiều nhất trong số các tiểu thuyết của Agatha Christie nhưng ngày từ năm 1930 nhà văn đã bộc lộ sự chán ngán với nhân vật này, tuy nhiên bà vẫn tiếp tục sáng tác các tiểu thuyết mới xoay quanh viên thám tử người Bỉ vì theo Christie thì nhiệm vụ của nhà văn là sáng tác ra những gì công chúng yêu thích, và Poirot lại là nhân vật được độc giả hết sức yêu mến. *** Agatha Christie sinh năm 1890 tại Torquay, Anh. Cha bà tên là Frederick Miller, nên tên khai sinh của bà là Agatha Miller. Hồi còn nhỏ, Agatha không được tới trường mà chỉ được gia đình thuê gia sư về dạy dỗ tại nhà.    Là một đứa trẻ nhút nhát, khó có thể diễn tả chính xác ý kiến của mình, ban đầu bà tìm đến âm nhạc như một cách giải tỏa tâm sự và sau này là viết sách. Năm 1914, bà kết hôn với Archie Christie, một phi công chiến đấu. Trong khi đức lang quân bận rộn chiến đấu ngoài chiến trường thì bà làm y tá trong bệnh viện. Chính trong thời kỳ này, ý tưởng viết tiểu thuyết trinh thám đã nảy sinh trong tâm trí bà. Chỉ một năm sau bà đã hoàn thành cuốn tiểu thuyết đầu tay mang tên Những bí ẩn vùng Styles, nhưng phải tới 5 năm sau nó mới được xuất bản (1920). Agatha Christie được mọi người tôn vinh là Nữ hoàng truyện trinh thám. Trong suốt cuộc đời mình, bà đã sáng tác 66 tiểu thuyết, rất nhiều truyện ngắn, kịch và hàng loạt tiểu thuyết tình cảm lãng mạn với bút danh là Mary Westmacott. Vở kịch Chiếc bẫy chuột của bà có lẽ là vở kịch trinh thám hay nhất thế giới. Một số tác phẩm của bà đã được chuyển thể thành phim, nổi bật là bộ phim Murder on the Orient Express (Án mạng trên chuyến tàu tốc hành phương Đông) đã đoạt giải thưởng Hàn lâm năm 1974. Tác phẩm của bà được dịch ra hơn 100 thứ tiếng.    Trong suốt cuộc đời mình, nữ nhà văn Agatha Christie luôn căm ghét bạo lực và máu. Bà thường thú nhận rằng không biết gì về những công cụ giết người thông thường. Thậm chí bà cũng chưa từng một lần tiếp xúc với một kẻ giết người. Mời các bạn đón đọc Cái Chết Giữa Thinh Không (Cái chết trên mây) của tác giả Agatha Christie.
Cái Bẫy Chuột - Agatha Christie
Tính đến năm 2007, Vở kịch The Mousetrap (Cái bẫy chuột) của Agatha Christie hiện đang giữ kỷ lục vở kịch được công diễn lâu nhất trong lịch sử sân khấu London, ra mắt lần đầu tại rạp Ambassadors Theatre ngày 25 tháng 11 năm 1952 và vẫn tiếp tục được diễn cho đến nay với trên 20.000 buổi diễn. Nội dung của nó kể về một vụ án mạng có thật, từng gây chấn động Vương quốc Anh vào năm 1945. Chiến tranh thế giới thứ hai, Vương quốc Anh là một trong những đế quốc tham chiến sớm nhất. Cho đến ngày hiệp ước đình chiến được các bên ký kết, tổng thiệt hại về người của đảo quốc sương mù cho cuộc chiến này là 320.000 người. So với những quốc gia tham chiến khác như Liên Xô, Đức, Ba Lan… thì con số này rất "nhỏ". Thế nhưng, chỉ tính riêng tại Vương quốc Anh, thì con số này lớn vô cùng. Ngày 9/1/1945, cậu bé Dennis O’Neill - 13 tuổi bị phát hiện đã chết trong tình trạng thể chất vô cùng kinh khủng. Cậu bé gần như chỉ còn một bộ da bọc xương, cơ thể bầm dập những vết đòn roi, vết đòn cũ chưa mờ thì đã bị che lấp bởi những trận đòn kế tiếp. Dennis và em trai Terence - 11 tuổi, được một đôi vợ chồng trung niên nuôi nhận ở một nông trại hẻo lánh tại Shropshire. 13 giờ chiều, mẹ nuôi của Dennis - bà Esther Gough gọi điện báo với bác sỹ rằng Dennis đã ổn định, sức khỏe đang hồi phục. Thế nhưng đến 15h cùng ngày, khi vị bác sỹ đến nông trại, Dennis đã chết. Và theo khám nghiệm tử thi cũng như kết luận từ các bác sỹ, Dennis đã chết nhiều giờ trước đó. Nước Anh một phen chấn động về cái chết của Dennis. Thời điểm ấy, báo chí xứ sở sương mù chỉ đưa tin về những chiến thắng của quân đội Anh trước phe phát-xít, về hàng nghìn kẻ thù bị tiêu diệt trong ở mỗi chiến trường, về những thiệt hại của người Anh trong cuộc chiến. Vậy nhưng, hình ảnh về cái chết thương tâm của Dennis O’Neill vẫn khiến tất cả phải ngậm ngùi. Kết quả khám nghiệm tử thi gây sốc với tất cả. Dennis bị trụy tim do bị đánh quá mạnh vào lồng ngực. Cậu bé bị giết, chứ không phải vì chết đói nữa. Dennis chết, chỉ 2 ngày trước sinh nhật tuổi 13. Và phải có kẻ phải chịu trách nhiệm cho tội ác này. *** Agatha Christie sinh năm 1890 tại Torquay, Anh. Cha bà tên là Frederick Miller, nên tên khai sinh của bà là Agatha Miller. Hồi còn nhỏ, Agatha không được tới trường mà chỉ được gia đình thuê gia sư về dạy dỗ tại nhà.    Là một đứa trẻ nhút nhát, khó có thể diễn tả chính xác ý kiến của mình, ban đầu bà tìm đến âm nhạc như một cách giải tỏa tâm sự và sau này là viết sách. Năm 1914, bà kết hôn với Archie Christie, một phi công chiến đấu. Trong khi đức lang quân bận rộn chiến đấu ngoài chiến trường thì bà làm y tá trong bệnh viện. Chính trong thời kỳ này, ý tưởng viết tiểu thuyết trinh thám đã nảy sinh trong tâm trí bà. Chỉ một năm sau bà đã hoàn thành cuốn tiểu thuyết đầu tay mang tên Những bí ẩn vùng Styles, nhưng phải tới 5 năm sau nó mới được xuất bản (1920). Agatha Christie được mọi người tôn vinh là Nữ hoàng truyện trinh thám. Trong suốt cuộc đời mình, bà đã sáng tác 66 tiểu thuyết, rất nhiều truyện ngắn, kịch và hàng loạt tiểu thuyết tình cảm lãng mạn với bút danh là Mary Westmacott. Vở kịch Chiếc bẫy chuột của bà có lẽ là vở kịch trinh thám hay nhất thế giới. Một số tác phẩm của bà đã được chuyển thể thành phim, nổi bật là bộ phim Murder on the Orient Express (Án mạng trên chuyến tàu tốc hành phương Đông) đã đoạt giải thưởng Hàn lâm năm 1974. Tác phẩm của bà được dịch ra hơn 100 thứ tiếng.    Trong suốt cuộc đời mình, nữ nhà văn Agatha Christie luôn căm ghét bạo lực và máu. Bà thường thú nhận rằng không biết gì về những công cụ giết người thông thường. Thậm chí bà cũng chưa từng một lần tiếp xúc với một kẻ giết người. Mời các bạn đón đọc Cái Bẫy Chuột của tác giả Agatha Christie.
Ba Điều Bí Ẩn - Agatha Christie
Ba Điều Bí Ẩn là tập 18 trong series về Thanh Tra Hercule Poirot. Tên của Hercule Poirot được lấy theo hai nhân vật thám tử khác là Hercule Popeau của nhà văn Marie Belloc Lowndes' và Monsieur Poiret của Frank Howel Evans trong đó Poiret là một thanh tra cảnh sát người Bỉ đã nghỉ hưu và sống ở Luân Đôn. Hercule Poirot xuất hiện lần đầu trong tiểu thuyết trinh thám đầu tay của Agatha Christie Vụ án bí ẩn ở Styles (The Mysterious Affair at Styles) xuất bản năm 1920. Hercule Poirot bắt đầu thực sự nổi tiếng sau khi tiểu thuyết Vụ ám sát Roger Ackroyd (The Murder of Roger Ackroyd) được Agatha Christie cho xuất bản năm 1926, sau đó nữ nhà văn còn cho ra đời nhiều tiểu thuyết xuất sắc khác về Poirot như Án mạng trên chuyến tàu tốc hành Phương Đông (Murder on the Orient Express), The ABC Murders (1935), Cards on the Table (1936) hay Five Little Pigs (1942). Lần xuất hiện cuối cùng của Poirot là trong tiểu thuyết Thám tử rời sân khấu (Curtain: Poirot's Last Case) xuất bản năm 1975 chỉ một năm trước khi Agatha Christie qua đời. Sau khi Thám tử rời sân khấu được xuất bản, tờ New York Times trong số báo ra ngày 6 tháng 8 năm 1975 đã có một bài điếu văn với tựa đề "Hercule Poirot is Dead; Famed Belgian Detective" ("Hercule Poirot đã chết; Thám tử người Bỉ danh tiếng"), Poirot là nhân vật giả tưởng duy nhất cho đến nay có được vinh dự này. Mặc dù Hercule Poirot là nhân vật xuất hiện nhiều nhất trong số các tiểu thuyết của Agatha Christie nhưng ngày từ năm 1930 nhà văn đã bộc lộ sự chán ngán với nhân vật này, tuy nhiên bà vẫn tiếp tục sáng tác các tiểu thuyết mới xoay quanh viên thám tử người Bỉ vì theo Christie thì nhiệm vụ của nhà văn là sáng tác ra những gì công chúng yêu thích, và Poirot lại là nhân vật được độc giả hết sức yêu mến. *** Hamborough Close, Westshire Ngày 24-9-1936 Kính gửi ông Hercule Poirot, Một vụ việc vừa phát sinh, đòi hỏi sự xử lý tinh tế và kín đáo. Tôi đã nghe nhiều người nói tốt về ông, nên quyết định giao phó việc này cho ông. Tôi có nhiều lý do để tự tin mình là nạn nhân của một vụ gian lận, Nhưng vì lý do gia đình, không muốn kêu cảnh sát. Tôi đã có một số biện pháp để phòng thân và đối phó với tình hình, nhưng ông cần sẵn sàng đến đây ngaykhi vừa nhận được điện. Ông khỏi cần trả lời thư này, xin gửi tới ông lòng biết ơn. Kính thư: Gervase Chevenix-Gore *** Agatha Christie sinh năm 1890 tại Torquay, Anh. Cha bà tên là Frederick Miller, nên tên khai sinh của bà là Agatha Miller. Hồi còn nhỏ, Agatha không được tới trường mà chỉ được gia đình thuê gia sư về dạy dỗ tại nhà.    Là một đứa trẻ nhút nhát, khó có thể diễn tả chính xác ý kiến của mình, ban đầu bà tìm đến âm nhạc như một cách giải tỏa tâm sự và sau này là viết sách. Năm 1914, bà kết hôn với Archie Christie, một phi công chiến đấu. Trong khi đức lang quân bận rộn chiến đấu ngoài chiến trường thì bà làm y tá trong bệnh viện. Chính trong thời kỳ này, ý tưởng viết tiểu thuyết trinh thám đã nảy sinh trong tâm trí bà. Chỉ một năm sau bà đã hoàn thành cuốn tiểu thuyết đầu tay mang tên Những bí ẩn vùng Styles, nhưng phải tới 5 năm sau nó mới được xuất bản (1920). Agatha Christie được mọi người tôn vinh là Nữ hoàng truyện trinh thám. Trong suốt cuộc đời mình, bà đã sáng tác 66 tiểu thuyết, rất nhiều truyện ngắn, kịch và hàng loạt tiểu thuyết tình cảm lãng mạn với bút danh là Mary Westmacott. Vở kịch Chiếc bẫy chuột của bà có lẽ là vở kịch trinh thám hay nhất thế giới. Một số tác phẩm của bà đã được chuyển thể thành phim, nổi bật là bộ phim Murder on the Orient Express (Án mạng trên chuyến tàu tốc hành phương Đông) đã đoạt giải thưởng Hàn lâm năm 1974. Tác phẩm của bà được dịch ra hơn 100 thứ tiếng.    Trong suốt cuộc đời mình, nữ nhà văn Agatha Christie luôn căm ghét bạo lực và máu. Bà thường thú nhận rằng không biết gì về những công cụ giết người thông thường. Thậm chí bà cũng chưa từng một lần tiếp xúc với một kẻ giết người. Mời các bạn đón đọc Ba Điều Bí Ẩn của tác giả Agatha Christie.
Thành Phố Trộm - David Benioff
Trong cuộc phong tỏa Leningrad tàn bạo của quân Đức, Lev Beniov bị bắt vì tội hôi của và bị ném vào cùng xà lim với tên đào ngũ điển trai tên Kolya. Thay vì bị hành quyết, Lev và Kolya còn có cơ hội giữ mạng sống bằng cách thực thi một nhiệm vụ tưởng chừng không thể: tìm về một tá trứng. Trong một thành phố bị cắt đứt mọi nguồn tiếp tế và chịu sự thiếu đói không thể tin nổi, Lev và Kolya dấn thân vào một cuộc săn lùng qua khắp tình trạng hỗn loạn tàn khốc của Leningrad và đằng sau phòng tuyến địch để tìm cái bất khả. Với những diễn biến khôi hài và thâm thúy, kinh hoàng và xúc động, Thành Phố Trộm là một cuộc phiêu lưu Thế chiến 2 nghẹt thở, đầy chất điện ảnh, là câu chuyện của lứa tuổi thành niên thân thiết với cảm xúc cực kỳ hiện đại để nói về quá trình các chàng trai trở thành đàn ông. “Cuốn tiểu thuyết thứ hai của David Benioff khắc họa một cốt truyện mạnh mẽ, một tình bạn sôi nổi, một chuyện yêu đương kỳ quặc, đủ hạng người xấu đáng sợ, một bầu không khí chập chờn giữa chủ nghĩa hiện thực thô sượng và sự lố bịch kiểu thần thoại và một khiếu hài tăm tối nhưng khó cưỡng; thật ra là mọi thứ mà bạn đọc có thể mong đợi ở một câu chuyện về tình bạn đặt trong bối cảnh quân Đức bao vây Leningrad trong Thế chiến 2.” *** Mùa đông năm 1941, Leningrad bị quân Đức vây hãm gắt gao. Gió rét cắt da cắt thịt, mọi mẩu gỗ trong thành phố đều đã biến mất và cháy trong bếp lò của ai đó, thức ăn đã từ lâu biến thành giấc mơ xa xỉ, những cư dân với phần ăn tem phiếu khiêm tốn trở nên gầy rộc vì đói kém và mọi hành vi phạm tội đều bị hành quyết bởi không có đủ lương thực nuôi tù nhân. Khi Lev Beniov bị bắt vì tội hôi của, cậu đã nghĩ mình sẽ chết chắc, cho đến khi bị ném vào cùng xà lim với tên đào ngũ điển trai Kolya. Họ có cơ hội được sống bằng cách thực hiện một nhiệm vụ bất khả thi: tìm về một tá trứng để làm bánh cho đám cưới của con gái ông đại tá. Trong một thành phố bị cắt đứt mọi nguồn tiếp tế và dường như không còn chút thực phẩm nào, Lev và Kolya đã dấn thân vào cuộc săn lùng không thể nào quên… Lev mười bảy tuổi, thân hình gầy gò càng thêm còi cọc vì thiếu ăn, tự nhận không phải là ý trung nhân lý tưởng của con gái, vẫn còn khá ngây thơ và chưa biết tình yêu là gì. Trong khi đó, Kolya hoàn toàn ngược lại: điển trai, khỏe mạnh, tự tin, là một gã khoác lác biết tuốt và nói nhiều không thể tin được. Đồng thời, Kolya là người tử tế, nghĩa hiệp, liều lĩnh, và là bộ óc chỉ dẫn lẫn hành động cho cả hai người. Nhưng dù trái ngược nhau về cả ngoại hình và tính cách, họ vẫn là một cặp bài trùng cực kỳ hợp rơ. Kolya đóng vai trò là người chăm sóc, còn Lev với vai trò một người lắng nghe và chia sẻ. Ngay từ lần đầu gặp mặt, Kolya đã cho Lev một miếng xúc xích ngon lành, rồi không ít lần bảo vệ cho Lev như thể đang bảo vệ một đứa em trai thân thiết. Còn Lev, mặc dù hay cáu kỉnh vì Kolya cứ lải nhải suốt trên hành trình, nhưng vẫn kiên nhẫn lắng nghe những câu chuyện của Kolya mà hóa ra đó chính là câu chuyện anh ta sáng tác. Tình bạn của họ, không phải là kiểu săn sóc cho nhau từng ly từng tí, đây là kiểu tình bạn điển hình của hai đứa con trai: trêu chọc và khiêu khích, nói tục, tình yêu, tình dục, ban đầu là khó chịu và tưởng như không thể hòa hợp, rốt cuộc lại nảy nở rực rỡ, sôi nổi, ồn ào nhưng sâu sắc và cảm động một cách diệu kỳ. Kolya thường vòng tay lên vai Lev và nói đủ thứ chuyện, khi thì để khai thông đầu óc vẫn còn ngây thơ của Lev, khi thì chia sẻ những khát khao bình dị hoặc kể tiếp câu chuyện dở dang… Thật ra, người thuần khiết nhất chỉ thích cho đi mà không cần nhận lại, và người ngây thơ nhất không cần biết phía trước là muôn vàn khó khăn chết chóc, người lạc quan nhất hài hước ngay cả khi cận kề cái chết, lại chính là Kolya.    Hành trình đi tìm trứng băng qua cả thành phố đến tận chiến tuyến kẻ thù cũng là hành trình băng qua súng đạn tàn khốc, băng qua những hậu quả nặng nề của chiến tranh, đối diện với cái đói khủng khiếp và cái lạnh tê người, chứng kiến những phận người lụi tàn và bất hạnh mà họ không thể nào giúp đỡ gì được vì chính họ cũng đang bị cái đói cào xé. Trong hành trình đó, họ đã trưởng thành hơn, Lev đã can đảm hơn và có thể tự hào kể lại đã đoạt mạng hai tên Đức bằng dao khi chưa đủ mười tám tuổi. Họ dấn thân vào cuộc phiêu lưu với mục đích được sống, nhưng đôi khi chỉ mong ước có một miếng bánh mì thật hay một miếng xúc xích thật, hoặc Lev thì ganh tị với Kolya vì được ngủ với Sonya xinh đẹp tốt bụng, hay như Kolya sẽ mở tiệc ăn mừng nếu có thể đi ị. Khôi hài, trần trụi nhưng sâu cay, những bất hạnh này chẳng phải để tố cáo hiện thực chiến tranh, mà sao vẫn nghe sống mũi cay cay. Khi mà chất bi kịch hòa lẫn trong hài kịch, khi mà nước mắt của cái đau khổ được giấu sâu cùng trong những cái cười khôi hài, thì những cái bất hạnh này đã trở nên quá lớn để nghĩ đến. Họ chỉ chấp nhận số phận của mình.    Giọng văn phóng khoáng và táo tợn, ngôn ngữ rất đời và rất chân thực, dùng những mảnh đời bất hạnh và những khát khao trần trụi để mô tả tinh vi bức tranh hiện thực của chiến tranh làm bối cảnh cho một tình bạn lạ kỳ. Diễn biến nhanh và thu hút như một bộ phim điện ảnh, dễ dàng đọc liền mạch từ trang đầu tiên đến trang cuối cùng, mới cười đó rồi lại tê dại đi sau đó, để lại sau cùng một ấn tượng mạnh mẽ về một tình bạn trong hoàn cảnh bắt buộc đã nhanh chóng nảy sinh và gắn bó không thể quên đến cuối đời. *** David Benioff sinh năm 1970 tại New York trong một gia đình Do Thái. Ông là nhà văn, nhà biên kịch, nhà sản xuất truyền hình và đạo diễn. David Benioff là một nhà biên kịch và nhà sản xuất truyền hình, nhà văn và đạo diễn người Mỹ. Cùng với cộng tác viên của mình D. B. Weiss, anh được biết đến nhiều nhất với tư cách là đồng sáng tạo, người dẫn chương trình và nhà văn của Game of Thrones, bộ phim chuyển thể từ HBO của George R. R. Mời các bạn đón đọc Thành Phố Trộm của tác giả David Benioff.