Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Tây Du Ký (Ngô Thừa Ân)

Trong tiểu thuyết, Trần Huyền Trang (陳玄奘) được Quan Âm Bồ Tát bảo đến Tây Trúc (Ấn Độ) thỉnh kinh Phật giáo mang về Trung Quốc. Theo ông là 4 đệ tử - một khỉ đá tên Tôn Ngộ Không (孫悟空), một yêu quái nửa người nửa lợn tên Trư Ngộ Năng (豬悟能) và một thủy quái tên Sa Ngộ Tĩnh (沙悟淨) - họ đều đồng ý giúp ông thỉnh kinh để chuộc tội. Con ngựa Huyền Trang cưỡi cũng là một hoàng tử của Long Vương (Bạch Long Mã).

Những chương đầu thuật lại những kì công của Tôn Ngộ Không, từ khi ra đời từ một hòn đá ở biển Hoa Đông, xưng vương ở Hoa Quả Sơn, tìm sư học đạo, đại náo thiên cung, sau đó bị Phật Tổ Như Lai bắt nhốt trong Ngũ Hành Sơn 500 năm. Truyện kể lại Huyền Trang trở thành một nhà sư ra sao và được hoàng đế nhà Đường gửi đi thỉnh kinh sau khi hoàng đế thoát chết.[cần dẫn nguồn]

Phần tiếp của câu chuyện kể về các hiểm nguy mà thầy trò Đường Tam Tạng phải đối đầu, trong đó nhiều yêu quái là đồ đệ của các vị Tiên, Phật. Một số yêu tinh muốn ăn thịt Huyền Trang, một số khác muốn cám dỗ họ bằng cách biến thành những mỹ nhân. Tôn Ngộ Không phải sử dụng phép thuật và quan hệ của mình với thế giới yêu quái và Tiên, Phật để đánh bại các kẻ thù nhiều mánh khóe, như Ngưu Ma Vương hay Thiết Phiến Công chúa,...

Cuối cùng khi đã đến cửa Phật, thầy trò họ lại phải đổi Bát vàng của Hoàng đế Đường Thái Tông tặng để nhận được kinh thật. Đây cũng được tính là một khổ nạn cho bốn thầy trò. Khi qua sông Thông Thiên, Tam Tạng gặp lại Lão Rùa năm xưa chở ông qua sông. Khi đang chở Tam Tạng qua giữa sông, Lão Rùa hỏi Tam Tạng rằng ông có hỏi Phật Tổ giúp lão rằng bao giờ lão tu đắc chính quả không, vì Tam Tạng quên hỏi nên bị Lão Rùa hất cả bốn thầy trò lẫn kinh văn xuống sông. Kinh văn bị ướt, sau khi phơi khô một số bị rách. Vì thế mà kinh về đến Trung thổ không được toàn vẹn.

Bốn nhân vật chính, từ trái sang phải: Tôn Ngộ Không, Huyền Trang, Trư Ngộ Năng, Sa Ngộ Tĩnh và Bạch Long mã Tìm mua: Tây Du Ký TiKi Lazada Shopee

Mục lục

Hồi thứ nhất: Gốc thiêng ấp ủ nguồn rộng chảy - Tâm tính sửa sang đạo lớn sinh.

Hồi thứ hai: Thấu lẽ Bồ Đề là diệu lý - Bỏ ma về gốc ấy nguyên thần.

Hồi thứ ba: Bốn biển nghìn non đều sợ phục - Mười loại âm ti thảy xóa tên.

Hồi thứ tư: Quan phong Bật Mã lòng đâu thỏa - Tên gọi Tề Thiên dạ chẳng yên.

Hồi thứ năm: Loạn vườn đào Đại Thánh trộm thuốc tiên - Về thiên cung các thần bắt yêu quái.

Hồi thứ sáu: Quan Âm dự hội hỏi nguyên nhân - Tiểu Thánh trổ tài bắt Đại Thánh.

Hồi thứ bảy: Đại Thánh trốn khỏi lò bát quái - Hầu vương giam dưới núi Ngũ hành.

Hồi thứ tám: Phật Tổ tạo kinh truyền cực lạc - Quan Âm vâng mệnh đến Tràng An.

Hồi thứ chín: Trần Quang Nhị nhậm chức gặp nạn - Sư Giang Lưu phục thù báo ơn.

Hồi thứ mười: Lão Long vương vụng kế phạm phép trời - Ngụy Thừa tướng gửi thư nhờ âm sứ.

Hồi thứ mười một: Chơi âm phủ Thái Tông về trần - Dâng quả bí Lưu Toàn gặp vợ.

Hồi thứ mười hai: Vua Đường lòng thành mở đại hội - Quan Âm hiển thánh hóa Kim Thiền.

Hồi thứ mười ba: Sa hang cọp Kim Tinh cứu thoát - Núi Song Xoa Bá Khâm mời sư.

Hồi thứ mười bốn: Lòng vượn theo đường chính - Sáu giặc mất tăm hơi.

Hồi thứ mười lăm: Núi Xà Bàn các thần ngầm giúp - Khe Ưng Sầu long mã thắng cương.

Hồi thứ mười sáu: Viện Quan Âm, các sư lừa bảo bối - Núi Hắc Phong, yêu quái lấy trộm cà sa.

Hồi thứ mười bảy: Tôn Hành Giả đại náo núi Hắc Phong - Quan Thế Âm thu phục yêu tinh gấu.

Hồi thứ mười tám: Chùa Quan Âm, Đường Tăng thoát nạn - Thôn Cao Lão, Đại Thánh trừ ma.

Hồi thứ mười chín: Động Vân Sạn, Ngộ Không thu Bát Giới - Núi Phù Đồ, Tam Tạng nhận Tâm kinh.

Hồi thứ hai mươi: Núi Hoàng Phong, Đường Tăng gặp nạn - Giữa rừng thẳm, Bát Giới lập công

Hồi thứ hai mươi mốt: Hộ pháp dựng nhà lưu Đại Thánh - Tu Di Linh Cát bắt yêu ma.

Hồi thứ hai mươi hai: Bát Giới đại chiến sông Lưu Sa - Mộc Soa vâng lệnh bắt Ngộ Tĩnh.

Hồi thứ hai mươi ba: Tam Tạng không quên gốc - Bốn Thánh thử lòng thiền.

Hồi thứ hai mươi tư: Núi Vạn Thọ, Đại tiên lưu bạn cũ - Quán Ngũ Trang, Hành Giả trộm nhân sâm.

Hồi thứ hai mươi lăm: Trấn Nguyên đại tiên đuổi bắt người lấy kinh - Tôn Hành Giả đại náo Ngũ Trang quán.

Hồi thứ hai mươi sáu: Khắp ba đảo, Ngộ Không tìm thuốc - Nước Cam Lộ, Bồ Tát chữa cây.

Hồi thứ hai mươi bảy: Thây ma ba lượt trêu Tam Tạng - Đường Tăng giận đuổi Mỹ Hầu Vương.

Hồi thứ hai mươi tám: Núi Hoa Quả lũ yêu tụ nghĩa - Rừng Hắc Tùng Tam Tạng gặp ma.

Hồi thứ hai mươi chín: Thoát nạn Giáng Lưu sang nước khác - Đội ơn Bát Giới chuyển non ngàn.

Hồi thứ ba mươi: Tà ma phạm chính đạo - Tiểu Long nhớ Ngộ Không.

Hồi thứ ba mươi mốt: Trư Bát Giới lấy nghĩa khích Hầu Vương - Tôn Ngộ Không dùng mưu hàng yêu quái.

Hồi thứ ba mươi hai: Núi Bình Đính, Công tào truyền tín - Động Liên Hoa, Bát Giới gặp tai.

Hồi thứ ba mươi ba: Ngoại đạo mê chân tính - Nguyên thần giúp bản tâm.

Hồi thứ ba mươi tư: Ma vương giỏi mẹo khốn Hầu Vương - Đại Thánh khéo lừa thay bảo bối.

Hồi thứ ba mươi lăm: Ngoại đạo ra oai lừa tính thẳng - Ngộ Không được báu thắng yêu ma.

Hồi thứ ba mươi sáu: Ngộ Không xử đúng muôn duyên phục - Đạo tà phá bỏ thấy trăng soi.

Hồi thứ ba mươi bảy: Đêm khuya vua quỷ cầu Tam Tạng - Hóa phép Ngộ Không dắt trẻ thơ.

Hồi thứ ba mươi tám: Trẻ thơ hỏi mẹ tà hay chính - Kim Mộc thăm dò rõ thực hư.

Hồi thứ ba mươi chín: Một hạt linh đơn xin thượng giới - Ba năm vua cũ lại hồi sinh.

Hồi thứ bốn mươi: Trẻ thơ bỡn cợt lòng thiền rối - Vượn cắp đao về Mộc mẫu trơ

Hồi thứ bốn mươi mốt: Hành Giả gặp lửa thua - Bát Giới bị ma bắt.

Hồi thứ bốn mươi hai: Đại Thánh ân cần cầu Bồ Tát - Quan Âm từ thiện trói Hồng Hài.

Hồi thứ bốn mươi ba: Ma sông Hắc Thủy bắt Tam Tạng - Rồng biển Tây Dương tóm Đà Long.

Hồi thứ bốn mươi bốn: Thần thông vận phép đun xe nặng - Tâm chính trừ yêu vượt cổng cao.

Hồi thứ bốn mươi lăm: Quán Tam Thanh, Đại Thánh lưu danh - Nước Xa Trì, Hầu Vương hóa phép.

Hồi thứ bốn mươi sáu: Ngoại đạo cậy tài lừa chính pháp - Ngộ Không hiển thánh diệt tà ma.

Hồi thứ bốn mươi bảy: Thánh Tăng đêm vướng sông Thông Thiên - Hành Giả thương tình cứu con trẻ.

Hồi thứ bốn mươi tám: Ma nổi gió hàn sa tuyết lớn - Sư mong bái Phật giẫm băng dày.

Hồi thứ bốn mươi chín: Tam Tạng gặp nạn chìm đáy sông - Quan Âm trừ tai hiện làng cá.

Hồi thứ năm mươi: Tình loạn, tính theo vì ái dục - Thần mờ, tâm động gặp yêu ma.

Hồi thứ năm mươi mốt: Nghìn mưu Đại Thánh thành vô dụng - Nước lửa không công khó diệt ma.

Hồi thứ năm mươi hai: Ngộ Không đại náo động Kim Đâu - Như Lai ngầm mách cho ông chủ.

Hồi thứ năm mươi ba: Uống nước sông, Tam Tạng mang nghén quỷ - Đi lấy nước, Sa Tăng giải thai ma.

Hồi thứ năm mươi tư: Tam Tạng sang Tây qua nước gái - Ngộ Không lập mẹo thoát trăng hoa.

Hồi thứ năm mươi lăm: Dâm tà bỡn cợt Đường Tam Tạng - Đứng đắn tu trì chẳng hoại thân.

Hồi thứ năm mươi sáu: Điên lòng trừ giặc cỏ - Mê đạo đuổi Ngộ Không.

Hồi thứ năm mươi bảy: Núi Lạc Già, Hành Giả thật kể khổ - Động Thủy Liêm, Hầu Vương giả đọc văn.

Hồi thứ năm mươi tám: Nhị tâm làm loạn càn khôn rộng - Một thể khó tu tịch diệt chân.

Hồi thứ năm mươi chín: Tam Tạng gặp Hỏa Diệm Sơn nghẽn lối - Hành Giả lần đầu mượn quạt Ba Tiêu.

Hồi thứ sáu mươi: Ma vương ngừng đánh đi dự tiệc rượu - Hành Giả hai lần mượn quạt Ba Tiêu.

Hồi thứ sáu mươi mốt: Bát Giới giúp sức đánh bại yêu quái - Hành Giả lần ba mượn quạt Ba Tiêu.

Hồi thứ sáu mươi hai: Tắm bụi rửa tâm lên quét tháp - Bắt ma về chủ ấy tu thân.

Hồi thứ sáu mươi ba: Hai sư diệt quái náo long cung - Các thánh trừ tà thu bảo bối.

Hồi thứ sáu mươi tư: Núi Kinh Cát, Ngộ Năng gắng sức - Am Mộc Tiên, Tam Tạng làm thơ.

Hồi thứ sáu mươi lăm: Yêu ma bày đặt Lôi Âm giả - Thầy trò đều gặp ách nạn to.

Hồi thứ sáu mươi sáu: Các thần gặp độc thủ - Di Lặc trói yêu ma.

Hồi thứ sáu mươi bảy: Cứu xóm Đà La thiền tính vững - Thoát đường ô uế đạo tâm trong.

Hồi thứ sáu mươi tám: Nước Chu Tử, Đường Tăng bàn đời trước - Chữa quốc vương, Hành Giả đóng thầy lang.

Hồi thứ sáu mươi chín: Hành Giả nửa đêm điều thuốc tễ - Quân vương trên tiệc kể yêu ma.

Hồi thứ bảy mươi: Yêu ma rung vòng tung khói lửa - Hành Giả trộm nhạc tính mẹo lừa.

Hồi thứ bảy mươi mốt: Hành Giả giả danh hàng quái sấu - Quan Âm hiện tướng phục Ma vương.

Hồi thứ bảy mươi hai: Động Bàn Ty bảy tinh mê gốc - Suối Trạc Cấu Bát Giới quên hình.

Hồi thứ bảy mươi ba: Hận cũ bởi tình, gây nên đầu độc mới - Đường Tăng gặp nạn, Tỳ Lam phá hào quang.

Hồi thứ bảy mươi tư: Trường Canh truyền báo ma hung dữ - Hành Giả ra tay trổ phép tài.

Hồi thứ bảy mươi lăm: Hành Giả khoan thủng bình âm dương - Ma chúa theo về chân đại đạo.

Hồi thứ bảy mươi sáu: Hành Giả tha về, ma theo tính cũ - Ngộ Năng cùng đánh, quái vẫn tâm xưa.

Hồi thứ bảy mươi bảy: Yêu ma lừa bản tính - Nhất thể bái chân như.

Hồi thứ bảy mươi tám: Nước Tỳ Khưu thương trẻ, khiến âm thần - Điện Kim Loan biết ma, bàn đạo đức.

Hồi thứ bảy mươi chín: Tìm hang bắt quái gặp Thọ Tinh, Ra điện dạy vua mừng nhận trẻ.

Hồi thứ tám mươi: Gái đẹp thèm lấy chồng, mừng được sánh đôi - Ngộ Không bảo vệ thầy, biết ngay yêu quái.

Hồi thứ tám mươi mốt: Chùa Trấn Hải, Ngộ Không biết quái - Rừng Hắc Tùng, đồ đệ tìm thầy.

Hồi thứ tám mươi hai: Gái đẹp tìm cách lấy chồng - Sư phụ bền lòng giữ đạo.

Hồi thứ tám mươi ba: Ngộ Không biết rõ đầu đuôi - Gái đẹp lại về bản tính.

Hồi thứ tám mươi tư: Khó diệt nhà sư tròn giác ngộ - Phép vương thành đạo thể theo trời.

Hồi thứ tám mươi lăm: Hành Giả đố kỵ lừa Bát Giới - Ma vương bày mẹo bắt Đường Tăng.

Hồi thứ tám mươi sáu: Bát Giới giúp oai trừ quái vật - Ngộ Không trổ phép diệt yêu tà.

Hồi thứ tám mươi bảy: Quận Phượng Tiên khinh trời bị hạn - Tôn Đại Thánh khuyến thiện làm mưa.

Hồi thứ tám mươi tám: Thiền đến Ngọc Hoa thi võ nghệ - Ba trò xin phép nhận môn đồ.

Hồi thứ tám mươi chín: Quái Hoàng Sư hỏng mất hội đinh ba - Ba đồ đệ đại náo núi Đầu Báo.

Hồi thứ chín mươi: Quái Sư Tử bắt thầy trò Tam Tạng - Tiên Thiên Tôn thu yêu quái chín đầu.

Hồi thứ chín mươi mốt: Phủ Kim Bình đêm nguyên tiêu xem hội - Động Huyền Anh Đường Tam Tạng khai cung.

Hồi thứ chín mươi hai: Ba sư đại chiến núi Thanh Long - Bốn sao vây bắt quái tê giác.

Hồi thứ chín mươi ba: Vườn Cấp Cô hỏi cổ bàn nguồn - Nước Thiên Trúc chầu vua được vợ.

Hồi thứ chín mươi tư: Bốn sư dự tiệc vườn thượng uyển - Một quái mơ màng tình ái vui.

Hồi thứ chín mươi lăm: Giả hợp chân hình bắt thỏ ngọc - Chân âm về chính gặp nguồn thiêng.

Hồi thứ chín mươi sáu: Khấu viên ngoại mừng đãi cao tăng - Đường trưởng lão không màng phú quý.

Hồi thứ chín mươi bảy: Vàng mang trả gây thành tai họa - Thánh hiện hồn cứu thoát cao tăng.

Hồi thứ chín mươi tám: Vượn ngựa thục thuần nay thoát xác - Công quả viên mãn gặp Như Lai.

Hồi thứ chín mươi chín: Tám mươi mốt nạn yêu ma hết - Vẹn tròn công quả đạo về nguồn.

Hồi thứ một trăm: Về thẳng phương Đông - Năm Thánh thành Phật.

Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Tây Du Ký PDF của tác giả Ngô Thừa Ân nếu chưa có điều kiện.

Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.

Nguồn: thuviensach.vn

Đọc Sách

Những Con Đường Của Ánh Sáng - Tập 1 (Trịnh Xuân Thuận)
Trong cuốn sách Những Con Đường Của Ánh Sáng (Tập 1), Trịnh Xuân Thuận đã thảo luận về ánh sáng, và liên quan tới nó là bóng tối, trên nhiều phương diện, bao gồm tầm quan trọng của nó đối với sự sống, đối với khoa học, sự diễn giải ánh sáng của bộ não, nghệ thuật của các hoạ sĩ thuộc trường phái ấn tượng, việc sử dụng ánh sáng trong kiến trúc và các khía cạnh tâm linh của ánh sáng... Cuốn sách này cũng là bản sử thi về cuộc hành trình của con người đi vào vương quốc của ánh sáng và giải mã những bí mật của nó Ánh sáng là người bạn tri kỉ của tôi. Trong công việc của nhà vật lý thiên văn, tôi thường xuyên phải làm việc với nó. Nó là phương tiện đặc ân mà tôi có để đối thoại với vũ trụ. Các hạt có năng lượng cao phát ra từ các cơn hấp hối bùng nổ của các ngôi sao nặng, mà người ta gọi là các “tia vũ trụ”, hay các sóng hấp dẫn, các sóng độ cong của không gian được tạo ra từ sự co mạnh ở lõi của một khôi sao nặng để trở thành nơi giam cầm ánh sáng - một lỗ đen -, hay từ chuyển động điên cuồng của một cặp lỗ đen nhảy múa quanh nhau, đều mang đến cho chúng ta rất nhiều thông tin mới lạ về không gian xa xôi. Nhưng không phải các tia vũ trụ, cũng chẳng phải các sóng hấp dẫn là các sứ giả chính của vũ trụ. Chính ánh sáng mới là cái đảm nhiệm vai trò này. Không còn nghi ngờ gì nữa, phần lớn các thông tin về vũ trụ mà chúng ta biết được đều là nhờ sự giúp đỡ hữu hiệu và trung thành của ánh sáng. Đó là sứ giả tuyệt vời nhất của vũ trụ. Chính ánh sáng cho phép chúng ta giao tiếp và kết nối với vũ trụ. Chính ánh sáng đã chuyển tải những đoạn nhạc và các nốt rời rạc của cái giai điệu bí ẩn của vũ trụ mà con người kỳ công tái dựng với tất cả vẻ đẹp tráng lệ của nó. Ánh sáng đóng vai trò sứ giả của vũ trụ nhờ ba tính chất cơ bản mà các bà mụ đã ban tặng cho nó lúc chào đời: 1) ánh sáng không lan truyền tức thì, và phải mất một khoảng thời gian mới đến được chỗ chúng ta; 2) ánh sáng tương tác với vật chất; và 3) ánh sáng thay đổi màu sắc khi được phát đi bởi một nguồn sáng chuyển động đối với người quan sát. Tìm mua: Những Con Đường Của Ánh Sáng - Tập 1 TiKi Lazada Shopee Bởi vì ánh sáng không lan truyền tức thì, nên chúng ta nhìn vũ trụ bao giờ cũng muộn hơn, và chính điều này cho phép chúng ta lần ngược trở lại theo thời gian, để khám phá quá khứ của vũ trụ và tái tạo bản sử thi hoành tráng và kỳ diệu của vũ trụ khoảng 14 tỉ năm dẫn đến chúng ta. Ngay cả khi ánh sáng lan truyền với vận tốc lớn nhất có thể trong vũ trụ: 300.000 kilômét mỗi giây - một cái nháy mắt là ánh sáng đã có thể chạy bảy vòng quanh Trái đất! -, thì ở thang vũ trụ vận tốc ấy cũng chỉ như rùa bò. Bởi vì nhìn xa, nghĩa là nhìn sớm - chúng ta nhìn Mặt trăng muộn hơn hơn một giây, Mặt trời gần tám phút, ngôi sao gần nhất hơn bốn năm, thiên hà gần nhất giống dải Ngân hà của chúng ta, thiên hà Andromède, sau 2,3 triệu năm, các quasar 1 xa nhất sau khoảng mười hai tỉ năm -, nên các kính thiên văn, hay còn gọi là các giáo đường của thời hiện đại, nơi đón nhận ánh sáng của vũ trụ, là các cỗ máy đích thực lần ngược lại thời gian. Các nhà thiên văn học đang miệt mài chế tạo các kính thiên văn tiếp nối các kính thiên văn khổng lồ hiện nay để nhìn được những thiên thể mờ hơn, cũng có nghĩa là xa hơn và sớm hơn, và lần ngược lại thời gian khoảng 13 tỉ năm ánh sáng, tới tận khoảng 1 tỉ năm sau Big Bang, với hy vọng ngắm nhìn trực tiếp sự ra đời của các ngôi sao và thiên hà đầu tiên. Bằng cách khám phá quá khứ của vũ trụ, các nhà vật lý thiên văn có thể sẽ hiểu được hiện tại và tiên đoán được tương lai của nó.Dưới đây là những tác phẩm đã xuất bản của tác giả "Trịnh Xuân Thuận":Những Con Đường Của Ánh Sáng - Tập 1Những Con Đường Của Ánh Sáng - Tập 2Giai Điệu Bí Ẩn Và Con Người Đã Tạo Ra Vũ TrụKhát Vọng Tới Cái Vô HạnHỗn Độn Và Hài HòaTrò Chuyện Với Nhà Vật Lý Thiên Văn Trịnh Xuân ThuậnVũ Trụ Và Hoa SenĐộc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Những Con Đường Của Ánh Sáng - Tập 1 PDF của tác giả Trịnh Xuân Thuận nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Những Con Đường Của Ánh Sáng - Tập 1 (Trịnh Xuân Thuận)
Trong cuốn sách Những Con Đường Của Ánh Sáng (Tập 1), Trịnh Xuân Thuận đã thảo luận về ánh sáng, và liên quan tới nó là bóng tối, trên nhiều phương diện, bao gồm tầm quan trọng của nó đối với sự sống, đối với khoa học, sự diễn giải ánh sáng của bộ não, nghệ thuật của các hoạ sĩ thuộc trường phái ấn tượng, việc sử dụng ánh sáng trong kiến trúc và các khía cạnh tâm linh của ánh sáng... Cuốn sách này cũng là bản sử thi về cuộc hành trình của con người đi vào vương quốc của ánh sáng và giải mã những bí mật của nó Ánh sáng là người bạn tri kỉ của tôi. Trong công việc của nhà vật lý thiên văn, tôi thường xuyên phải làm việc với nó. Nó là phương tiện đặc ân mà tôi có để đối thoại với vũ trụ. Các hạt có năng lượng cao phát ra từ các cơn hấp hối bùng nổ của các ngôi sao nặng, mà người ta gọi là các “tia vũ trụ”, hay các sóng hấp dẫn, các sóng độ cong của không gian được tạo ra từ sự co mạnh ở lõi của một khôi sao nặng để trở thành nơi giam cầm ánh sáng - một lỗ đen -, hay từ chuyển động điên cuồng của một cặp lỗ đen nhảy múa quanh nhau, đều mang đến cho chúng ta rất nhiều thông tin mới lạ về không gian xa xôi. Nhưng không phải các tia vũ trụ, cũng chẳng phải các sóng hấp dẫn là các sứ giả chính của vũ trụ. Chính ánh sáng mới là cái đảm nhiệm vai trò này. Không còn nghi ngờ gì nữa, phần lớn các thông tin về vũ trụ mà chúng ta biết được đều là nhờ sự giúp đỡ hữu hiệu và trung thành của ánh sáng. Đó là sứ giả tuyệt vời nhất của vũ trụ. Chính ánh sáng cho phép chúng ta giao tiếp và kết nối với vũ trụ. Chính ánh sáng đã chuyển tải những đoạn nhạc và các nốt rời rạc của cái giai điệu bí ẩn của vũ trụ mà con người kỳ công tái dựng với tất cả vẻ đẹp tráng lệ của nó. Ánh sáng đóng vai trò sứ giả của vũ trụ nhờ ba tính chất cơ bản mà các bà mụ đã ban tặng cho nó lúc chào đời: 1) ánh sáng không lan truyền tức thì, và phải mất một khoảng thời gian mới đến được chỗ chúng ta; 2) ánh sáng tương tác với vật chất; và 3) ánh sáng thay đổi màu sắc khi được phát đi bởi một nguồn sáng chuyển động đối với người quan sát. Tìm mua: Những Con Đường Của Ánh Sáng - Tập 1 TiKi Lazada Shopee Bởi vì ánh sáng không lan truyền tức thì, nên chúng ta nhìn vũ trụ bao giờ cũng muộn hơn, và chính điều này cho phép chúng ta lần ngược trở lại theo thời gian, để khám phá quá khứ của vũ trụ và tái tạo bản sử thi hoành tráng và kỳ diệu của vũ trụ khoảng 14 tỉ năm dẫn đến chúng ta. Ngay cả khi ánh sáng lan truyền với vận tốc lớn nhất có thể trong vũ trụ: 300.000 kilômét mỗi giây - một cái nháy mắt là ánh sáng đã có thể chạy bảy vòng quanh Trái đất! -, thì ở thang vũ trụ vận tốc ấy cũng chỉ như rùa bò. Bởi vì nhìn xa, nghĩa là nhìn sớm - chúng ta nhìn Mặt trăng muộn hơn hơn một giây, Mặt trời gần tám phút, ngôi sao gần nhất hơn bốn năm, thiên hà gần nhất giống dải Ngân hà của chúng ta, thiên hà Andromède, sau 2,3 triệu năm, các quasar 1 xa nhất sau khoảng mười hai tỉ năm -, nên các kính thiên văn, hay còn gọi là các giáo đường của thời hiện đại, nơi đón nhận ánh sáng của vũ trụ, là các cỗ máy đích thực lần ngược lại thời gian. Các nhà thiên văn học đang miệt mài chế tạo các kính thiên văn tiếp nối các kính thiên văn khổng lồ hiện nay để nhìn được những thiên thể mờ hơn, cũng có nghĩa là xa hơn và sớm hơn, và lần ngược lại thời gian khoảng 13 tỉ năm ánh sáng, tới tận khoảng 1 tỉ năm sau Big Bang, với hy vọng ngắm nhìn trực tiếp sự ra đời của các ngôi sao và thiên hà đầu tiên. Bằng cách khám phá quá khứ của vũ trụ, các nhà vật lý thiên văn có thể sẽ hiểu được hiện tại và tiên đoán được tương lai của nó.Dưới đây là những tác phẩm đã xuất bản của tác giả "Trịnh Xuân Thuận":Những Con Đường Của Ánh Sáng - Tập 1Những Con Đường Của Ánh Sáng - Tập 2Giai Điệu Bí Ẩn Và Con Người Đã Tạo Ra Vũ TrụKhát Vọng Tới Cái Vô HạnHỗn Độn Và Hài HòaTrò Chuyện Với Nhà Vật Lý Thiên Văn Trịnh Xuân ThuậnVũ Trụ Và Hoa SenĐộc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Những Con Đường Của Ánh Sáng - Tập 1 PDF của tác giả Trịnh Xuân Thuận nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Đức Phật, Nàng Savitri Và Tôi (Hồ Anh Thái)
Đôi dòng về tiều thuyết Đức Phật nàng Savitri và tôi của Nhà văn Hồ Anh Thái Diễn tả cái vô minh bằng tiểu thuyết - HT. Thích Chơn Thiện Tôi thực sự ngạc nhiên khi đọc Đức Phật, nàng Savitri, và tôi (đọc kỹ hơn một lần). Tập sách là một tiểu thuyết rõ ràng, mà sao nghe như lời ký sự hành hương xứ Phật? Nghe như ghi chép của một chuyến điền dã, hay một luận văn Tiến sĩ Phật học viết nghiêm túc về đề tài: Đức Phật, một nhân vật lịch sử, một nhà đại văn hóa, hiền triết của thời đại? Và cũng nghe như là một Đối chiếu học giữa Phật giáo với 62 học thuyết đương thời của xã hội Ấn? Tôi không có gì để góp ý vào tập truyện, chỉ ghi lại đây một ít ấn tượng mà tập truyện đã đánh thức dậy trong tôi những ý tưởng thú vị. Truyện chép:..."sương mù như thế này thì không gì cứu được. Chính lúc ấy là một cảm giác vô minh. Cái tăm tối mù lòa ngu dốt. Cả thế gian cùng lúc chìm đắm trong vô minh. Rõ ràng ta không mê muội, không ngủ mơ. Rõ ràng ta đang tỉnh táo. Nhưng cái tỉnh táo trong chốn mù lòa dốt nát cũng vô tác dụng. Tỉnh như thế cũng không thấy được đường ra". (chương 1: Tôi; Tr.12) Tác giả diễn tả rất tuyệt vời về cảm nhận vô minh. Mọi người của các vùng văn hóa thì không thấy đường. Chỉ có nàng Savitri, chứng nhân của Giáo hội Phật giáo thời Đức Phật, là thấy rõ. Kinh Phạm Võng (Brahmajàla - suttam) thuộc Dìghanikàya, Theravada (và kinh Phạm Động tương đương thuộc Agama, Sarvatisvada) ghi rõ 62 học thuyết của ấn Độ đương thời đều chìm trong chấp thủ thấy biết (knowledges) và cảm thọ (feelings: inner and outer feelings) nên không thể đi vào được Trí tuệ Toàn giác (Perfect Wisdom) giải thoát tận gốc khổ đau. Chỉ có Đức Phật Gotama rời khỏi chấp thủ và trở thành bậc Toàn giác, đấng Giác ngộ. Các học giả Phật học danh tiếng cận đại và hiện đại thì diễn đạt sự khác biệt ấy bằng công thức: Tìm mua: Đức Phật, Nàng Savitri Và Tôi TiKi Lazada Shopee Phật giáo = Non-I doctrine (Anattavada) Các tôn giáo và triết thuyết khác = I doctrine (Attavada) Nhà văn Hồ Anh Thái thì biểu tượng hóa dòng văn hóa của I doctrine (văn hóa hữu ngã) bị che phủ bởi lớp sương mù sền sệt ở biên giới Ấn - Népal, và tự thân đã chứng nghiệm cái giới hạn của vùng văn hóa ấy qua đoạn văn vừa trích dẫn trên. Các chương truyện tiếp theo là phần tác giả giới thiệu điểm xuyết (được chọn lọc) các nét văn hóa tiêu biểu của ấn giáo, Bà La Môn giáo với sự rọi sáng của trí tuệ như thật (trí tuệ Toàn giác): văn hóa ấn cổ thì chìm đắm vào lạc thú trần gian qua Kàmasutra (kinh về các tư thế hành lạc, bậc thầy của đương đại); văn hóa Phật giáo thì chế ngự lòng khát ái (ham muốn dục lạc, ham muốn hiện hữu, ham muốn vô hữu: dục ái, hữu ái, vô hữu ái) trong bài pháp đầu tiên Đức Phật khai đạo ở Lộc Uyển (Migadaya, Varanàsi). Đây là Đối chiếu học. Sự kiện này khiến ta nhớ đến các vần thơ bất hủ của thi hào Nguyễn Du trong Truyện Kiều: " Đã mang lấy một chữ tình Khư khư mình buộc lấy mình vào trong Vậy nên những chốn thong dong ở không yên ổn, ngồi không vững vàng". Lúc Kiều đoàn viên, rời khỏi đoạn trường, thì: "Tan sương đầu ngõ, vén mây giữa trời " Chỉ có thứ sương ở biên giới Ấn - Népal của nhà văn Hồ Anh Thái mới bóc được cảm xúc của đại thi hào như ở trên. Về sự kiện trọng đại Giác Ngộ của Đức Phật, Hồ Anh Thái đã thoát ra khỏi hình thức kinh viện, giới thiệu bằng ngôn ngữ văn học tiểu thuyết rằng: Thế là chàng đã phát hiện ra rằng toàn bộ cuộc sống có quan hệ chặt chẽ với nhau. Từ hạt bụi nhỏ nhất đến vì sao lớn nhất đều có mối liên quan. Tất cả đều không ngừng thay đổi: phát triển, tan rã, rồi lại phát triển. Chẳng điều gì không có nguyên nhân của nó, nhân nào thì quả ấy. Rồi chàng nhìn thấy hết thảy khổ đau nơi trần thế. Chàng đã hiểu vì sao mọi chúng sinh từ loài côn trùng nhỏ cho tới một vị hoàng đế, đều theo đuổi lạc thú, để rồi kết thúc nơi bất hạnh... Sau rốt, chàng tìm thấy con đường chấm dứt mọi đau khổ. Nếu như con người thấy cái tự ngã của mình và của mọi hiện hữu là rỗng không, không có chủ hữu, không có sở hữu; thì trong đầu óc họ không còn chỗ cho lòng tham, hận thù, ghen ghét, đố kỵ... Người ta sẽ không còn cảm thấy đau khổ, bất hạnh. Trái tim chỉ còn chứa đầy lòng yêu thương. Chính lòng từ bi này sẽ đem đến bình yên và hạnh phúc..." (Ibid, tr. 178) Cái nhìn trí tuệ ấy đầy cả từ ái được kiết tập trong nhiều bản kinh Phật (Texts), trong đó có bản kinh nói về vị Tỷ kheo (đắc quả A la hán) Angulimàla mà Hồ Anh Thái đã diễn đạt qua hình tượng tiểu thuyết câu chuyện có thực rằng: "Một buổi Phật đi cùng Ahimsaka (tức Angulimàla) đi qua một khuôn viên vắng người. Thốt nhiên có tiếng rên gần đó. Thì ra có một thiếu phụ bụng mang dạ chửa trên đường về nhà được mẹ dìu tới đây thì trở dạ. Bà mẹ nhìn thấy thiếu phụ đẻ khó đang nằm quằn quại đau đớn thì chỉ còn biết nhờ hai vị khất sĩ cầu nguyện giúp cho. Phật quay sang bảo Ahimsaka: - Con hãy nói rằng từ khi sinh ra tới nay con chưa hề phạm tới tính mạng của một sinh vật nào, cầu cho nhờ sự thật ấy mà sản phụ này được mẹ tròn con vuông. - Trời ơi, vậy thì nàng nguy mất, vì như vậy là con nói dối. Đức Phật mỉm cười ý nhị: - Vậy thì ta sẽ đổi lại một chút. Con hãy nói từ khi sinh ra trong chính pháp lương thiện tới nay con chưa hề phạm tới tính mạng của một sinh vật nào, cầu cho nhờ sự thật ấy mà sản phụ này được mẹ tròn con vuông. Ahimsaka vốn trước có học nghề y ở Viện Đại học. Vừa khấn theo lời Phật dạy, khất sĩ vừa giúp cho người đàn bà vượt cạn. Đứa trẻ ra đời, cả mẹ cả con đều bình yên vô sự..." (Ibid, tr. 361) Hình ảnh Đức Phật ở đây xuất hiện thật dung dị và gần gũi với con người. Đạo Phật là thế. Giản dị mà siêu thế. Trọn đời tôi vẫn mãi cung kính chiêm ngưỡng hình ảnh Đức Phật đi chân không, trú mưa qua đêm trong một căn lều lá bên vệ đường, độ ngọ nơi căn bếp nhỏ của một gia chủ mù lòa, hay rêm mình giữa thời pháp (đang giảng đạo)... Hình ảnh ấy làm cho trần thế trở thành lung linh. Không phải mọi thứ đều toàn vẹn trong giáo hội của Ngài, theo quy luật bất toàn của xã hội, tác giả Hồ Anh Thái vì thế đã ghi lại sự kiện Devadatta, người em họ của Ngài, đòi thay Phật lãnh đạo Giáo hội, đã âm mưu cùng thái tử Ajatasattu để hại Phật và tiếm vị. Sự việc không thành đã làm tỏa sáng thêm nét thánh thiện của Phật giáo. Tương phản hẳn với Đức Phật, vị lễ sư quốc sư Bà La Môn thì dối gạt cả đến lòng tin của tín hữu, đã được ngòi bút hài hước, châm biếm sâu sắc của tác giả vạch trần, một sự vạch trần không chỉ dừng lại ở phẩm hạnh của lễ sư, mà còn đi xa hơn nữa đến một số tập quán tín ngưỡng cần được thời đại nhân văn soát xét lại. Tác giả đã khéo đưa các tập quán đó đến quanh đời sống của nàng Savitri, một nhân vật để lại ấn tượng khó quên. Không thể nào quên được các lễ vật rất đắt giá nạp cho lễ sư để chuộc lỗi của Savitri, những sự việc không thành lỗi. Không thể nào quên được hủ tục trà tì (thiêu sống người vợ trẻ đi theo chồng trên giàn hỏa thiêu) phi nhân văn. Không thể nào quên được tục tôn thờ và dâng lễ lo lót cho thần độc hại Mangal. Càng không thể nào quên niềm tin sâu sắc của văn hóa Ấn, bao gồm cả giáo lý nhà Phật, vào quy luật Nhân quả, Nghiệp báo, Luân hồi như là cơ sở hướng dẫn con người sống thiện lương. Savitri vừa là Kumarì (thánh nữ đồng trinh), vừa là hướng dẫn viên cho du khách, vừa là hậu thân của công chúa Savitri thời Đức Phật (tái sinh vào cuối thế kỷ XX) với các chú thuật giúp nhớ về quá khứ của tự thân, và nhất thời đọc được ý nghĩ người đối diện. Tất cả đó là sắc thái đặc thù của văn hóa Ấn với nét huyền bí được tóm kĩ vào trong sáu chiếc túi xách nhẹ của nàng đi theo nàng suốt cuộc hành trình. Trên hết, tất cả đã được tác giả sử dụng như chỉ để làm nổi bật tuệ đức, tâm đức và hạnh đức ngời sáng của Đức Phật vì hạnh phúc của nhân thế trong hiện tại và mai sau.Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Đức Phật, Nàng Savitri Và Tôi PDF của tác giả Hồ Anh Thái nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Đức Phật, Nàng Savitri Và Tôi (Hồ Anh Thái)
Đôi dòng về tiều thuyết Đức Phật nàng Savitri và tôi của Nhà văn Hồ Anh Thái Diễn tả cái vô minh bằng tiểu thuyết - HT. Thích Chơn Thiện Tôi thực sự ngạc nhiên khi đọc Đức Phật, nàng Savitri, và tôi (đọc kỹ hơn một lần). Tập sách là một tiểu thuyết rõ ràng, mà sao nghe như lời ký sự hành hương xứ Phật? Nghe như ghi chép của một chuyến điền dã, hay một luận văn Tiến sĩ Phật học viết nghiêm túc về đề tài: Đức Phật, một nhân vật lịch sử, một nhà đại văn hóa, hiền triết của thời đại? Và cũng nghe như là một Đối chiếu học giữa Phật giáo với 62 học thuyết đương thời của xã hội Ấn? Tôi không có gì để góp ý vào tập truyện, chỉ ghi lại đây một ít ấn tượng mà tập truyện đã đánh thức dậy trong tôi những ý tưởng thú vị. Truyện chép:..."sương mù như thế này thì không gì cứu được. Chính lúc ấy là một cảm giác vô minh. Cái tăm tối mù lòa ngu dốt. Cả thế gian cùng lúc chìm đắm trong vô minh. Rõ ràng ta không mê muội, không ngủ mơ. Rõ ràng ta đang tỉnh táo. Nhưng cái tỉnh táo trong chốn mù lòa dốt nát cũng vô tác dụng. Tỉnh như thế cũng không thấy được đường ra". (chương 1: Tôi; Tr.12) Tác giả diễn tả rất tuyệt vời về cảm nhận vô minh. Mọi người của các vùng văn hóa thì không thấy đường. Chỉ có nàng Savitri, chứng nhân của Giáo hội Phật giáo thời Đức Phật, là thấy rõ. Kinh Phạm Võng (Brahmajàla - suttam) thuộc Dìghanikàya, Theravada (và kinh Phạm Động tương đương thuộc Agama, Sarvatisvada) ghi rõ 62 học thuyết của ấn Độ đương thời đều chìm trong chấp thủ thấy biết (knowledges) và cảm thọ (feelings: inner and outer feelings) nên không thể đi vào được Trí tuệ Toàn giác (Perfect Wisdom) giải thoát tận gốc khổ đau. Chỉ có Đức Phật Gotama rời khỏi chấp thủ và trở thành bậc Toàn giác, đấng Giác ngộ. Các học giả Phật học danh tiếng cận đại và hiện đại thì diễn đạt sự khác biệt ấy bằng công thức: Tìm mua: Đức Phật, Nàng Savitri Và Tôi TiKi Lazada Shopee Phật giáo = Non-I doctrine (Anattavada) Các tôn giáo và triết thuyết khác = I doctrine (Attavada) Nhà văn Hồ Anh Thái thì biểu tượng hóa dòng văn hóa của I doctrine (văn hóa hữu ngã) bị che phủ bởi lớp sương mù sền sệt ở biên giới Ấn - Népal, và tự thân đã chứng nghiệm cái giới hạn của vùng văn hóa ấy qua đoạn văn vừa trích dẫn trên. Các chương truyện tiếp theo là phần tác giả giới thiệu điểm xuyết (được chọn lọc) các nét văn hóa tiêu biểu của ấn giáo, Bà La Môn giáo với sự rọi sáng của trí tuệ như thật (trí tuệ Toàn giác): văn hóa ấn cổ thì chìm đắm vào lạc thú trần gian qua Kàmasutra (kinh về các tư thế hành lạc, bậc thầy của đương đại); văn hóa Phật giáo thì chế ngự lòng khát ái (ham muốn dục lạc, ham muốn hiện hữu, ham muốn vô hữu: dục ái, hữu ái, vô hữu ái) trong bài pháp đầu tiên Đức Phật khai đạo ở Lộc Uyển (Migadaya, Varanàsi). Đây là Đối chiếu học. Sự kiện này khiến ta nhớ đến các vần thơ bất hủ của thi hào Nguyễn Du trong Truyện Kiều: " Đã mang lấy một chữ tình Khư khư mình buộc lấy mình vào trong Vậy nên những chốn thong dong ở không yên ổn, ngồi không vững vàng". Lúc Kiều đoàn viên, rời khỏi đoạn trường, thì: "Tan sương đầu ngõ, vén mây giữa trời " Chỉ có thứ sương ở biên giới Ấn - Népal của nhà văn Hồ Anh Thái mới bóc được cảm xúc của đại thi hào như ở trên. Về sự kiện trọng đại Giác Ngộ của Đức Phật, Hồ Anh Thái đã thoát ra khỏi hình thức kinh viện, giới thiệu bằng ngôn ngữ văn học tiểu thuyết rằng: Thế là chàng đã phát hiện ra rằng toàn bộ cuộc sống có quan hệ chặt chẽ với nhau. Từ hạt bụi nhỏ nhất đến vì sao lớn nhất đều có mối liên quan. Tất cả đều không ngừng thay đổi: phát triển, tan rã, rồi lại phát triển. Chẳng điều gì không có nguyên nhân của nó, nhân nào thì quả ấy. Rồi chàng nhìn thấy hết thảy khổ đau nơi trần thế. Chàng đã hiểu vì sao mọi chúng sinh từ loài côn trùng nhỏ cho tới một vị hoàng đế, đều theo đuổi lạc thú, để rồi kết thúc nơi bất hạnh... Sau rốt, chàng tìm thấy con đường chấm dứt mọi đau khổ. Nếu như con người thấy cái tự ngã của mình và của mọi hiện hữu là rỗng không, không có chủ hữu, không có sở hữu; thì trong đầu óc họ không còn chỗ cho lòng tham, hận thù, ghen ghét, đố kỵ... Người ta sẽ không còn cảm thấy đau khổ, bất hạnh. Trái tim chỉ còn chứa đầy lòng yêu thương. Chính lòng từ bi này sẽ đem đến bình yên và hạnh phúc..." (Ibid, tr. 178) Cái nhìn trí tuệ ấy đầy cả từ ái được kiết tập trong nhiều bản kinh Phật (Texts), trong đó có bản kinh nói về vị Tỷ kheo (đắc quả A la hán) Angulimàla mà Hồ Anh Thái đã diễn đạt qua hình tượng tiểu thuyết câu chuyện có thực rằng: "Một buổi Phật đi cùng Ahimsaka (tức Angulimàla) đi qua một khuôn viên vắng người. Thốt nhiên có tiếng rên gần đó. Thì ra có một thiếu phụ bụng mang dạ chửa trên đường về nhà được mẹ dìu tới đây thì trở dạ. Bà mẹ nhìn thấy thiếu phụ đẻ khó đang nằm quằn quại đau đớn thì chỉ còn biết nhờ hai vị khất sĩ cầu nguyện giúp cho. Phật quay sang bảo Ahimsaka: - Con hãy nói rằng từ khi sinh ra tới nay con chưa hề phạm tới tính mạng của một sinh vật nào, cầu cho nhờ sự thật ấy mà sản phụ này được mẹ tròn con vuông. - Trời ơi, vậy thì nàng nguy mất, vì như vậy là con nói dối. Đức Phật mỉm cười ý nhị: - Vậy thì ta sẽ đổi lại một chút. Con hãy nói từ khi sinh ra trong chính pháp lương thiện tới nay con chưa hề phạm tới tính mạng của một sinh vật nào, cầu cho nhờ sự thật ấy mà sản phụ này được mẹ tròn con vuông. Ahimsaka vốn trước có học nghề y ở Viện Đại học. Vừa khấn theo lời Phật dạy, khất sĩ vừa giúp cho người đàn bà vượt cạn. Đứa trẻ ra đời, cả mẹ cả con đều bình yên vô sự..." (Ibid, tr. 361) Hình ảnh Đức Phật ở đây xuất hiện thật dung dị và gần gũi với con người. Đạo Phật là thế. Giản dị mà siêu thế. Trọn đời tôi vẫn mãi cung kính chiêm ngưỡng hình ảnh Đức Phật đi chân không, trú mưa qua đêm trong một căn lều lá bên vệ đường, độ ngọ nơi căn bếp nhỏ của một gia chủ mù lòa, hay rêm mình giữa thời pháp (đang giảng đạo)... Hình ảnh ấy làm cho trần thế trở thành lung linh. Không phải mọi thứ đều toàn vẹn trong giáo hội của Ngài, theo quy luật bất toàn của xã hội, tác giả Hồ Anh Thái vì thế đã ghi lại sự kiện Devadatta, người em họ của Ngài, đòi thay Phật lãnh đạo Giáo hội, đã âm mưu cùng thái tử Ajatasattu để hại Phật và tiếm vị. Sự việc không thành đã làm tỏa sáng thêm nét thánh thiện của Phật giáo. Tương phản hẳn với Đức Phật, vị lễ sư quốc sư Bà La Môn thì dối gạt cả đến lòng tin của tín hữu, đã được ngòi bút hài hước, châm biếm sâu sắc của tác giả vạch trần, một sự vạch trần không chỉ dừng lại ở phẩm hạnh của lễ sư, mà còn đi xa hơn nữa đến một số tập quán tín ngưỡng cần được thời đại nhân văn soát xét lại. Tác giả đã khéo đưa các tập quán đó đến quanh đời sống của nàng Savitri, một nhân vật để lại ấn tượng khó quên. Không thể nào quên được các lễ vật rất đắt giá nạp cho lễ sư để chuộc lỗi của Savitri, những sự việc không thành lỗi. Không thể nào quên được hủ tục trà tì (thiêu sống người vợ trẻ đi theo chồng trên giàn hỏa thiêu) phi nhân văn. Không thể nào quên được tục tôn thờ và dâng lễ lo lót cho thần độc hại Mangal. Càng không thể nào quên niềm tin sâu sắc của văn hóa Ấn, bao gồm cả giáo lý nhà Phật, vào quy luật Nhân quả, Nghiệp báo, Luân hồi như là cơ sở hướng dẫn con người sống thiện lương. Savitri vừa là Kumarì (thánh nữ đồng trinh), vừa là hướng dẫn viên cho du khách, vừa là hậu thân của công chúa Savitri thời Đức Phật (tái sinh vào cuối thế kỷ XX) với các chú thuật giúp nhớ về quá khứ của tự thân, và nhất thời đọc được ý nghĩ người đối diện. Tất cả đó là sắc thái đặc thù của văn hóa Ấn với nét huyền bí được tóm kĩ vào trong sáu chiếc túi xách nhẹ của nàng đi theo nàng suốt cuộc hành trình. Trên hết, tất cả đã được tác giả sử dụng như chỉ để làm nổi bật tuệ đức, tâm đức và hạnh đức ngời sáng của Đức Phật vì hạnh phúc của nhân thế trong hiện tại và mai sau.Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Đức Phật, Nàng Savitri Và Tôi PDF của tác giả Hồ Anh Thái nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.