Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Giáo Lý Bí Nhiệm - Quyển 1 (H. P. Blavatsky)

LỜI NÓI ĐẦU CỦA ẤN BẢN LẦN THỨ NHẤT

Tác giả - bút giả thì đúng hơn - xin cáo lỗi cùng độc giả vì công tác xuất bản tác phẩm này đã bị trì trệ khá lâu. Đó là vì tác giả bị đau yếu mãi trong khi công tác thật là vĩ đại. Ngay cả hai quyển hiện nay được phát hành cũng chưa hoàn tất được kế hoạch và cũng chưa bàn rốt ráo được các chủ đề liên hệ. Tôi đã soạn ra một số lớn tài liệu bàn về lịch sử của huyền bí học lồng trong cuộc đời của các bậc Cao đồ của giống dân Aryan, và chứng tỏ được huyền bí học đã ảnh hưởng như thế nào đến nếp sinh hoạt hiện hữu và lý tưởng. Nếu các cuốn sách này mà được nồng nhiệt đón tiếp thì chúng tôi sẽ dốc toàn lực ra để tiến hành toàn bộ công tác. Quyển thứ ba đã hoàn toàn sẵn sàng; quyển thứ tư cũng hầu như thế.

Xin nói thêm rằng khi lần đầu tiên loan báo việc tiến hành công tác, chúng tôi không thể dự trù như vậy.

Theo lời loan báo sơ khởi, chúng tôi dự trù rằng bộ Giáo

Lý Bí Nhiệm sẽ là một bản có hiệu đính và bổ sung của bộ Tìm mua: Giáo Lý Bí Nhiệm - Quyển 1 TiKi Lazada Shopee

Nữ Thần Isis Lộ Diện (Isis Unveiled). Tuy nhiên, chẳng bao lâu sau, chúng tôi thấy ngay rằng cần phải có một phương pháp soạn thảo khác dành cho các chú giải mà chúng tôi có thể thêm vào phần đã được trình bày trong bộ Nữ Thần Isis Lộ Diện và các tác phẩm khác nói về nội môn bí giáo. Vì thế, tác phẩm này chỉ có tổng cộng chưa đầy hai mươi trang trích ra từ Nữ Thần Isis Lộ Diện.

Tác giả thiết tưởng cũng chẳng cần xin quí độc giả và các phê bình gia miễn thứ cho nhiều khuyết điểm về cách hành văn và Anh ngữ có thể có trong tác phẩm này, vì bà là một người ngoại quốc và mới chỉ học Anh ngữ sau này. Bà dùng Anh ngữ vì nó là phương tiện phổ biến nhất để truyền đạt các chân lý mà bà có bổn phận phải trình bày cho đại chúng.

Các chân lý này không hề được trình bày như một điều thiên khải (revelation); tác giả cũng chẳng hề tự xem mình là một kẻ tiết lộ kho tàng huyền bí học được công bố lần đầu tiên trong lịch sử. Đó là vì những gì bao hàm trong tác phẩm này đều có rải rác trong hàng ngàn quyển Thánh Kinh của các tôn giáo lớn ở Âu Châu cũng như ở Á Châu, ẩn tàng trong các chữ tượng hình và các biểu tượng, đến nay chúng vẫn chưa được ai ghé mắt tới vì có bức màn che khuất. Nay ta thử ra sức thu thập các giáo điều tối cổ lại khiến cho chúng thành ra một tổng thể hài hòa và mạch lạc. Tác giả chỉ có mỗi một lợi điểm so với bậc tiền bối là không cần phải dựa vào các lý thuyết và các điều suy lý của riêng mình. Đó là vì tác phẩm này chỉ trình bày lại một phần những gì mà chính tác giả đã được các môn sinh cao cấp truyền dạy, chỉ có một vài chi tiết là được bổ sung do công trình học hỏi và quan sát của chính tác giả. Trong vòng vài năm vừa qua, trong khi nỗ lực đào luyện ra một hệ tư tưởng hoàn chỉnh theo một vài sự kiện đã được truyền thụ trước kia, nhiều nhà nghiên cứu Minh Triết Thiêng Liêng và môn sinh thần bí học đã đi vào các cuộc suy luận hoang đường; vì thế, chúng tôi cần phải công bố nhiều sự kiện được phát biểu trong tác phẩm này.

Cũng chẳng cần giải thích rằng tác phẩm này không phải là toàn bộ Giáo Lý Bí Nhiệm, mà chỉ là một tuyển tập các giáo điều căn bản. Chúng tôi đã đặc biệt quan tâm tới một vài sự kiện mà nhiều tác giả đã chộp lấy để xuyên tạc và làm sai lệch chân lý.

Nhưng có lẽ ta nên dứt khoát khẳng định rằng mặc dù còn vụn vặt và bất toàn, các giáo lý chứa đựng trong tác phẩm này không hề riêng thuộc về Ấn Độ giáo, Bái

Hỏa giáo, Can Đê giáo, Ai Cập giáo, Phật giáo, Hồi giáo,

Do Thái giáo hoặc Thiên Chúa giáo. Giáo Lý Bí Nhiệm là tinh hoa của tất cả các tôn giáo này. Bắt nguồn từ Giáo

Lý Bí Nhiệm, đủ thứ hệ thống tôn giáo này đang hội nhập về cái nguồn cội đã phát triển và thể hiện ra mọi giáo điều bí nhiệm.

Rất có thể là đa số công chúng sẽ coi tác phẩm này là một chuyện Thần Tiên hoang đường, vì có ai đã nghe nói đến Thiền Định Chân Kinh (Book of Dzyan) bao giờ đâu?

Do đó, tác giả xin sẵn sàng hoàn toàn chịu trách nhiệm về những gì bao hàm trong tác phẩm này; thậm chí, tác giả cũng sẵn sàng đương đầu với việc bị tố cáo là đã chế ra toàn bộ các điều đó. Tác giả thừa biết là nó có nhiều khuyết điểm. Tác giả chỉ xin tuyên bố rằng cho dù nó có vẻ hoang đường đối với nhiều người, lý luận mạch lạc và tính chất “trước sau như một” khiến cho Tân Sáng

Thế Ký này ít ra cũng có quyền được xếp ngang hàng với các “giả thuyết” để kiểm chứng mà khoa học hiện đại đang tha hồ chấp nhận. Hơn nữa, thiên hạ phải xét tới nó, không phải vì nó dựa vào bất kỳ thế lực giáo quyền nào, mà chỉ vì nó có gắn bó mật thiết với Thiên

Nhiên, đúng theo các định luật đồng nhất và tương tự.

Như vậy, mục tiêu của tác phẩm này có thể được xác định như sau: a. Chứng tỏ rằng Thiên Nhiên không phải là một sự tập hợp “ngẫu nhiên của các nguyên tử”. b. Chỉ định cho con người vị trí đúng đắn của y trong hệ thống Vũ Trụ. c. Phục hưng các chân lý cổ sơ vốn là nền tảng của mọi tôn giáo. d. Trong một chừng mực nào đó, bộc lộ nhất nguyên cơ bản vốn là nguồn cội của mọi tôn giáo này. e. Chứng tỏ rằng khoa học văn minh hiện đại chưa bao giờ tiếp cận được khía cạnh Huyền bí của Thiên Nhiên.

Chỉ cần điều này được hoàn thành chút ít thôi thì tác giả cũng đủ mãn nguyện rồi. Tác phẩm này được viết ra để phụng sự nhân loại, vì thế, nó phải được nhân loại và hậu thế phán xét. Tác giả không chấp nhận điều kháng cáo tầm thường nào. Bà đã quá quen với sự lăng mạ, bà cứ bị vu khống như cơm bữa và vẫn mỉm cười âm thầm khinh bỉ khi nghe thiên hạ nói xấu mình.

LUÂN ĐÔN

Tháng 10 - 1888

H.P.BDưới đây là những tác phẩm đã xuất bản của tác giả "H. P. Blavatsky":Giáo Lý Bí Nhiệm - Quyển 1Giáo Lý Bí Nhiệm - Quyển 2Giáo Lý Bí Nhiệm - Quyển 3Tiếng Nói Vô ThinhChìa Khóa Minh Triết Thiêng LiêngThiên Nhiên Huyền BíBí Quyết Thông Thiên Học

Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Giáo Lý Bí Nhiệm - Quyển 1 PDF của tác giả H. P. Blavatsky nếu chưa có điều kiện.

Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.

Nguồn: thuviensach.vn

Đọc Sách

Đại Đường Tây Vực Ký - Bút Ký Đường Tăng
Lời tựaQuý vị đang cầm trên tay quyển “Đại Đường Tây Vức Ký” được chuyển dịch từ chữ Hán sang tiếng Việt là do kết quả của sự miệt mài dịch thuật của chúng tôi từ ngày 24 tháng 10 năm 2003 đến ngày 10 tháng 12 năm 2003 tại Tu Viện Đa Bảo, Úc Đại Lợi nhân mùa nhập thất lần đầu tại đây. Xin tạ ơn Tam Bảo đã chiếu soi cho chúng con để lần dò từng câu văn, từng ý chữ mà Ngài Huyền Trang, một bậc danh tăng đời Đường đã thể hiện trọn vẹn hết tâm ý khi đi chiêm bái, học hỏi và ghi lại nơi Thánh Địa ròng rã trong 17 năm trời. Để rồi về lại kinh đô Tràng An với 657 bộ kinh bằng chữ Phạn. Ngài trải qua 110 nước và về sau cùng 100 vị Cao Tăng Học giả đương thời, dưới quyền chủ tọa của Ngài, phiên dịch suốt trong vòng 19 năm, kể từ khi Ngài về lại Tràng An Trung Quốc, vào ngày 24 tháng giêng năm 645 (năm Trinh Quán thứ 19 đời nhà Đường).Ngài lên đường ra đi khỏi Trung Quốc vào năm Trinh Quán thứ 3 đời nhà Đường tức năm 628, lúc ấy Ngài đã 33 tuổi. Như vậy Ngài sinh vào năm 595 và Ngài thị tịch vào ngày mồng 5 tháng 2 năm 664, tại Ngọc Hoa Cung, hưởng thọ 69 tuổi. Ngài về lại Kinh Đô đúng 50 tuổi và chủ trì phiên dịch trong 19 năm ròng rã như thế và ngày nay Ngài đã để lại cho hậu thế một gia tài Pháp Bảo vô giá mà đông tây kim cổ khó có người thứ hai sánh kịp.Đây là một tập sách gồm 12 quyển và hai lời tựa được đăng trong Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, quyển thứ 51 thuộc Sử Truyện, bộ thứ 3 từ trang 867 đến trang 948, theo thứ tự kinh văn số 2087. Chỉ có 81 trang kinh mà chúng tôi phải dịch ròng rã gần 2 tháng dài. Mỗi ngày từ 5 đến 6 tiếng đồng hồ và kết quả là hơn 460 trang sách khổ A5 và gồm 127.264 chữ, như quý vị đang đọc. Đại Tạng Kinh không chỉ có một quyển mà cả một trăm quyển như thế. Mỗi quyển dày từ 1000 đến 2000 trang. Nếu một người để cả một đời ra đọc chưa chắc gì đã hết, đừng nói đến vấn đề phiên dịch....
Bái Đính - Ngàn năm tâm linh và huyền thoại [pdf]
Trong đời sống con người, ngoài mặt hiện hữu còn có mặt "phi hiện hữu" mà người ta gọi là tâm linh. Đời sống cá nhân cũng như cộng đồng (gia đình, làng, xã, quốc gia, dân tộc...) cũng như vậy. Mặt hiện hữu có thể nhận thức được bằng trực quan, cảm giác, có thể định tính, định lượng được cụ thể. Mặt tâm linh là những cái trừu tượng, mông lung, huyền bí, thiêng liêng nhưng không thể thiếu được trong đời sống. Từ ngàn xưa, khi triết học duy vật chưa có và ngay cả thời đại ngày nay điện tử, tin học và công nghệ thông tin bùng nổ, khoa học kỹ thuật phát triển đạt được những thành tựu phi thường, con người đã bay vào vũ trụ, lên sao Kim, sao Hoa thì mặt tâm linh cũng không thể thiếu, nếu như không nói nó là "thăng hoa" ở những biểu hiện vô cùng phong phú, đa dạng khác nhau. Cái cột chặt con người trong cộng đồng làng xã, quốc gia không chỉ có quan hệ hiện hữu ở lãnh thổ, biên giới, chủ quyền, trong đó có chủ quyền kinh tế - xã hội, mà còn nhiều quan hệ khác rất thiêng liêng. Đó là thế giới tâm linh với những biểu tượng, thần tượng, thánh tượng. những kỳ vọng vươn tới chân - thiện - mỹ. Đã đến lúc người ta thức nhận ra rằng, đời sống tâm linh là nền tung vững chắc nhất của mối quan hệ cộng đồng làng xã và rộng lớn hơn là của ca đất nước. Thế giới tâm linh là thế giới của cõi thiêng. 
Áo Nghĩa Thư [pdf]
Uống nước uống tận nguồn.Một công trình khảo cứu dù tinh vi đến đâu cũng không thể nào thay thế được kinh văn cội gốc. Giỏi lắm chỉ là một bộ xương khổ so với con người sống thật co linh hồn long lanh trong ảnh mắt và tỏa ra trong hơi thở. Ấy là chưa kể những công trình phản bội, làm sai nghĩa chiếm đến chín mươi phần trăm số sách khảo cứu. Xin kể một thí dụ. Trước khi đọc những mảnh tàn văn của Parmenide, triết gia vĩ đại phải Eléc, tôi đã tìm hiểu qua những bộ triết sử và nghiên cứu của những học giả Tây phương đã thừa hưởng công trình vài chục thế kỷ. Đến khi bắt đầu đọc, tôi đi từ sửng sốt này đến sửng sốt khác vì mọi sách khảo cứu mà tôi được biết đều phản bội, lật ngược lại chủ ý sâu xa của Parménide, của phái Elée, một triết phải không để lại nhiều sách vở nhưng được coi là một trong những trường phải lớn của tư duy Hy Lạp, của thế giới Tây phương. Thời gian tôi dùng để đọc dăm trang khảo cứu là một vài giờ, còn đọc thẳng vào vài trang bản văn là mười lăm đêm, mỗi đêm 4 tiếng đồng hồ, tức là 60 giờ. Đỏ là một chuỗi hàm số liên tiếp mà người đọc phải tự giải, nhưng giải xong thì thấy cả núi sách khảo cứu dầu đúng cũng không đi vào chiều sâu, vào cải thần, ấy thế mà lại giải sai.Nếu Parménide với triết phái Elée, được người Tây phương khảo sát nhiều thế kỷ vì tự coi là thừa kế triết học Hy Lạp, mà còn bị phản bội như thể thì những triết thư Ấn Độ như Upanishads được khảo sát ra san, ta có thể suy đoán được.Người Việt ta vài ngàn năm quen với một dòng của triết đạo Ấn Độ là Phật giáo, nhưng về những dòng khác thì mới bắt đầu từ vài chục năm nay. Cho đến bảy giờ những bộ căn bản nhất như Upanishads cũng chỉ được trích dẫn vài câu đã trở thành sảo ngữ trong vài cuốn khảo cứu. Đã đến lúc uống nước uống tận nguồn. Bởi thế cho nên chúng tôi lựa chọn ba bộ tiêu biểu được đạo sư có uy tín người Ấn Độ là Shri Aurobindo vừa thừa hưởng được truyền thống, vừa có căn bản triết học Tây phương để bình giải, trình bày cho chúng ta thời bấy giờ hiểu nổi.Ấn Độ có ba dòng lớn về triết học là: Bà-la- môn giáo, Kỳ-na giáo, Phật giáo. Trong lòng Bà la-môn giáo lại có sáu phải mà quan trọng nhất là hai phải. Số luận tức là Samkhya, Vệ Đàn-Đà tức Védanta nghĩa là Viên thành Vệ Đà.Gạt ra ngoài vấn đề so sánh giá trị nội tại của hai phải này, mà chỉ nói quan niệm của đa số người Ấn cũng như học giả thế giới thì Vệ Đàn Đà được coi như tiêu biểu cho tư tưởng Ấn Độ, là cái phần tinh túy nhất mà văn hóa Ấn Độ cung hiến cho nhân loại. Đó là tư tưởng nhất nguyên coi vũ trụ, nhân loại, Thượng đế chỉ là một, chỉ có một Đại Ngã, Đại Hồn. Bởi thế cho nên Upanishads nhắc đến Thượng để hay đáng Chủ Tề thì ta chở nền lẫn với nhất thần giáo mà chỉ coi là một lối nói tạm để bị vượt ngay trong một bộ sách như phép giải toán lập số khử số để đi đến đáp số cuối cùng. Nó là nhất nguyên luận mà người Tây phương gọi là phiếm thần giáo, Phật giáo Đại thừa gọi là nhất như thuyết. Vedanta với Đại thừa cùng một dòng tư tưởng, đó là điều hiển nhiên tuyệt đối.Kinh điển nòng cốt của Vedanta là những bộ Upanishads. Chúng tôi dịch là Áo Nghĩa Thư với danh từ thông dụng từ lâu của những nhà Phật học nhưng giá trị của nó không ở dưới những bộ được gọi là kinh thư như tử thư so với Ngũ Kinh. Là vì bên Ấn Độ, những bộ được gọi là Sutras, vẫn được dịch là kinh, chưa hẳn giá trị hơn những bộ không được gọi là Sutras. Bởi thế những bộ như Vedas tôn quí bậc nhất mà không gọi là sūtras. Và người ta đã có lý khi dịch kinh Vệ Đà. Vậy Áo Nghĩa Thư hay Áo Nghĩa Kinh cũng vậy.Những bộ này được xếp sau những bộ Vệ Đà nên được coi là Liễu Kết Vệ Đà hay Viện Thành Vệ Đà với hai nghĩa đen và bóng: Nó được coi là rút tỉa tinh hoa của Vệ Đà, đào sâu mở rộng cái trực giác thần diệu nhất giữa nhiều trực giác ở Vệ Đà phong phủ như cái mỏ. Đó là trực giác về nhất nguyên luận hay nhất như thuyếtNhững bộ Áo Nghĩa Thư thật nhiều, khởi từ trước hay ngang thời Phật Thích Ca đến cuối Trung cổ, nhưng những bộ căn bản được coi là có mười hai, mà ba bộ sau đây ở trong số đó. Những tác giả thường vô danh, những vị được nhắc đến ở bộ này bộ nọ là những bậc truyền miệng được người ta ghi lại thêm bớt mà có vị chỉ là nhân vật huyền thoại.Những bộ này thường được coi là thần kỳ bí hiểm, những bản dịch nhiều khi khác nhau đến mực đưa ra những nghĩa không liên quan gì với nhau. Nên chúng tôi lựa chọn những bộ do đạo sư người Ấn dịch ra Anh ngữ, hơn hẳn những bản dịch của những học giả Tây phương mà tôi có để đối chiếu. Bản dịch từ Anh ngữ ra Pháp ngữ v hai bộ Isha và Mundaka do ông Jean Herbert đã được đạo sư Aurobindo hiệu chính, còn bản dịch Kena do ông Jean Herbert cộng tác với hai bạn là Cunulle Rao và René Daumal tuy không được đạo sự hiệu chính nhưng chắc chắn dùng tin cậy để tôi dịch lại ra tiếng Việt vì ông Jean Herbert đã cả đời hiến mình cho việc dịch, khảo và truyền bá triết đạo Ấn Độ, có tiếp xúc với nhiều bậc thầy Ấn hiện sống.Chỉ xin có đôi lời về lối dịch của chúng tôi.chữ Tat, Phạn ngữ, được dịch sang Pháp ngữ là chữ Cela, Cái y để ám chỉ Chân Thể mà người nghe được coi là đã ngầm hiểu. Người Việt tu đã quen từ lâu với tiếng Chân Như nên chúng tôi dịch là Chân Như. Đó là trong cuốn Isha nhưng sang cuốn Kena thì tài phải dịch sát là Cái Ấy vì Chân Thể trong cuốn này được coi như là một nghi vấn, một ẩn số đối với chủ thần, mãi đến cùng mới nhận ra.Soham, tiếng Phạn, dịch sát ra Pháp ngữ là Je Suis Lui – chúng tôi dịch: Ta là Chân Như cũng vì lẽ trên.Tattvam asi: - Tu es Cela – chúng tôi dịch: Ngươi là Chân Như cũng vì lẽ trên.Chữ Étre thường được dịch là Hữu Thế mà theo Parménide, cổ triết gia Hy Lạp người đã xây dựng toàn bộ học thuyết trên ý niệm này, thì thuộc tỉnh lớn nhất của Hữu Thế là hằng hữu, bất sinh bất diệt, vậy chúng tôi dịch là Hằng Hữu để phân biệt với être thường không viết hoa dịch là hữu thể.Chữ Existence có hai nghĩa chính là thực hữu hay hiện hữu và sinh tồn, chúng tôi dịch thành hữu tồn, tuy cũng có khi là sinh diệt, khi là sinh hóa, khi là sáng hóa, vừa theo tinh thần triết học Ấn Độ vừa uốn theo sắc thái, nhịp độ tư tưởng rất biến hóa linh động của Aurobindo.Chữ Dissolution thường được dịch là hòa tan hay tiêu diệt chúng tôi dịch là tiêu nhập theo tinh thần ở dây.Chữ Jeu có nhiều nghĩa, mà kể ba là trò chơi, sự vận dụng, sự xếp đặt xảo diệu, chúng tôi dịch, là trò diệu hóa hay diệu hóa lực theo hệ thống tư tưởng của Aurobindo vẫn gọi bằng tiếng Phạn là Lila thay cho Mâyân tức Huyễn Hóa.Egoisme thường được dịch là vị kỷ, vị ngã, nhưng tư tưởng Ấn Độ còn suốt nguồn gốc vị ngã là chấp ngã vậy chúng tôi dịch là ngã chấp. Mental theo nghĩa của Tây triết là tâm trí và Mentalité là tâm tính, nhưng ở đây theo Ấn triết phải dịch là phàm thức và thức tỉnh đối với siêu thức tuy đôi chỗ có thể dịch đại khái là tâm thức hay thức và tâm tính.Đó chỉ là một vài trong số nhiều thí dụ về lối dịch của chúng tôi không thể hoàn toàn y theo những tự điển hiện hành, nhưng có lẽ độc giả cũng thừa thông cảm.Ngoài ra cũng nhắc đến một danh từ thường dùng đến là Phạm Thể dịch từ tiếng Phạn, Brahman. Theo quan niệm Ấn Độ thị Brahma là thần linh tối cao đã sinh ra vũ trụ, mà Brahman là bản thể của Brahmô cũng như chư thần, cũng như chúng ta cũng như vũ trụ theo lẽ nhất nguyên, vậy nếu Brahmà đã được dịch từ mấy ngàn xưa là Phạm Thiện thì bây giờ chúng tôi dich Brahman là Phạm Thể.Về cú pháp, nhiều chỗ mông lung, hàm súc vì huyền diệu mà ông Jean Herbert cùng các bạn phải vượt khuôn khổ của Pháp ngữ, vốn nổi tiếng là minh bạch, khúc chiết, để phản ảnh với những câu như buông lơi, lỏng lẻo nên phải đọc kỹ bình giải mới quyết nghĩa được. Xem kinh văn, nếu thấy những chỗ bí hiểm thì độc giả không nên khổ công tìm hiểu mà cứ tạm để đó, tiến đến phần bình giải sẽ vỡ ra.Đọc thẳng một bộ như thế này, quí vị sẽ thâm nhập hơn là loanh quanh mãi ở vành ngoài với những bộ khảo cứu có công dụng giúp ta bước đầu với những ý niệm đại khái như bộ xương khô so với người sống thực.THẠCH TRUNG GIA 
Angkor (Đế Thiên Đế Thích) - Lê Hương
ANGKOR là tiếng gọi chung cho vùng đất trong tỉnh Siem Reap, lãnh thổ Cao-Miên, nơi có những đền đài xây toàn bằng đá nguyên khối chồng chất lên nhau, tạo thành một kỳ quan trên hoàn vũ. Vào đầu thế kỷ thứ 20, người Việt Nam sang đất bạn du-lịch hay cư ngụ đều có viếng thăm hoặc nghe nói đến kỳ công của các đăng Tiên-Vương Cao-Miện, mà không hiều vì sao lại gọi bằng danh từ Việt: ĐỂ-THIÊN ĐẾ THÍCH. Trải qua hàng trăm năm, đồng bào ta quen dùng tên này hơn là tên thật.Angkor gốc là tiếng Phạn; Nagara nghĩa là kinh đô. Vùng Angkor xưa kia là nơi Vua Cao-Miên đóng đỏ một thời gian dài từ thế kỷ thứ 9 đến thế kỷ thứ 15 mới dơi lần xuống phía Nam. Trong vùng có hai ngôi đền lớn nhất mang tên ANGKOR THOM và ANGKOR WATH. Angkor Thom nghĩa là Kinh đô lớn, nơi nhà Vua cất Hoàng cung, Kim loan điện. Angkor Wath, hay Vat, nghĩa là Kinh đô chùa (?) là một ngôi đền vĩ đại và đẹp hơn tất cả đền đài, được nhà Vua xây cất sau cùng trước khi thiên đô.