Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Đồng Bạc Trắng Hoa Xòe - Ma Văn Kháng

Ma Văn Kháng lao động văn chương như một người H'Mông trồng bắp trên núi, lặng lẽ, cần cù, kiên nghị. Không ồn ào to tiếng với ai. Nét mặt anh cũng có cái vẻ chất phác núi rừng, ít nói, ít tranh luận, nghe ai nói nhiều chỉ gật đầu, hơi như ngơ ngác nữa. Độc giả văn chương quen biết anh bằng tập Xa phủ (1969), tập truyện đầu tay, xinh xinh và đáng yêu như những chú thỏ non trong rừng rậm. Và sau đó thì đều đặn, năm in một tập, năm in hai tập, ở các Nhà xuất bản Văn học, Thanh niên, Phụ nữ, Công an nhân dân, Lao động và Kim đồng. Tính đến Đồng bạc trắng hoa xòe là ấn phẩm thứ mười một của anh trong vòng thập niên trở lại đây, thuần về miền núi. Văn học miêu tả dân tộc miền núi, nói nghiêm túc, mới chỉ có sau Cách mạng tháng Tám, trong kháng chiến Việt Bắc. Những tiểu thuyết đường rừng của Lan Khai trước kia (Tiếng gọi của rừng thẳm, Truyện đường rừng, Suối đàn), ít nhiều của Thế Lữ (Vàng và Máu, Một đêm trăng), chỉ là những truyện mượn rừng núi nhằm gây một cảm giác ly kỳ rùng rợn. Người đặt nét bút đầu tiên khai phá vùng núi cao trong văn học Việt Nam phải kể là Nam Cao với Ở rừng (1948). Đấy mới chỉ là những phác thảo trong những trang nhật ký duyên dáng của anh, nhưng bóng dáng người miền núi hiện ra đã thật là có tình và đáng yêu. Rồi Nam Cao mất, chưa kịp làm gì thêm cho miền núi nữa. Cùng sống với Nam Cao là Tô Hoài, có Núi Cứu quốc (1948). Vẫn chỉ là những nét phác thảo. Phải đến năm 1953, cái vùng đất biên cương núi non trùng điệp vòng phía Tây Bắc Tổ quốc mới lấp lánh trong văn học Việt Nam với Mường Giơn giải phóng và Vợ chồng A Phủ. Và sau nữa thì tiểu thuyết Miền tây (1967) khẳng định mảng văn học miền núi trong bức tranh toàn cảnh văn học cách mạng Việt Nam là không thể không chú ý được, là đã đóng chốt vào rồi. Nhà văn Tô Hoài với ngọn bút lão luyện và tài hoa, đã chấm phá bức tranh thủy mạc về người về cảnh miền núi chinh phục chúng ta từ nhiều năm nay. Con dế mèn phiêu lưu đã xòe cánh trên vùng Tây Bắc... một lời khen rất có duyên về anh, và chứng tỏ cái uy thế tuyệt đối của anh về địa bàn miền núi. Lúc ấy Ma Văn Kháng vẫn còn là cậu học trò cần cù học, đọc và lầm lũi như chú bé dân tộc theo mẹ đi chợ, đi theo con đường của Nam Cao, Tô Hoài khai phá. Tiếp bước cha anh... đấy là truyền thống dân tộc. Đọc xong Đồng bạc trắng hoa xòe có cái mừng là thấy lớp người sau đã kế tục được lớp người trước. Và còn nhiều hy vọng vì còn trẻ, còn khỏe, còn như con ngựa mới chạy nước kiệu trên một quãng đường. Ma Văn Kháng, tên thật là Đinh Trọng Đoàn, gốc người làng Kim Liên, khu Đống Đa, Hà Nội, tham gia cách mạng năm mười hai tuổi, do thói quen chung hồi ấy, đổi tên là Nguyễn Kháng, cho nó bí mật tông tích. Lên dạy học Lao Kay kết nghĩa anh em với một cán bộ huyện họ Ma, và để tỏ sự quyết tâm sống bám vùng đất này, theo lời một cán bộ tỉnh ủy khuyên: “Vùng này không thua gì Sông Đông êm đềm đâu. Cậu muốn viết văn hãy cố sống ở đây hết một giai đoạn”. Kháng đã đổi họ Ma, và sống trên đó gần một phần tư thế kỷ. Hai mươi hai năm ròng sống, làm việc, quan sát, và viết. Ma Văn Kháng tích lũy tư liệu cần cù đúng như một con kiến tha mồi vào tổ, mỗi ngày một ít, mỗi tháng một ít. Anh tham gia biên soạn lịch sử Đảng bộ Lao Kay, tham gia tổ chức hội nghị tỉnh ủy nghiên cứu chuyên đề thổ ty. Nhiều tư liệu ngấm vào anh thật tự nhiên, do việc cọ sát hàng ngày với những cán bộ H'Mông cùng cơ quan, những buổi công tác xuống huyện, xuống xã, đi tham dự các sinh hoạt dân tộc, những lễ ăn thề, lễ nào sồng, những phiên chợ, có mặt cả đám cưới đám ma các dòng họ H'Mông... Anh đọc nhiều và lấy làm biết ơn đã thừa hưởng thành quả những công trình nghiên cứu về dân tộc học, về phong tục tập quán, về ngôn ngữ H'Mông của Doãn Thanh, của Nông Trung, Lục Bình Thủy, Phạm Xuân Phúc, v.v... Anh thu thập cả những tài liệu nước ngoài viết về H'Mông như của Savina người Pháp, chuyên gia nghiên cứu H'Mông, có những nhận định về chính sách, cai trị vùng H'Mông: “H'Mông bao giờ cũng vẫn là H'Mông. Thổ ty là tất cả. Người Pháp phải tạo ra được các thủ lĩnh dân tộc ở từng địa phương và qua họ, mà cai trị đời đời ở các vùng miền núi". (Histoire des Miaos). Cho đến khi ra mắt bạn đọc hôm nay, Đồng bạc trắng hoa xòe được viết đi viết lại bốn lần. Tôi đã nhìn thấy đống bản thảo dày gần hai gang tay, bằng đủ các loại giấy thếp, giấy học sinh, giấy đánh máy, chi chít những chỗ dập xóa, chú thích bên lề... Công việc văn chương! Đáng thương biết mấy!*. Ông Goóc-ki có nói với bạn đọc, đại ý, ông khuyên những ai cho nghề viết văn là nhàn nhã, nắng không đến đầu, mưa không tới gáy, mà dấn thân vào thì thật là một lầm lẫn to lớn ở đời. Nghề viết văn thuộc lao động cực nhọc nhất trên thế gian này. Miếng da lừa (Balzac) có chín bản thảo khác nhau. Quan thanh tra (Gogol), năm bản. Người mẹ (Gorki) sáu bản, bản đầu và bản cuối cách nhau hai mươi năm. Riêng phần tả điệu múa Xalômê của Flô-be có mười bản, bản nào cũng gần như tuyệt vời. Với số tuổi như Ma Văn Kháng, ta sẽ phải hình dung anh đã vật lộn cực nhọc như thế nào để đẻ ra nổi hơn sáu trăm trang giấy, tái hiện một giai đoạn lịch sử ngắn ngủi, nhưng rắc rối vào bậc nhất của cách mạng Việt Nam hiện đại, tiến hành trên một vùng núi phong kiến thế tập phiên thần nghèo nàn và lạc hậu, lấy cái không gian tỉnh biên giới Lao Kay hừng hực, hỗn loạn, phức tạp, rối ren, bọc trong cái bối cảnh lịch sử ngàn cân treo sợi tóc của dân tộc: Nhật thua, Tưởng vào, Quốc dân Đảng về phá rối, Pháp trở lại xâm chiếm Nam Bộ, rồi vào Hà Nội với Hiệp định mồng 6 tháng 3, v.v... Giai đoạn lịch sử này ở miền núi lần đầu tiên được đưa vào tiểu thuyết. Có lẽ đã đến lúc rồi, chúng ta đã có điều kiện về thời gian, về khoảng cách lùi xa đủ tầm nhận thức những khúc ngoặt lịch sử có tính chất quyết định, mà tái hiện lại trong văn học đi thôi. Để cho tương xứng với tầm vóc những hy sinh to lớn, những đổi thay vĩ đại mà cuộc cách mạng theo học thuyết Mác — Lênin đã được những người cộng sản Việt Nam tiến hành trên đất nước này, cũng là lần đầu tiên trên thế giới. Và chỉ có loại hình tiểu thuyết mới kham nổi dung lượng ấy mà thôi. Ma Văn Kháng đã cảm thấy thế. Từ một câu chuyện định viết về tiễu phỉ năm 1955, anh đã chuyển sang tiểu thuyết, khi bắt được tia chớp hai cán bộ Việt Minh đơn độc vào vùng các châu miền đông Lao Kay: Bắc Hà, Pha Long, Mường Khương, thuyết phục thổ ty Hoàng Yên Chao, La Văn Tờ, ba anh em viên tri châu họ Nông... cùng tham gia đánh Pháp, đánh Việt Nam Quốc dân Đảng, giải phóng Lao Kay 1946 (Sau này vào truyện anh có đổi tên đi ít chút, cho nó được thoải mái trong sự sáng tạo). Cuốn truyện mở ra trước chúng ta cái thị xã biên giới Lao Kay đang bị bọn tranh giành quyền lợi Việt Nam Quốc dân Đảng chiếm đóng, rút chạy từ Vĩnh Yên, từ Việt Trì, từ Yên Bái dồn lại sống thoi thóp ở đây, thất vọng chán chường, vỡ mộng, nhưng vẫn đầy mưu mô xưng bá đồ vương, nhờ sự hà hơi của bọn Tàu Tưởng, theo Hiệp nghị, đã phải về bên kia biên giới. Những cán bộ Việt Minh được Đảng điều lên vận động quần chúng làm hậu thuẫn cho lực lượng vũ trang nhân dân: Vệ quốc đoàn, đã tiến đến Yên Bái, đang dừng lại chuẩn bị kế hoạch tấn công giải phóng thị xã Lao Kay. Người đọc hào hứng đi theo hai cán bộ Việt Minh, cưỡi hai con ngựa, gần như tay không, vào một vùng đất lâu đời nơi biên cương heo hút, với các chế độ thổ ty kỳ quặc từ bao thế kỷ, những phong tục tập quán thật kích thích và lạ lùng, và nhất là với tâm hồn người dân tộc thiểu số anh em đáng thương và đáng quí mà chúng ta chưa được biết là bao. Những đốm lửa cách mạng đã được đốt lên trên vùng hoang vắng trùng điệp núi non này, lòng yêu nước được khơi động, và quần chúng nhân dân anh em đã tề tựu dưới lá cờ Tổ quốc, cùng Vệ quốc đoàn tiến vào giải phóng Lao Kay, thành lập chính quyền Dân chủ nhân dân chậm nhất trong các tỉnh miền Bắc, nhưng đã thành công. Cuốn truyện đóng lại vào cuối năm 1947, trong một trận đánh trên đèo Mã Yên Sơn, lúc này bọn thổ ty đã phản bội, liên kết với thực dân Pháp trở lại xâm lược nước ta, hành quân chiếm đóng Lao Kay. Thị xã đã lệnh sơ tán, tiêu thổ kháng chiến, theo chủ trương trường kỳ kháng chiến bấy giờ. Cuốn sách dừng lại ở đầu một khúc ngoặt mới: Cuộc kháng chiến chín năm chống Pháp, có ngụ ý mở cửa cho một cái gì sau này nữa đây. Và Đồng bạc trắng hoa xòe đã dựng lên hàng loạt nhân vật, lối đa tuyến bình đồ, không ai là chính cả, hay nói một cách khác, nhân vật nào cũng có đường dây riêng, phát triển tâm lý và tính cách như là một nhân vật chính. Những tuyến nhân vật đan chéo nhau rối rắm như một mớ tơ vò, với những tâm trạng, những số phận, những cảnh ngộ nhiều hình nhiều vẻ, nhưng rồi cái nào vẫn kéo ra cái ấy, giống như một sợi tơ chuốt nõn trong tay người quay sa kéo ra từ đống tơ vò nọ. Không gian chuyển dịch luôn luôn, tạo một cảnh tượng rộng lớn cho bức tranh văn học, có điều kiện để các nhân vật thỏa sức vẫy vùng. Nhịp độ nhanh, nhiều sự việc, nhiều hành động. Lối dựng này đáp ứng được dung lượng rộng lớn của những cơn lốc cách mạng, hàng loạt người lột xác hoặc thoái hóa, sự đổ vỡ của những giá trị cố hữu, những ngã ba đường, sự đụng độ giữa chân thiện mỹ với những thế lực hắc ám đã tàn tạ. Lối dựng này rất ít thấy trong tiểu thuyết nước ta. Viết Rừng động, Mạc Phi đã rất công phu thu thập tư liệu, muốn dựng lên một bức tranh lớn về những đổi thay của đồng bào Thái Tây Bắc trong cuộc kháng chiến chuyển mình chín năm của dân tộc. Anh đã có những thành công về vùng người Thái. Cũng như Nguyên Ngọc đã có những thành công về miêu tả dân tộc anh em Tây Nguyên trong Đất nước đứng lên. Ma Văn Kháng đặc biệt thành công về các nhân vật người H'Mông. Nhiều người đọc sách anh cứ đinh ninh tác giả là người dân tộc. Dân tộc H'Mông, tất nhiên. Không phải lòe thiên hạ bằng những ngôn từ cụ thể lối so sánh chất phác với cái tên cây cối trong rừng, ví von với con hươu con nai bằng tiếng gọi địa phương là lạ, hoặc đôi lúc nhét một vài từ dân tộc trong lời thoại cho nó có sắc thái là người miền núi. Nghe cứ tức anh ách. Ma Văn Kháng học theo lối sử dụng cách nói miền núi của nhà văn Tô Hoài. Và cái chính là anh đã sống nhiều năm với người miền núi. Sống có tình. Anh mô tả các dân tộc Lao Kay bằng một thứ tình cảm chồng vợ, anh em ruột thịt. Những con người xa lạ tưởng như khó hiểu và man rợ trên vùng núi biên cương, bỗng nhiên thành gần gũi thân quen, đúng là anh em một nhà. Những cảnh sắc tưởng như buồn tẻ, hoang sơ, từ khai thiên lập địa, bỗng rực rỡ đẹp... Ma Văn Kháng đã làm như nhà văn Tô Hoài, chấm phá vẩy hồn vào cảnh vật, khiến chúng lung linh, rực rỡ, hấp dẫn, kích thích làm sao! Và tôi đoán chắc rằng, những ai thường ngần ngại khi được điều lên công tác Lao Kay, đọc xong cuốn truyện, hẳn sẽ an tâm đi nhận công tác, trút thoát được cái nặng nề trong tâm khảm vô căn cứ, khi đã đeo con mắt của tác giả Đồng bạc trắng hoa xòe. Bút pháp trong Đồng bạc trắng hoa xòe thường dùng theo lối vẽ long trong mây. Con rồng đẹp cứ giấu mình trong mây che chỉ lộ ra những khúc lượn vàng son có hạn, nhưng cho người xem vẫn nhận được đủ cái vóc dáng mạnh mẽ thanh thoát của toàn bộ con rồng. Bút pháp trong Đồng bạc trắng hoa xòe thường dùng lối uống rượu sớm mai. Độ rượu chỉ đủ để gây ngây ngất, quá nữa là say, dưới một chút coi là chưa uống. Biết dừng lại để gây ngây ngất mới là người biết uống rượu. Trong văn chương biết dừng lại là quí hóa lắm. Nghệ thuật viết văn của Đông Tây kim cổ thâu tóm lại cũng chỉ trong ba tiếng biết dừng lại mà thôi. Một lao động văn chương nghiêm túc thường có nhiều tác dụng lắm. Thử đeo đôi mắt một chính khách, đọc Đồng bạc trắng hoa xòe, bỗng nhận ra rằng: Thì ra bọn Pháp trước đây, bọn Mỹ vừa rồi, bọn phản động hiện nay đều chú ý đến vấn đề người H'Mông vùng Đông Nam Á chính vì thế đấy. Người H'Mông sống trên núi cao vùng giáp giới các nước Trung Quốc, Việt Nam, Lào, Thái Lan, Miến Điện, móc nối nhau như một tam giác — khu tam giác vàng theo từ ngữ của Mỹ. Dân tộc H'Mông gan dạ và kiên nghị nhưng bị vây hãm bằng ngu dốt và man dại trong lịch sử, tạo cho họ một mặc cảm kỳ thị chủng tộc nặng nề, một niềm mong ước tự trị tha thiết run rẩy, đã góp phần hình thành một tính cách H'Mông đặc biệt. Phần thiếu sót của cuốn sách không đáng kể. Có chăng ở cảm giác đọc hơn một trăm trang đầu chưa thú vị lắm. Lối dựng các nhân vật phản diện Quốc dân Đảng theo một đường mòn thường thấy, đã là phản động thì xấu từ bên trong ra đến diện mạo, ăn mặc lố lăng, ngôn ngữ đểu cáng, rượu, gái, sợ chết, lại thường bị đẩy vào những tình huống tức cười ngớ ngẩn (Buổi họp thị trấn. Cảnh đón Vũ Khanh. Buổi họp ở nhà Cercle khiến chúng như một hành thi (thây ma đi, từ Đông y) đẩy ngón tay út cũng ngã. Có thể ở những đoạn mô tả các quán ăn chơi bời trước kia, tác giả chỉ được nghe kể lại, phải tưởng tượng ra nhiều hơn là từng trải (Quán Biên thùy). Có thể ở cả tâm trạng các loại người cũ, cũng thanh khí nhưng khác lạ hẳn lớp người anh, mà anh động chạm tới họ bằng những khắc họa ước lệ (Ngọc, Trọng). Sự thiếu sót này chỉ đáng ví như người đứng xem tranh thấy một vài nét màu vulgaire (tầm thường) lẫn lộn trong bức tranh sắc độ màu rất noble (cao nhã) của anh. Điều đáng tiếc thứ hai, bút lực của anh, sao mà không nhấn thêm, đậm hơn lên cái đoạn mô tả cảnh Pao lao động. Anh có thể làm được lắm! Như anh đã mô tả những đoạn tuyệt hay về cảnh hành quyết người Mèo, cảnh Pao vật ngựa, cảnh Châu Quán Lồ dạy ngựa, cảnh ngày hộ sư các lực lượng vũ trang dân tộc... Với quan điểm yêu quí người lao động như anh, bút pháp của anh, mà chỉ chấm phá vài nét cảnh Pao đi cày, thật đáng tiếc. Anh có cho biết là sợ trùng lặp với một cuốn sách khác của anh, đã mô tả kỹ cảnh này, có trích học trong sách giáo khoa. Đừng câu nệ, anh Ma Văn Kháng ạ. Cứ phải cho vào đây, để hoàn chỉnh một bức tranh đẹp, chặt chẽ về mặt nội dung tư tưởng. Công phu ra thì vẽ lại với một nuance (sắc độ) khác càng hay. Cuốn sách chưa kết thúc, nó chỉ nên coi là tập I. Chắc tác giả sẽ còn cho các nhân vật gặp nhau trong tập II, giai đoạn cuộc kháng chiến chín năm sẽ có nhiều thăng trầm, mâu thuẫn, xung đột gay cấn hơn nữa. Số phận của Châu Quán Lồ, của Pao, Lử, anh em Seng, Tếnh; những Chính, Đắc, Ngọc; những Triệu Đại Lộc, Phô-rô-pông, các viên thổ ty... còn biết bao là tâm trạng, là cảnh ngộ, là tính cách, sẽ va chạm nảy lửa.* Nếu coi đây là kết thúc thì cuốn sách lộ ra một nhược điểm lớn. Nhiều nhân vật xử lý chưa hết mức. Có những nhân vật xuất hiện ở phần một rồi mất hút (ông lão Lìu, bào lãi Lìu, sĩ quan cận vệ Mộng Huyền, võ sĩ Vận). Nếu chỉ thế thì tác giả giống như một phù thủy non tay quyết, gọi âm binh lên dày đặc, nhưng không đủ sức sai phái chúng làm hết việc, để chúng rơi vãi, thậm chí quên cả chúng đi. Ma Văn Kháng còn sung sức. Chúng tôi tin là anh còn đủ sức dắt dẫn nhân vật đi tiếp trong văn học, cho chúng ta thưởng thức những trang sách hay hơn nữa. Với Đồng bạc trắng hoa xòe, Ma Văn Kháng đã khẳng định là đứng được trong loại hình tiểu thuyết. Nó có thể coi như một cái mốc trên bước đường văn học của anh tính từ Xa phủ. Một phần năm thế kỷ sống ở miền núi, và quan sát, và viết. Một phần năm thế kỷ ấy thật đáng giá với Ma Văn Kháng. Và sự trân trọng của bạn đọc hôm nay với các tác phẩm của anh, đặc biệt với Đồng bạc trắng hoa xòe là một sự trả giá đầy ý nghĩa. Tác phẩm Đồng bạc trắng hoa xòe (tiểu thuyết, 1979 Vùng biên ải (tiểu thuyết, 1983) Trăng non (tiểu thuyết 1984) Phép lạ thường ngày Thầy Thế đi chợ bán trứng Mưa mùa hạ (tiểu thuyết 1982) Mùa lá rụng trong vườn (tiểu thuyết, 1985) Võ sỹ lên đài Thanh minh trời trong sáng Hoa gạo đỏ Côi cút giữa cảnh đời (tiểu thuyết 1989) Đám cưới không giấy giá thú Đám cưới không có giấy giá thú (tiểu thuyết, 1989) Chó Bi, đời lưu lạc (tiểu thuyết 1992) Ngày đẹp trời (truyện ngắn 1986) Vệ sĩ của Quan Châu (truyện ngắn 1988) Giấy trắng (tiểu thuyết) Trái chín mùa thu (truyện ngắn 1988) Heo may gió lộng (truyện ngắn 1992) Trăng soi sân nhỏ (truyện ngắn 1994) Ngoại thành (truyện ngắn 1996) Truyện ngắn Ma Văn Kháng (tuyển tập 1996) Vòng quay cổ điển (truyện ngắn 1997) Năm tháng nhọc nhằn, năm tháng nhớ thương (hồi ký 2009) Một mình một ngựa (Tiểu thuyết 2007) Một Chiều Dông Gió Một Nhan Sắc Đàn Bà Trốn Nợ Mời các bạn đón đọc Đồng Bạc Trắng Hoa Xòe của tác giả Ma Văn Kháng.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Bởi Vì Yêu - Guillaume Musso
Layla, một bé gái năm tuổi biến mất trong một trung tâm thương mại Los Angeles. Bố mẹ cô, đã chia tay nhau vì không thể vượt qua cú sốc. Năm năm sau, cô bé lại xuất hiện, vẫn tại trung tâm thương mại đó. Cô còn sống, nhưng mắc phải một chứng câm lạ thường. Layla đã ở đâu trong suốt quãng thời gian đó? Cùng với ai? Và nhất là: Vì sao cô bé lại trở về? Một chuyện tình yêu cuốn hút. Một cuốn sách làm độc giả đắm chìm trong cảm giác hồi hộp và huyền bí. Một kết cuộc mở nút khiến ai nấy đều ngỡ ngàng. *** "Musso chẳng khác nào Sipelberg của nền văn học đương đại Pháp." - Nostalgie "Cuốn tiểu thuyết hay nhất của Guillaume Musso từ trước tới nay, gây ngạc nhiên nhất, sâu kín nhất, nhân văn nhất." - La Voix du Nord "Một ly cocktail chứa đầy bất ngờ và tưởng tượng." - Elle "Musso đã chứng tỏ tài năng bậc thầy của mình trong nghệ thuật tạo bất ngờ." - Paris Match "Ngay từ trang đầu tiên, chúng ta đã lọt vào bẫy. Và toàn bộ sự kháng cự sẽ là vô ích." - Le Figaro Magazine "Độc giả hoàn toàn bị cuốn theo câu chuyện, giữa một bên là mộng mị và bên kia là hư ảo. Một kết cuộc khiến ta phải ngỡ ngàng." - Gala "Cảm xúc, hồi hộp, siêu nhiên... Trí tưởng tượng làm nên tất cả." - Télé Star "Không có lấy một nét hoa mỹ, Guillamue Musso đã tạo ra sự bất ngờ theo bản năng." - Le Parisien "Khám phá Bởi vì yêu tức là bị dẫn dụ bởi ngòi bút linh hoạt và quyến rũ của Guillaume Musso." - Nice Matin "Một cuốn sách rất khó để khép lại." - Matin Plus Không gì tốt hơn một cuốn tiểu thuyết giúp ta hiểu rằng hiện thực khác xa bình thường, rằng hiện thực không đủ để thỏa mãn những mong muốn, dục vọng và mơ ước của con người. Mario VARGAS LLOSA *** Mark không bao giờ tiếp tục công việc của mình tại văn phòng của Connor nữa. Hai tháng sau đợt điều trị, anh tìm được chân "bác sĩ tâm lý đường phố" tại một hiệp hội chuyên giúp đỡ những người vô gia cư. Hàng ngày, anh đi khắp thành phố giám sát khoảng hơn trăm người không nhà cửa mà anh đang gắng giúp họ thoát khỏi cảnh rượu chè, khỏi cuộc sống đường phố và tránh cho họ lại rơi vào cảnh đó. Anh toàn tâm toàn ý cho cuộc chiến mới này và cũng đã thành công. Chính lần rơi xuống địa ngục đã biến đổi con người anh: anh chàng bác sĩ tâm lý trẻ tuổi đầy tham vọng và tự tin đã nhường chỗ cho một người đàn ông yếu đuối hơn, nhưng con người hơn. o O o Ở một góc phố nào đó, anh thường thấy Layla ngồi trên một bậc thềm hay trên cầu bập bênh ở khoảng sân chơi dành cho trẻ con. Gương mặt con bé vẫn đẹp, vẫn trầm lặng và bình thản như khi ở trên máy bay. Con bé không nói gì nhưng đưa tay khẽ ra hiệu với anh và anh cũng kín đáo đáp lại. Điều ấy khiến anh an tâm rằng con bé vẫn ở đó, phía sau anh, dõi theo anh như một vị thần hộ mệnh trong tuổi thơ anh. Anh không hề nói chuyện này với cả Connor lẫn Nicole, bởi anh biết rõ rằng việc Layla xuất hiện chỉ xảy ra trong tâm trí anh mà thôi. Nhưng có quan trọng gì: điều tưởng tượng ấy là một phần của trạng thái cân bằng mà anh tự dựng lên cho mình để lại tiếp tục đứng vững. Đó mới là tất cả những gì đáng kể. o O o Một buổi sáng tháng Chín, khi mở radio, Mark mới hay tin Alyson Harrison đã chết trong một tai nạn máy bay trực thăng tại Amazon. Đứng đầu một trong những tổ chức do người cha sáng lập, kiều nữ tỷ phú ấy, từ vài tháng nay, đã tham gia rất nhiệt tình vào cuộc chiến chống lại quá trình tàn phá khu rừng nhiệt đới rộng lớn để bảo vệ môi trường. o O o Phải mất nhiều tuần mới xác định được vị trí của xác máy bay, nhưng người ta chẳng bao giờ tìm thấy xác của viên phi công người Brasil lẫn cô gái được hưởng quyền thừa kế giàu có. o O o Tháng Mười một, Mark nhận được một tấm bưu thiếp được gửi từ Lhassa. Trên ảnh là một tác phẩm điêu khắc bánh xe luân hồi đặt trước lối vào một tu viện Tây Tạng. Đoạn thư không ký tên người gửi, nhưng anh nhận ra ngay nó là của Alyson. Trên tấm bưu thiếp viết: Em luôn nghĩ tới anh. Có lẽ anh có lý: có lẽ người ta có thể thực sự làm lại cuộc đời mình chứ không chỉ hài lòng với việc tiếp tục nó. Dù sao chăng nữa đó cũng chính là niềm hy vọng từ nay em sẽ bám lấy. Trong khi chờ đợi, em muốn chuyển đến anh điều này. Em đã tìm thấy mấy dòng ghi chú này ở một trong những cuốn sổ tay của bố em. Em rất muốn tin rằng ông giữ chúng để một ngày nào đó trao lại cho anh... Sau đó là ba từ: vĩ độ, kinh độ, độ cao... kèm theo một dãy số khiến Mark cứ mãi băn khăn cho đến khi anh hiểu được ý nghĩa của chúng. Đó là tọa độ của Hệ thống Định vị Toàn cầu nơi Layla được chôn cất. o O o Một ngày thứ Bảy tháng Mười hai, Mark cùng Nicole lái xe băng qua những dãy núi và bình nguyên sỏi đá thuộc sa mạc Mojave. Vào đầu giờ chiều một ngày không ánh mặt trời, họ tới một vùng đất hoang vắng, nằm không xa biên giới bang Nevada. Theo như trên máy thu nhận tín hiệu từ Hệ thống Định vị Toàn cầu, họ rời đường chính để tiến sâu vào một khu toàn đá dăm bụi bặm và những mỏm đá lởm chởm. Ở giữa vùng đất khô cằn ấy, họ nhận thấy một khoảnh đất nằm hơi tách biệt, mặt đất nứt nẻ, nhưng có tán cây Ngọc giá che phủ. Ngay lập tức họ biết rằng chính là đây. Họ xuống xe rồi tay trong tay tiến về nơi con gái họ đang yên nghỉ. Sáu năm sau ngày Layla qua đời, cuối cùng họ cũng đã có thể nói lời vĩnh biệt cô bé. o O o Rồi cuộc sống bắt kịp họ... Một hôm, Mark bất giác nhận thấy mình đang mỉm cười và anh lại có thể nói về chuyện tương lai. Cùng với thời gian, những lần xuất hiện của Layla thưa dần. Không phải bởi anh không nghĩ tới con gái mình nữa, mà bởi anh nghĩ tới con bé theo một cách khác. Từ giờ anh có thể nhớ tới con bé mà không cảm thấy quặn đau nữa. Một tối, Nicole báo với anh rằng cô đang có mang và anh đón nhận tin ấy lòng tràn ngập vui sướng. Họ có một bé trai đầu tiên rồi một cậu nhóc nữa vào ba năm sau đó. o O o Rồi năm tháng trôi đi... Chiều tối một ngày tháng Bảy, mười năm sau khi câu chuyện này bắt đầu, một cuộc gặp gỡ lạ lùng đã diễn ra tại sân bay Heathrow. Mùa hè ấy, Mark và Nicole nghỉ dài ngày để đưa hai cậu con trai của họ - Théo, tám tuổi, và Sam, năm tuổi - đi khám phá những kỳ quan của Lục địa Già. Sau khi đã thăm thú Athènes, Paris và London, gia đình nhỏ bé ấy giờ đang sửa soạn để bay tới lisbonne. - Đi nào, Sammy! Mark vừa hô to vừa nhấc bổng cậu con trai để đặt lên vai mình trong khi Nicole nắm lấy cánh tay Théo. Quây quần bên nhau, cả bốn người họ cùng lên thang cuốn dẫn tới khu vực làm thủ tục lên máy bay. Một cặp vợ chồng khác đang đi xuống theo chiều ngược lại. Người đàn ông, kiểu người Nam Mỹ, trìu mến nhìn vợ và con gái mình, một bé gái lai có nước da màu đồng. Khi hai gia đình đi ngang nhau, ánh mắt Mark thoáng bắt gặp ánh mắt người phụ nữ đang đi qua trước mặt anh. Anh chắc chắn đó là Alyson Harrison. Vẻ bề ngoài của cô đã đổi khác: cô gái tóc vàng với khuôn mặt xương xương, thân hình mảnh dẻ và dáng vẻ sành điệu giờ đã là một người phụ nữ đầy đặn, mái tóc hạt dẻ, cùng vài lọn uốn xoăn tạo cho cô một vẻ điềm tĩnh. Chỉ có đôi mắt cô là không thay đổi. Mark vẫn luôn tự hỏi Alyson đã trở thành người như thế nào. Vài tháng sau khi cô được coi là đã chết, anh đọc thấy trên tờ báo rằng người vợ góa của Richard Harrison đã nắm lại quyền điều hành đế chế Green Cross sau vụ mất tích thảm thương của cô con gái riêng của chồng. Và tất cả chỉ có thế. Thông qua chính dòng tin ấy Alyson đã nói lời từ biệt với báo giới, cô, người trong vòng nhiều năm liền luôn có mặt trên trang nhất các tờ lá cải trên toàn thế giới. Khi tự hỏi về những cảm giác mà hiện thời Alyson gợi lên trong anh, Mark chẳng hề cảm thấy một chút đắng cay nào và anh thậm chí còn hy vọng bản thân cũng đã tìm thấy sự thanh thản. Khi gặp cô trên thang cuốn, Mark đoán rằng cô gái từng được hưởng quyền thừa kế ấy đã làm lại cuộc đời mình dưới một nhân thân khác, cùng với người phi công trực thăng đã giúp cô giả chết, và cuối cùng cô cũng đã hạnh phúc. Alyson cũng nhận ra anh. Họ chỉ nhìn nhau một lúc, nhưng mỗi người đều thấy được trong ánh mắt người kia hình ảnh phản chiếu của tất cả những gì bản thân họ đang cảm thấy. Mời các bạn đón đọc Bởi Vì Yêu của tác giả Guillaume Musso.
Bảy Năm Sau - Guillaume Musso
Một cuộc ly dị đã chia cắt họ... ... hiểm nguy sẽ lại gắn kết họ Nikki: nữ nghệ sĩ bốc đồng, và Sebastian, nghệ nhân làm đàn, - họ gặp nhau và trúng tiếng sét ái tình, bất chấp tính cách và hoàn cảnh xuất thân hoàn toàn trái ngược... Rồi tình yêu nồng thắm bao nhiêu thì khi tan vỡ những oán hận cũng mãnh liệt bấy nhiêu. Hai người chia lìa, mỗi người nuôi dạy một đứa con... Bảy năm ròng rã trôi qua...Cho đến một ngày, cậu con trai ở tuổi mới lớn của họ mất tích một cách bí ẩn... Nikki và Sebastien tìm đến nhau, lao vào một cuộc rượt đuổi tưởng chừng không có hồi kết, không biết mình là người chủ động hay bị động... Một cuộc phiêu lưu kinh dị, ngạt thở, nối dài từ các đường phố Paris đến rừng rậm Amazon.. Nhờ đó, những gì sâu đậm thầm kín nhất tưởng chừng vĩnh viễn mất đi đang dần trở lại trong trái tim họ... *** Nhận Định "Bảy năm sau... u tối hơn những tác phẩm trước đó của Guillaume Musso. Một cuốn tiểu thuyết kinh dị nhuốm màu bạo lực, nhưng vẫn vô cùng lãng mạn." - Le Monde "Một cuốn tiểu thuyết trinh thám kinh dị ly kỳ đến ngạt thở và đáng tin cậy từ đầu chí cuối. Guillaume Musso đã trở thành ông hoàng của thể loại này." - Bernard Thomasson, France Info "Guillaume Musso có khả năng ít ai bì kịp trong việc pha trộn các tình tiết đầy cảm xúc với nền tảng trinh thám." - Le Progrès "Hiện tượng của ngành xuất bản Pháp đã viết nên một cuốn tiểu thuyết kinh dị tuyệt hay với tiết tấu nhanh và khai thác tối đa các sắc màu cảm xúc, đưa độc giả chu du đến tận cùng thế giới." - Le journal du Québec *** - Táxi! Táxi! Um táxi para levá-lo ao seu hotel. Không khí ồn ào, những tiếng ù ù khó phân biệt nổi là tiếng gì, những hàng người chờ lấy hành lý hay qua cửa hải quan dài dằng dặc: sân bay Geleão rộng lớn chìm trong cái nóng nhớp nháp và ngột ngạt của lò hơi. - Táxi! Táxi! Um táxi para levá-lo ao seu hotel? Mặt mày nhăn nhó vì mệt mỏi, khi ra đến sảnh, Nikki và Sebastian vượt qua đám tài xế taxi đang mời chào khách du lịch rồi đi về phía quầy cho thuê ô tô. Chuyến quá cảnh dự kiến rất ngắn ở São Palo đã phải kéo dài. Vì một lý do tắc nghẽn đường băng mù mờ mà chuyến bay của họ khởi hành tiếp muộn hơn hai tiếng rưỡi và hạ cánh lúc 11h30. - Em sẽ đi đổi ít tiền trong khi anh lo vụ xe cộ nhé, cô đề nghị. Đồng ý với cách phân công nhiệm vụ này, Sebastian đứng vào dòng người đang xếp hàng chờ đợi rồi lấy ra bằng lái của Botsaris. Khi đến lượt mình, anh do dự chọn kiểu xe. Cuộc tìm kiếm của họ sẽ chỉ nằm trong phạm vi thành phố hay sẽ khiến họ phải đi đến những địa điểm hiểm trở hơn? Vẻ lưỡng lự, anh chọn một chiếc Land Rover chắc chắn rồi ra nhận xe ở một bãi đỗ ngập tràn ánh nắng. Người đầm đìa mồ hôi, anh cởi áo vest rồi ngồi vào ghế lái trong khi Nikki đang nghe trên điện thoại "của cô" tin nhắn mà Constance đã để lại. Theo đúng thỏa thuận, cô cảnh sát đã đặt trước cho họ một phòng khách sạn tại khu phố Ipanema, liền kề bãi biển nơi Flavia làm việc. Về phần mình, cô vẫn tiếp tục cuộc điều tra và cô chúc họ may mắn. Mệt rã rời sau chuyến bay, họ chạy xe trong im lặng, đi theo các biển chỉ đường (Zonna Sul - Centro - Copacabana 6) phác họa hành trình xuống phía Nam từ Ilha do Governada 7 tới tận trung tâm thành phố. Sebastian lau mồ hôi trên trán rồi dụi mắt. Bầu trời thấp hẳn xuống, nặng nề, bóng dầu, không khí ô nhiễm ngột ngạt khiến mắt anh mờ đi và hai mí cồm cộm. Qua cửa kính nhuộm màu, khung cảnh bên ngoài như mờ đi, phủ đầy sắc vàng cam, như hình ảnh lớp mỡ cắt dày thớ. Mới đi được vài cây số, họ đã phải dừng vì tắc đường. Vẻ cam chịu, cả hai nhìn qua cửa sổ xe toàn cảnh không gian xung quanh. Ven đường cao tốc, hàng nghìn ngôi nhà gạch trải dài đến hút tầm mắt. Nhiều ngôi nhà hai tầng mái bằng giăng đầy dây phơi quần áo. Những ngôi nhà đó tạo ấn tượng như đang chồng lên nhau, đan xen với nhau thành một chùm nhà xếp chồng rất chênh vênh. Chằng chịt, lộn xộn, rộng lớn: khu ổ chuột chen ngang vào khung cảnh, phá vỡ và bóp méo viễn cảnh về nơi này, khiến chân trời nứt rạn để biến nó thành một tác phẩm cắt dán lập thể với tông màu đất son, bốc lên mùi khét, han gỉ. Dần dần, khung cảnh đô thị cũng thay đổi. Những khu dân cư nghèo nhường chỗ dần cho các khu công nghiệp. Cứ khoảng một trăm mét lại có những áp phích khổng lồ quảng cáo thông tin về Cúp bóng đá thế giới sắp tới và Thế vận hội 2016. Khẩn trương chuẩn bị cho hai cuộc thi tài thể thao này, cả thành phố dường như đã biến thành công trường. Sau tấm lưới rào đất trống là những công trường khổng lồ đang định hình lại cảnh quan: máy ủi thì phá hủy nốt các bức tường, máy xúc thì đổ đất vào một chỗ nào đó, xe tải ben thì nối đuôi nhau chạy không ngừng. Rồi chiếc xe chạy qua cánh rừng toàn nhà chọc trời của khu phố buôn bán trước khi tiến vào khu phố phía Nam thành phố nơi tọa lạc đa số khách sạn lớn và trung tâm thương mại của thành phố. Thủ phủ vùng Carioca khi ấy trở lại với những hình ảnh quen thuộc trên các tấm bưu thiếp: hình ảnh một cidade maravilbosa 8 được biền cùng những ngọn đồi và núi bao quanh. Đến cuối hành trình, chiếc Land Rover tiến ra trước mặt biển, chạy chậm dọc theo con đường nổi tiếng Avenida Vieira Souto. - Chính là ở đây! Nikki vừa thốt lên vừa chỉ tay về phía một tòa nhà nhỏ có mặt tiền rất khác lạ bằng kính, gỗ và đá cẩm thạch. Họ giao chiếc xe 4x4 cho nhân viên đỗ xe rồi tiến vào tòa nhà. Theo đúng hình ảnh khu phố này, khách sạn có vẻ sang trọng và màu sắc, được bài trí rất có phong cách bằng nội thất từ những năm 1950 và 1960, tạo ấn tượng như trong không gian một tập phim Mad Men. Sảnh khách sạn toát lên một không khí thú vị: gạch trần, nhạc dìu dặt, sàn nhà lát ván, trường kỷ bọc đệm chần, tủ sách phong cách old school. Họ bồn chồn tiến vào quầy lễ tân - được tạc từ một thân cây trong rừng Amazon - rồi lấy phòng dưới danh nghĩa Constance Lagrange và Nicolas Botsaris. Nikki và Sebastian chỉ ở trong phòng đủ để giải khát và ngắm nhìn, từ ban công phòng họ, từng con sóng mạnh mẽ tràn đến rồi vỡ tan trên bờ cát. Tập quảng cáo của khách sạn viết rằng cái tên Ipanema xuất phát từ phương ngữ của người da đỏ châu Mỹ, nó có nghĩa là "vùng nước dữ". Một điềm dữ khiến họ bối rối, và họ đã quyết định không quá bận tâm đến điều đó. Quyết tâm đi tìm bằng được "cô gái ở Ipanema" nên họ rời phòng khách sạn ngay. Vừa đặt chân ra ngoài, họ lại bị cái nóng, mùi khói xe và tiếng ồn ào của xe cộ bao vây. Một dòng chảy bất tận những người chạy bộ, trượt ván và những người đi xe đạp tranh giành vỉa hè với người đi bộ. Khu phố này quy tụ một lượng lớn các cửa hàng sang trọng, các phòng tập thể hình và những viện thẩm mỹ tư nhân. Nikki và Sebastian băng qua đường để sang lối dạo hai bên trồng cọ chạy dọc bãi biển. Đây là khu vực dành cho cánh bán hàng rong tranh giành nhau từng ly một và dùng mọi chiêu trò để thu hút sự chú ý của khách đi đường. Đeo trên người các thùng kem, thùng kim loại, hoặc ngồi hẳn trong một chiếc lán nào đó, họ mời chào nước dừa, trà đá, dưa hấu, bánh quy nướng vàng ươm, bánh cocada phủ caramen giòn tan, và còn cả thịt bò xiên nướng, mùi cay nồng của món quà vặt này phảng phất khắp cả con đường. ... Mời các bạn đón đọc Bảy Năm Sau của tác giả Guillaume Musso.
Amber: Kiếp Hồng Nhan - Kathleen Winsor
Có thể nói ngay, Forever Amber là một tác phẩm văn học xuất sắc của nữ văn sỹ Kathleen Winsor. Bà đã kể lại một câu chuyện xảy ra vào thế kỷ 17 tại Anh quốc, xoay quanh nhân vật nữ chính là Amber - một cô gái mồ côi - đã dùng nhan sắc và sự quyến rũ của mình để tồn tại trong xã hội đa dạng lúc bấy giờ. Cô sẵn sàng làm người tình hay vợ những kẻ giàu có, nhưng lại không có được người cô yêu. Một điều lạ của cuốn sách, đó là nó vừa được yêu thích, vừa (từng) bị cấm xuất bản ở nhiều nơi (và bị xếp vào hàng… khiêu dâm). Dù vậy, cuốn sách vẫn có sức sống mạnh mẽ và luôn nằm trong danh sách tiểu thuyết hay nhất. Đoạn đời tuổi trẻ của Amber vùi dập trong chuỗi ngày mê muội, trong sự vùng vẫy để đạt điều cô mong ước. Những biến cố lịch sử có thật cũng được thể hiện sinh động dọc theo quãng đời của cô. Vừa dũng cảm lại vừa lẳng lơ, Amber có những lúc “lên voi” trong giới thượng lưu, thậm chí cả triều đình, và có những khi “xuống chó” phải đổi thân xác để có miếng ăn. Một trong những sự kiện khiến cho câu chuyện mang hơi thở thật của bối cảnh là trận dịch hạch kinh hoàng tại London. Qua đó cũng chứng tỏ tình yêu mãnh liệt và sự dũng cảm của Amber. Suốt đoạn đời được mô tả trong tác phẩm, Amber yêu và chỉ yêu Bruce Carlton. Kết thúc câu chuyện, Amber bắt đầu một hành trình vô vọng đến Hoa Kỳ để tiếp tục tìm kiếm Bruce, người đã lập gia đình với một cô gái khác. Hình như bản dịch tôi đọc là từ bản tiếng Pháp, cho nên tác giả đặt tựa là “Ambrơ” (theo Ambre). Sau này tôi có thấy sách được tái bản. Một cuốn sách không thể bỏ qua, tuy nhiên, cùng nguyên nhân với lệnh cấm từng dành cho nó tại nhiều nơi, tôi nghĩ nó chỉ thích hợp với người trên 20 tuổi (hoặc hơn nữa). * *   * Từ một cô gái bị khinh thường nơi miền quê, Amber trở thành một mệnh phụ phu nhân quyền quý. Amber St. Clare sinh ra đã mất mẹ và không bao giờ được biết mặt cha. Từ đó, cô bé lớn lên trong sự ganh ghét, dè bỉu của những người xung quanh, ngoại trừ tình yêu của cô Sarah tốt bụng. Cuộc gặp gỡ với Bruce Carlton năm cô 16 tuổi, khi anh cùng đoàn kỵ sĩ của Nhà vua đi ngang qua làng Marygreen, đã thực sự đánh dấu một bước ngoặt lớn trong cuộc đời cô. Cô dành cho anh tất cả tình yêu sâu đậm, cháy bỏng và cuồng nhiệt… Cô theo anh đến Luân Đôn và không ngờ rằng trong suốt 10 năm sau đó cô phải trải qua biết bao biến động của thời cuộc và nhất là những thay đổi ghê gớm của cuộc đời mình. Xã hội dạy cho cô cách thức để vượt qua những hiểm nguy, gian khó, kể cả những ngày tháng kinh hoàng và khủng khiếp nhất. Amber không ngần ngại trước mọi thứ có thể đem lại cho cô tình yêu, tiền tài và danh vọng. Từ một cô gái bị khinh thường nơi miền quê, Amber trở thành một mệnh phụ phu nhân quyền quý, một nữ bá tước… và hơn thế nữa là một quận chúa được nhà vua đặc biệt sủng ái. Cô đã có tất cả những gì cô muốn, ngoại trừ một điều thiêng liêng nhất - đó là tình yêu và một mái ấm gia đình thật sự với người đàn ông mình rất yêu… *** Mùa xuân năm ấy khô ráo và bụi bặm. Trời ít mưa. Tuy nhiên đến tháng Năm, trên các cánh đồng xung quanh Luân Đôn phủ đầy những tấm thảm đỏ chói của cây chĩa ba, hoa mào gà lớn, những đàn ong vo ve, những cánh đồng lúa xanh rì. Ngoài phố lại vang lên tiếng rao: - Trái anh đào chín đỏ đây! Hoa tường vi đây! Ai muốn mua hoa oải hương của tôi nào! Khu Mậu dịch lóng lánh những bộ áo mùa hè, vải ga mỏng, vải có vân sóng, đủ màu sắc: vàng lưu hoàng, mận, Thổ Nhĩ Kỳ, hồng tươi. Thời tiết nắng đẹp, gió mát thổi tới. Trong suốt năm, không có tin tức nào làm người ta sôi sục và tức giận bằng tin đồn là York đã cải hóa sang Công giáo. Không ai có thể chứng minh được việc đó; quận công từ chối không chấp nhận, trừ Charles lẽ ra phải biết rõ thì chỉ nhún vai, từ chối không để liên lụy đến mình. Tất cả những kẻ thù của quận công mưu mô với nhau chặt chẽ hơn; trong lúc đó người ta nhận thấy quận công York và Arlington bỗng trở nên rất thân với nhau. Điều đó càng có ảnh hưởng đến tin đồn một cuộc liên minh Pháp - Anh, vì Arlington đã từ lâu có thiên vị với Hòa Lan, bị nghi ngờ bản thân ông là công giáo, hoặc dù sao thì cũng có cảm tình với công giáo. Những lời đồn đại đó lan truyền nhanh chóng trong thành phố, Charles khó che giấu được nỗi bất bình của mình và có mấy lời nhận xét về sự không kín đáo của dân tộc Anh. Tại sao họ không bằng lòng được cai trị bởi những người làm nghề đó? Mẹ kiếp! Làm vua cũng chẳng hay gì hơn một anh làm bánh hoặc anh thợ lợp nhà. Có lẽ ông học một nghề còn tốt hơn! Không còn nghi ngờ gì nữa; nếu vua không kết hôn một lần nữa, York chỉ cần sống lâu, sẽ nối nghiệp vua Charles. Hoàng hậu đã lại sẩy thai lần thứ tư vào cuối tháng Năm. Một con cáo đói đã liếm mặt trong khi bà đang ngủ, làm bà hoảng sợ và mấy giờ sau bà mất đứa con! Buckingham đã thuê các thầy thuốc khẳng định là hoàng hậu không bao giờ có con được nữa, nhưng Charles không muốn nghe. Vua và hoàng hậu, cả hai đều sầu não, Catherine không còn chút nghi ngờ gì nữa, mình là người bất hạnh nhất trong tất cả các người đàn bà: một hoàng hậu tuyệt sản. Nhưng Charles vẫn tiếp tục cả quyết chống lại mọi góp ý làm Người phải xa vợ. Lòng trung thực hay nỗi thờ ơ, người ta không sao hiểu được! Ở trong triều có nhiều thiếu phụ mà những cuộc tranh luận về một hoàng hậu mới hướng vào đấy, gây ra những mối lo ngại. Dù sao thì Barbara Palmer cũng nghe với một nụ cười thích thú và ranh mãnh. Bởi vì, không còn là nhân tình của vua, vị trí của bà không còn may rủi nữa. Dần dần mối quan hệ của bà với Charles dịu đi. Họ giống như cặp vợ chồng, thờ ơ lẫn nhau, tổ chức một cuộc sống yên lành, không cãi cọ, ghen tuông, không giận hờn, vui sướng. Họ tìm thấy ở những đứa con của họ một lợi ích chung; và bây giờ giữa hai người xuất hiện một thứ tình bạn mà họ không thấy vào thời họ yêu nhau. Bà không còn ghen tuông với các nhân tình của Người, và Người thì vui lòng hả dạ thấy đã thoát được những cơn thay đổi tính nết đột ngột của bà. Charles vui thích đứng xa quan sát tính thất thường và nỗi yếu đuối của Barbara. Amber thấy sốt ruột, cô tống cho Almsbury rất nhiều thư hỏi xem anh có nghe nói gì về Carlton không. Mỗi lần cô đều nhận được trả lời với cùng một ý. Almsbury không còn biết gì hơn, người ta đợi Bruce vào tháng Tám hoặc tháng Chín, làm sao mà có thể cụ thể hơn được với cuộc hành trình trên mặt biển? Amber không sao có thể nghĩ đến việc khác. Lại một lần nữa, nỗi khát vọng cũ đau đớn và say mê lại trào dâng trong lòng cô. Tuy nhiên cô quyết định là lần này phải có thái độ đàng hoàng và đúng nghi thức. Cô sẽ đứng hơi xa để nhường cho chàng đi những bước đầu. Đó là cách tốt nhất để giữ một người đàn ông. Cô tự trách mình: “Ta cứ luôn luôn như là một người hầu hèn mọn của chàng: nhưng lần này sẽ khác hẳn. Dù sao thì bây giờ ta cũng đã là một bà lớn rồi, một bà quận chúa, và chàng mới chỉ là nam tước. Bất kể thế nào, cũng phải để chàng bắt đầu trước!” Cô biết là vợ chàng sẽ đi theo chàng, nhưng cô không lo lắng đến việc ấy. Bởi vì nhất định Bruce Carlton không phải là người đàn ông phô trương một tình yêu thái quá đối với vợ. Điều đó chỉ đúng với bọn trưởng giả vô học thức, còn đối với một người quý phái có kể chi đến vợ mà không dám đi ra ngoài không gươm! Hai vợ chồng Almsbury trở lại Luân Đôn hồi tháng Bảy để thu dọn nhà cửa, thuê một số người hầu mới và chuẩn bị đón những người khách quý đang sốt ruột chờ mong. Almsbury đến thăm Amber, cô quyết định giữ thái độ thản nhiên, nói huyên thuyên về nhiều vấn đề tước vị của cô, tòa nhà lớn cô đang xây, những vị khách cô sẽ mời chủ nhật tới. Almsbury mỉm cười nghe cô nói và gật đầu tán thưởng, không hề đả động đến Bruce. Câu chuyện của Amber chậm dần lại. Cô có vẻ phân vân, rồi cuối cùng biết là anh trêu mình, cô cảm thấy bực, bèn hỏi: - Thế nào, có tin tức gì không? - Tin tức à? Để tôi suy nghĩ đã, con ngựa cái đen của tôi, mà em vẫn cưỡi đấy, mới đẻ một chú ngựa con tuần trước và… - Quỷ nó bắt anh đi! Tại sao anh cứ để em phải chết dần thế này? Hãy nói em nghe, anh biết những gì? Khi nào anh ấy tới? Nàng cũng đi theo chứ? - Tôi không biết gì hơn những điều đã viết cho em, vào khoảng tháng Tám hoặc tháng Chín. Phải, nàng cũng sẽ tới. Tại sao? Em không sợ nàng à? Amber liếc cặp mắt dữ tợn nhìn anh; cô khinh khỉnh nhại lại: - Sợ nàng? Almsbury, anh tò mò thật! Đề nghị anh cho biết vì sao tôi lại sợ nàng? - Cô ngừng lại rồi hùng hổ nói tiếp - Vả lại tôi đã hình dung được rất rõ ả rồi, ả Corinna ấy! - Thật hả? - Almsbury lễ phép nói. ... Mời các bạn đón đọc Amber: Kiếp Hồng Nhan của tác giả Kathleen Winsor.
Thời Bi Tráng - Nguyễn Văn Thịnh
Nửa sau thế kỷ XX là thời kỳ biến động lớn nhất trong lịch sử Việt Nam. Vì độc lập, tự do và thống nhất tổ quốc, người Việt Nam liên tục phải đương đầu với những thế lực bành trướng lớn nhất trong lịch sử loài người. Thành thị là nơi hợp lưu người tứ xứ. Nhưng mỗi nơi hình thành những đặc trưng cư dân khác nhau. Người Hà Nội là đặc trưng của nền văn hóa sông Hồng, tiêu biểu là nền văn hóa Thăng Long. Qua những biến thiên thời cuộc, người Hà Nội trải khắp theo chiều dài đất nước và tỏa đi tứ xứ, tiếp thu nhanh văn minh thời đại. Kết hợp truyền thống văn hóa Đại Việt họ luôn hướng về cội nguồn dân tộc, góp phần xứng đáng vào việc bảo vệ tổ quốc để dân tộc trường tồn. Thời Bi Tráng là tiểu thuyết về thời kỳ lịch sử ấy. Truyện là chuỗi hồi ức sống động mang nét sử thi với nhiều nhân vật vương bóng nhũng con người thật, nổi chìm theo sự đổi thay trong bối cảnh thời gian và không gian đất nước rộng dài. Dưới thể tiểu thuyết chính luận xã hội, những sự kiện và diễn biến thời cuộc được sưu tầm cẩn trọng, phong phú, công phu gần với tiến trình lịch sử. Tác giả sinh ra và lớn lên ở đất Hà Thành và trôi nổi theo dòng thác biến động xã hội lớn lao suốt mấy mươi năm từ Bắc vào Nam, lòng còn mang đậm ký ức tuổi thơ về cố đô Thăng Long. Những kỷ niệm của tuổi ấu thơ ngọt ngào và tuổi thanh xuân buồn vui trong khói lửa chiến tranh cùng cuộc sống xô bồ trong buổi giao thời. Những sự kiện ngày một mờ đi. Những con người ngày càng vắng bóng. Nhưng những dấu tích còn vương lại nơi trang sách, họa là chút gợi nhớ với lớp chứng nhân và gợi cảm với lớp người sau về một quá khứ bi hùng... *** Hà Nội, mùa thu Mậu Tuất 1958. Vào một buổi trưa, cuối đê La Thành đầu ô Đống Mác, trên con đường trải đá xanh lởm chởm, một người tàn tật mặc quân phục, đội chiếc mũ gắn ngôi sao vàng quân hiệu điều khiển chiếc xe lăn quanh quẩn nhiều lần, đưa mắt dò tìm khắp hai dãy phố. Trời bỗng sầm tối lại. Cơn dông ập tới. Con lốc xoáy chạy dọc trên đê cuốn theo khối bụi mịt mù lẫn rác và lá bay lả tả. Những giọt mưa nặng hạt đập lộp bộp rải rác lưa thưa trên những mái nhà, tán lá. Người ta nháo nhác chạy tìm chỗ trú. Anh thương binh dừng xe, cúi gằm xuống, một tay ghì cần lái, một tay giữ chặt mũ cho gió khỏi giật đi. Những hạt mưa mau hơn rải đều lan ra phát lên tiếng rào rào hỗn tạp. Đám mây như con trâu đen trũi ầm ầm chạy qua, đuổi theo sau lại là khoảng trời quang đãng mênh mông rực nắng. Anh thương binh ngẩn ngơ nhìn trước nhìn sau lại thủng thỉnh cho xe đi dò dẫm. Cơn mưa bóng mây ào ào chợt đến, chợt đi. Lại vang lên những tiếng người gọi nhau í ới, những tiếng còi và chuông xe đủ loại pin… pin! kính… coong! ếp ... ếp! và những tiếng thét vội vã cáu kỉnh tục tằn của cuộc sống phố phường thường nhật. Bầu trời lại hiện ra cao ngất ngằn ngặt trong xanh với những áng mây trắng muốt mỏng tang nhởn nhơ đuổi nhau bay về phía chân trời. Anh thương binh dừng xe trước Nhà máy nước, ngại ngùng nhìn con dốc đối diện bên một ngôi nhà tầng cất dở dang nhưng vẫn trưng tấm biển Nhà hộ sinh to tướng. Mấy người đàn ông đứng lơ ngơ quanh đó chạy tới vồn vã hỏi: - Đồng chí bộ đội tìm ai hay muốn vào trong làng? - Vâng! Tôi vào làng trong. Họ xúm nhau lại khiêng cả anh thương binh cùng chiếc xe xuống dốc và ríu rít thân mật hỏi : - Đồng chí bị thương à? - Đồng chí vào nhà ai? Có việc gì không? - Xin cảm ơn các bác! Tôi về nhà tôi. Giọng anh run run và đôi tay anh lập cập điều khiển chiếc xe bon bon như chạy. Con đường làng quen thuộc đây! Những viên gạch dày cộp mòn trũng mấp mô. Dưới gánh nặng của thời gian, rìa đường từng mảng nứt trĩu xuống như muốn rời ra. Con sông Tô Lịch làm ranh giữa làng trong với làng ngoài đôi bờ hẹp lại, nông toèn, đen đặc, tỏa ra một không khí nặng nề. Anh thương binh nhẹ tay đẩy, thủng thẳng nhận ra từng địa danh dấu tích: Đây là hồ Trung! Bên đây là hồ Cổ Ngựa! Mấy đứa trẻ con tò mò nhìn anh xa lạ. Mấy người lớn ngờ ngợ nhưng chiếc xe đã lăn qua khiến họ chưa kịp nhận ra người cũ. Đình làng Hương Thể mình đây! Đình chùa đều bị chiến tranh tàn phá, hơn chục năm rồi vẫn là mái ngói mái tranh tạm bợ trên cốt tường cũ loang lổ gió sương. Cái giếng trước cổng chùa ngày nào nước trong xanh là thế, cả làng ra đây gánh nước về ăn, giờ chỉ còn là cái ao toen hoẻn đặc bèo tổ ong xám ngoét. Cổng đình xưa cao to ngất ngưởng uy nghi giờ là một khoảng trống thông thống với đường làng. Cây đa phủ bóng rợp sân đình, rễ của nó làm bật tung lên những viên gạch lát mòn. Anh dừng xe áp sát vào khúc tường tào xá sứt mẻ rêu phong, hướng ra hồ Đình, ngày xưa có kệ gạch xây rộng lắm. Chiều chiều lớp nhỏ và các anh lớn ra đây vẫy vùng thỏa thích, bây giờ lềnh bềnh những mảng bèo tây. Cái giếng thơi to tướng giữa sân đình đã bị san phẳng đi rồi, mấy đứa trẻ quần nhau một quả bóng bưởi, nhễ nhãi mồ hôi… Anh ngửa mặt nhìn lên tán đa cổ kính già nua, không để ý có người dừng lại dõi nhìn theo. Tiếng ai hỏi làm anh giật mình quay lại: - Ai như là Nghĩa… phải không? Anh bỏ mũ ra. Người ta chạy lại, xúm quanh, nhận ra người làng mình, tíu tít: - Thằng Nghĩa! - Anh Nghĩa! - Cậu Nghĩa! - Cháu nội cụ Hai Mùi! - Con ông Hai Nhàn… Ông ấy chết sớm lắm! - Cháu gọi ông Ba Thanh bằng chú đấy! - Sao đến bây giờ mới về? - Tưởng chết ở mãi đâu rồi chứ! Thấy anh tần ngần, một người giải thích: - Những ngày đầu kháng chiến, lính Pháp nã vãi đạn pháo vào làng, người chết rải rác khắp nơi. Sau nó tràn vào, bắt người sống quăng xác người chết xuống giếng đình nên dân làng phải lấp đi! Nghĩa dần nhận ra từng người nhưng anh không thể trả lời những câu hỏi dồn dập được. Mấy đứa trẻ sấn tới xăm xăm đẩy xe đi: - Chú bộ đội… thương binh về nhà ai? Người ta theo nhau dặn với: - Đất nhà cụ Hai Mùi ở dọc hồ Dài! - Ông Ba Thanh giờ ở… trên phố! - Bà Gái… à bà Bình ấy là cháu nội còn ở đấy! Chiếc xe chạy băng băng dưới sức đẩy của đám trẻ háo hức nhiệt tình và tranh nhau hỏi: - Chú bộ đội bị thương ở đâu thế? - Chú có đánh trận Điện Biên không? - Chú còn đi được nữa không? - Chú không có vợ con à? - Chú Úy hay là Tá? - Là lính… trơn! – Anh trả lời bâng quơ. Một đứa ra vẻ người lớn, giải thích: - Chú giấu sao được bọn cháu. Đi bộ đội lâu thế, bị thương nặng thế, “bốn túi chân trì” lại được cấp xe riêng… bét cũng phải là Đại úy! ... Mời các bạn đón đọc Thời Bi Tráng của tác giả Nguyễn Văn Thịnh.