Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Lẵng Quả Thông - K. G. Paustovsky

Paustovsky ra đời ngày 31 tháng 5 năm 1892 trong một ngõ hẻm thành Mátxcơva. Dòng họ ông gốc kazak1 miền Zaporozhe, sau mới chuyển tới cư ngụ ở vùng ven sông Roshi gần tỉnh lỵ Belaya Serkov. Cha ông làm nhân viên thống kê ngành đường sắt. Ông nội là một cựu chiến binh kadak dưới thời Nga hoàng Nikolaev.   Cụ thân sinh ra Paustovsky là người mơ mộng và là người ở không yên chỗ. Sau thời gian tòng sự tại Mátxcơva, ông đổi đi Vino, rồi Pskov, sau cùng mới đậu lại Kiev. Mẹ Paustovsky lớn lên trong một gia đình tư chức ở một nhà máy đường. Tính khắc khổ, bà nắm mọi quyền hành trong nhà. Gia đình Paustovsky đông người, đủ tính đủ nết, nhưng hết thẩy đều yêu nghệ thuật. Cậu bé Paustovsky lớn lên trong tiếng đàn dương cầm, những giọng ca, những cuộc cãi vã nghệ thuật và những rạp hát.   Cậu bé bắt đầu cuộc đời học trò ở trường trung học số 1 thành phố Kiev. Khi cậu học tới lớp 6 thì gia đình khánh kiệt, cậu phải tự nuôi thân bằng một nghề bất đắc dĩ không xứng với tuổi học trò là nghề “gia sư”.   Đó là tóm tắt mấy dòng về con người về sau này trở thành nhà văn. Tôi chép lại tiểu sử ông ở đây theo thói thường phải viết tiểu sử nhà văn mà mình giới thiệu, chứ tôi biết tiểu sử chẳng giải thích được bao nhiêu vì sao Paustovsky chọn nghề văn chứ không phải nghề nào khác.   Truyện ngắn đầu tiên của Paustovsky được in khi Paustovsky còn là học sinh năm chót của trường trung học. Nó xuất hiện trong tạp chí “Những Ngọn Lửa”, là tạp chí văn học duy nhất của Kiev hồi bấy giờ, vào khoảng năm 1911. Sau khi tốt nghiệp trung học, Paustovsky thi vào đại học Tổng hợp Kiev. Hai năm sau, Paustovsky chuyển qua một trường đại học khác ở Mátxcơva và ở hẳn thành phố này từ đấy.   Chiến tranh Thế giới lần thứ Nhất bùng nổ. Paustovsky làm nghề bán vé xe điện, rồi lái xe điện, rồi y tá trong các đoàn tàu quân y con thoi chạy đi chạy lại giữa hậu phương và tiền tuyến. Mùa thu năm 1915 ông bỏ công việc dân sự để đi theo một đơn vị quân y dã chiến và làm một chuyến đi dài suốt từ thành phố Lublin (Ba Lan) đến tỉnh lỵ Nesvizh ở Belorussya. Trên đường, tình cờ nhặt được một mẩu báo, ông mới biết hai anh ông đã tử trận trong cùng một ngày trên hai mặt trận khác nhau. Paustovsky vội vã trở về với mẹ. Bà cụ lúc đó đang ở Mátxcơva.   Nhưng Paustovsky không thể ngồi lâu một chỗ. Bệnh xê dịch giày vò ông và ông lại lên đường, tiếp tục cuộc sống nay đây mai đó. Ông đi Ekaterinoslav để làm việc trong nhà máy luyện kim của công ty Briansky. Rồi bỏ đấy mà đi Yuzovka, từ đó đến Taranrog, làm trong các nhà máy. Ở Taranrog, Paustovsky khởi viết cuốn tiểu thuyết đầu tay của mình – “Những Kẻ Lãng Mạn”. Mùa thu năm 1916, Paustovsky lại một lần nữa bỏ Taranrog để đến nhận công tác tại Công ty liên hiệp hải sản Azovskoye.   Cách mạng Tháng Hai bùng nổ khi Paustovsky đang ở Mátxcơva. Lúc đó ông đã bước vào nghề báo. Ông viết: “Sự hình thành con người và nhà văn trong tôi bắt đầu từ những năm ấy, nó xảy ra dưới chính quyền Xô-viết và quyết định toàn bộ cuộc đời tôi từ đấy về sau”.   Sau thời gian ở Mátxcơva, ông lại quay về với mẹ, bà cụ lúc ấy đã sống ở Ukraina. Từ Kiev, nơi ông chỉ cư ngụ một thời gian ngắn, Paustovsky đi Ôđessa. Ở thành phố cửa biển này ông được sống trong môi trường các nhà văn trẻ và tài năng: Ilf, Bagritzky, Babel, Shenghel, Lev Slavin… Nhưng rồi ông lại giã từ những người bạn tuyệt vời của mình để trở về để tiếp tục cuộc hành trình vô định. Ông đi Sukhum, Batum, Tifflis. Từ Tifflis, Paustovsky đến Armenya, rồi lang bạt sang tận Ba Tư.   Năm 1923, Paustovsky trở về Mátxcơva trong một chuyến dừng chân, xin làm biên tập viên cho một tờ báo. Cũng từ đó tên tuổi của ông bắt đầu trở thành quen thuộc với độc giả qua những tác phẩm nối tiếp nhau ra đời.   Cuốn sách đầu tiên được Paustovsky coi là tác phẩm thực sự của ông là tuyển tập truyện ngắn “Những Con Tàu Đi Ngược Chiều Nhau”.   Mùa hè năm 1932 Paustovsky bắt đầu cuốn “Kara-Bugaz” và một số truyện ngắn khác mà về sau này ông đã kể lại khá tỉ mỉ trong “Bông Hồng Vàng”.   Sau khi “Kara-Bugaz” ra đời, Paustovsky xin ra ngoài biên chế, tức là thôi không làm cho nhà nước và ăn lương nhà nước nữa, để chuyên viết văn, “cái công việc duy nhất, choán hết mọi việc khác, có lúc thực cay cực, nhưng là cái bao giờ tôi cũng yêu mến”. Ở chế độ Xã hội Chủ nghĩa, việc xin ra ngoài biên chế để sống tự do được coi như một việc làm không bình thường, một hành động rồ dại, hoặc một hành động dũng cảm, tuỳ theo cách nhìn của mỗi người.   Trong cuộc sống tự do khỏi công việc nhà nước Paustovsky còn đi nhiều hơn nữa. Dấu chân ông in khắp mọi miền đất nước Xô-viết, từ bán đảo Konsky đến những sa mạc vùng Trung Á, từ các thành phố băng tuyết ở Cực Bắc đến những bờ biển ấm áp vùng Krưm tới những miền rừng rậm rạp của Sibir. Ngoài ra, ông còn đến Tiệp Khắc, đi tàu biển vòng quanh châu Âu, qua các thành phố Istanbul, Athena, Napoli, Roma, Paris, Rotterdam, Stockholm…   Trong Đại chiến Thế giới lần thứ Hai, ông làm phóng viên chiến tranh của Mặt trận phía Nam và ở đó ông cũng đi rất nhiều. Đời ông, từ lúc còn nhỏ cho đến năm 1921, được ghi lại khá đầy đủ trong các cuốn truyện mang tính hồi ký “Những Năm Xa Xôi”, “Tuổi Trẻ Không Yên”, “Sự Bắt Đầu Của Thế Kỷ Ta Chưa Biết”.   Paustovsky nói rằng nhà văn cần phải biết tạo ra tiểu sử cho mình. Tức là, ông muốn nói, nhà văn cần phải chủ động ném mình vào trong những xoáy lốc của cuộc đời, để được sống nhiều, sống thật trong nó, tự mình tạo ra nguồn nguyên liệu dồi dào cho công việc viết văn sau này. Ông nhìn những nhà văn cạo giấy, những viên chức văn chương bằng cái nhìn khinh bỉ.   Ông không chỉ viết nhiều, mà còn viết hay. Hiếm có nhà văn nào ở nước Nga được in toàn tập trong khi còn sống.2   Paustovsky là nhà văn không biết hài lòng về mình. Ông luôn nói rằng những gì ông đã viết chỉ là bước đầu, chứ toàn bộ công việc thực sự thì bao giờ cũng vậy, còn ở phía trước. *** Tập truyện ngắn Lẵng Quả Thông này gồm có: Âm nhạc verdi Chiếc nhẫn bằng thép Người đầu bếp già Chuyến xe đêm Bình minh mưa Bụi quý Hạt cát Tuyết Lẵng quả thông Cầu vồng trắng Cây tường vi *** Có một cái gì đó thật là đẹp đẽ trong sự giao tiếp của những con người dũng cảm trong phút hiểm nguy, trong cơn hoạn nạn. Trên boong tàu bọc thép của chiếc tuần dương hạm, đoàn kịch từ Matxcơva tới trình diễn vở Traviata ở ngoài trời. Những bác lái đò râu bạc tụ lại ở bến thuyền lát gỗ trên những chiếc xuồng cũ kỹ rao lên, giọng khàn khàn thúc giục:   - Ai muốn lên tàu đây? Ai muốn nghe nhạc nào? Chúng tôi sẽ đứng sát mạn tàu cho tới khi diễn xong nhé! Không chòng chành gì hết – xin cam đoan! Thế này mà chòng chành à, bà con! Những chiếc xuồng va vào nhau lủng củng gật gù hối hả chào bờ biển – sóng nhẹ đung đưa chúng. Những con ngựa thồ già yếu thường có cái lối gật đầu lia lịa như vậy.   Trên vũng biển trời lặng gió, sương chiều tỏa mờ. Những ngọn đèn tín hiệu đung đưa nhịp nhàng trên nước cạnh những mỏm đá bên bờ. Đêm mùa thu đến rất chậm. Mỗi bước đi nó lại dừng lại và mãi không sao dồn hết được những tia nắng cuối cùng của buổi chiều tà ra khỏi vũng biển sâu. Nhưng khi ánh sáng trên tuần dương hạm vừa lóe lên, bóng tối ồn ào đã ập xuống ngay. Nó chứa đầy âm thanh của mặt nước xáo động: tiếng sóng vỗ, tiếng nước róc rách, réo sôi. Người ta bắt đầu nghe thấy cái tất bật của hải cảng: tiếng mái chèo vội vã, tiếng máy nổ, tiếng gọi xa xa của những người lái tàu, tiếng còi rú giận dữ, tiếng sóng vỗ lớp lớp chạy trên mặt biển về khắp các ngả. Những âm thanh ấy từ bờ bến đổ về phía tuần dương hạm, nơi tiếng sáo phagốt bất ngờ vang lên trong dàn nhạc. Những chiếc canô cũng phóng ngay tới đó, bóng cờ hiệu đằng đuôi phấp phới trong nước. Tachiana Xônxeva được phân công đóng vai Viôleta. Cô đang hóa trang trong phòng của hạm trưởng, nơi các chiến sĩ thợ điện hải quân đỏ đã mắc những bóng đèn một trăm nến. Cô cài lên ngực bông hoa sơn trà và thoa phấn lên khuôn mặt gầy sút đi. Biểu diễn lúc này thật khó khăn – cô để lại ở Matxcơva một chú em bé bỏng bị ốm nặng. Chú đang nằm viện chờ một ca mổ. Xônxeva đang lo lắng nên không thấy gì cả: mặc thành phố xôn xao tiếng lá khô và gió thổi, mặc vô vàn đốm lửa như đàn ong vàng, vo ve lượn đi lượn lại trên vũng tàu, mặc cái không khí kỳ lạ tỏa khắp đường phố, mùi đá ẩm ướt và mùi cỏ đắng.   Cuộc phẫu thuật ấn định tiến hành sáng hôm nay, nhưng đến giờ phút này vẫn chưa có điện báo từ Matxcơva tới.   Xônxeva bước ra boong tàu hai bên chăng vải bạt. Những chiếc cần viôlôngxen gác trên tháp pháo màu gio. Âm nhạc Verđi rung lên trong sự yên tĩnh của con tàu bọc thép. Hàng trăm thủy thủ trẻ nín thở lắng nghe tiếng hát buồn thảm của Viôleta. Tiếng nhạc vang xa đến các bờ biển lân cận.   Những chiếc xuồng nhấp nhô bên mạn tàu. Người xem ngẩng đầu nhìn lên boong. Những bác lái thuyền cố gắng không làm mái chèo phát ra tiếng động và khi thuyền va vào nhau, họ chỉ lặng lẽ giơ nắm đấm lên, thay cho những trận đấu khẩu thường ngày.   Người trợ lý đạo diễn đứng đằng sau tháp súng như ở sau cánh gà có vẻ lo lắng. Trong túi anh ta có bức điện gửi cho Xônxeva. Anh cũng không biết nên bóc ra xem hay cứ để vậy đưa cho Xônxeva sau buổi diễn. Anh thì thầm trao đổi với người quản lý nhà hát.   Ông này giằng bức điện khỏi tay anh và bóc ra: - Không có gì đặc biệt, - ông ta vừa nhai nhai cái tẩu vừa nói, - cuộc phẫu thuật phải đình lại vì bệnh nhân mệt nặng. Giờ nghỉ anh có thể nói với cô ấy.   Người trợ lý đạo diễn nhăn nét mặt rồi gật đầu. Anh thợ lò Vaxia Tsukhốp mang cái biệt hiệu như mọi anh thợ đốt lò khác là “đồ quỷ sứ” được giao việc kéo chiếc màn làm bằng những cờ hiệu khâu lại. Vaxia nhỏ bé, chắc nịch, mặt đỏ gay vì gắng sức, không rời mắt nhìn người trợ lý đạo diễn. Cái anh chàng nhanh nhẩu nôn nóng này phải giơ tay ra hiệu cho Vaxia khi cần kéo màn.   Vaxia đã nghe hết câu chuyện ở bên tháp pháo. Nụ cười rạng rỡ từ từ tắt trên môi anh. Sang màn hai Xônxeva bước ra sân khấu rất luống cuống. Cô vừa đọc bức điện lúc giải lao. Cô thấy choáng váng chóng mặt. Khi Anfrết quỳ phục dưới chân cô, cô cúi xuống hôn vào thái dương non trẻ của anh. Một đường ven xanh mảnh nổi lên chỗ thái dương giống hệt như ở đứa em cô.   Xônxeva nuốt ực không khí rồi khóc. Nước mắt trào ra, nhưng cô vẫn hát. Giọng cô run run. Cô nhìn thấy những đốm sáng mờ ướt át và không nhận ra đó là ánh đèn sân khấu, ánh sao dưới nước, hay gương mặt xanh xao của các chiến sĩ hải quân. Lúc đó Vaxia Tsukhốp hạ màn, bất chấp tiếng kêu giận dữ ở phía sau tháp pháo. Anh đã không nghe lời. Mặt anh đanh lại. Đáp lại tiếng thì thào phẫn nộ của người trợ lý đạo diễn, anh trả lời hằn học và cộc lốc: - Anh sẽ phải tiếp chuyện vị chỉ huy con tàu đấy, tôi sẽ báo cáo mọi việc với đồng chí ấy. Boong tàu vang lên tiếng vỗ tay. Những khán giả chất phác cho vở kịch dừng lại là hoàn toàn hợp lý, sau cái cảnh căng thẳng đầy đau khổ như lúc Viôleta đầm đìa nước mắt. Không ai biết là vở kịch bị “đồ quỷ sứ” cắt ngang lúc mới bắt đầu.   Tsukhốp lại gần vị chỉ huy con tàu ngồi ở hàng đầu và báo cáo với ông về sự việc xảy ra. Chỉ huy trưởng đứng dậy. Đó là một người tóc bạc, ít nói. Trong đời mình, ông đã nhiều lần nhìn thấy cái chết trong những trận chiến cách mạng, nhiều phong ba và sự hy sinh của bao đồng đội. Ông đã từng biết sự tàn khốc trong chiến đấu, sự nghiêm ngặt của mệnh lệnh. Ông cô đơn. Tất cả những gì ông có trước cách mạng đều đã tan biến trong màn sương ảm đạm - cả xóm thợ mỏ Đô-nhét, cái trường làng bẩn thỉu, cả những con người của thời ấy mà chỉ để lại cái ấn tượng của một đám đông hoang mang mệt mỏi. Cách mạng đã xóa bỏ quá khứ bằng bàn tay cứng rắn, gieo vào ý thức sự giản dị và rõ ràng. Ông trung thành với cách mạng như một người lính, một thợ mỏ và một người có trí tuệ trong sáng và chính xác. Vị chỉ huy đứng dậy đi lên sân khấu. Boong tàu vẫn vang dậy tiếng gót giày và vỗ tay của các thủy thủ. Ở hậu trường, người phụ trách nhà hát, mặt tái đi vì tức giận, đón chỉ huy trưởng.   - Xin đồng chí yên tâm, - ông ta nói vội vã, - chúng tôi sẽ thu xếp ổn thỏa ngay bây giờ. Chuyện vớ vẩn, sự yếu đuối thường tình của phụ nữ đó thôi. Cô ấy sẽ hát.   - Cô ấy sẽ không hát nữa, - chỉ huy trưởng khoan thai nói. – Các đồng chí cho ngừng buổi diễn lại! Người phụ trách nhà hát nhún vai, cười khẩy: - Không thể được. Nhà hát chúng tôi làm việc theo kiểu tiên tiến, không thể vì tâm trạng diễn viên mà đình vở diễn được. Hơn nữa, có gì cần phải nói? Cô ấy đã trấn tĩnh và hoàn toàn có thể diễn tiếp.   Vị chỉ huy quay sang Xônxeva. Cô không nhìn ông, gật đầu.   - Đồng chí thấy là cô ấy đồng ý đấy, - người phụ trách nhà hát nói và vứt mẩu thuốc xuống boong tàu.   Câu chuyện này bắt đầu làm ông khó chịu. Vừa khó xử, vừa xấu hổ. Vị chỉ huy thoáng nhìn mẩu thuốc, và Vaxia Tsukhốp tức khắc gạt khẽ nó xuống biển.   - Các đồng chí đang ở trên hạm đội của hải quân đỏ. - Chỉ huy trưởng nói, bên má có vết sẹo của ông khẽ giật giật. – Xin lỗi đồng chí, nhưng ở đây tôi là người thừa hành quyền lực nên tôi cho phép mình can thiệp vào việc quản lý của đồng chí. Về công việc theo kiểu tiên tiến đồng chí quan niệm hoàn toàn sai lầm. Sự đồng ý của diễn viên không có ý nghĩa. Tôi ra lệnh hoãn buổi diễn này lại. Thế thôi. Không bàn cãi gì nữa.   Vị chỉ huy giơ tay và Vaxia Tsukhốp kéo màn. Khán giả im bặt.   - Các chiến sĩ hải quân đỏ! - Vị chỉ huy điềm đạm nói, - nữ diễn viên Xônxeva có chuyện không may trong gia đình, khó mà diễn tiếp được…   Tiếng xì xào truyền lan trong hàng thủy thủ. Mọi người đứng cả dậy. Vị chỉ huy không kịp nói vở kịch hoãn lại đến một ngày tốt đẹp hơn. Điều đó thì không cần lời giải thích của chỉ huy các chiến sĩ cũng hiểu.   - Cho ca nô lại gần tàu! - Chỉ huy khẽ ra lệnh.   - Rõ, cho ca nô lại gần tàu! Ca nô lại gần tàu! - Mệnh lệnh được truyền dần cho đến khi tắt ở boong dưới. Mấy phút sau vị chỉ huy cùng Xônxeva xuống thang tàu. Anh thượng sĩ cao lớn vạm vỡ trân trọng đặt lên cạnh chỗ Xônxeva ngồi một bó hoa, mặt đỏ lựng và khẽ hô lên:   - Hết tốc lực, tiến!   Ca nô đẩy lùi về phía sau thác nước đầy ánh lửa và bọt trắng, phóng về bến tàu. Vị chỉ huy ngồi trên ca nô nói:   - Tôi đã liên lạc với tư lệnh hạm đội. Cô được dành một chỗ trong chuyến tàu tốc hành đi Matxcơva. Chưa muộn đâu. Còn bốn mươi phút nữa.   Xônxeva cúi đầu. Cô lần lần những bông hoa mà không nói lên lời.   - Thưa đồng chí chỉ huy, - anh thượng sĩ cao lớn nói khẽ nhưng đủ cho Xônxeva nghe thấy, - báo chí viết là ở Matxcơva có một giáo sư mổ tim dễ như mổ gà ấy. Giá mà được ông ta…   - Im đi, Kuzmenkô! - Vị chỉ huy nói. Khoảng một giờ sau tàu tốc hành nhả khói ầm ầm lao ra khỏi đoạn đường hầm cuối cùng. Ánh lửa thành phố và bến tàu lùi lại sau những mỏm đá dựng đứng     * * *   Xônxeva ngồi trong phòng toa xe, không bỏ áo rét và khăn quàng. Cô loáng thoáng nhớ lại ánh đèn nhà ga, tuyết trên các nóc toa chở hàng, Maxcơva chìm trong bóng đêm cực đới, chiếc xe tắcxi cọc cạch, ánh sáng trắng đục trong hành lang bệnh viện.   Cô cũng nhớ loáng thoáng khuôn mặt của cậu em mỉm cười với cô trên giường bệnh.   - Mọi sự đã hoàn tất trót lọt. - Vị giáo sư có bộ râu nhọn dữ tướng nói với Xônxeva. – Trót lọt hiếm có đấy.   Xônxeva khẽ hôn lên thái dương non trẻ ươn ướt của em, nơi có một đường ven xanh mảnh nổi lên lờ mờ.   Và mấy giờ sau lại là đêm, nhà ga, người khuân vác mặt rỗ khó nhọc mới lấy hộ được chiếc vé, tiếng cầu sắt rầm rầm, tuyết, hoàng hôn u ám trên thảo nguyên ngoại thành Kharcôp và cuối cùng là màn sương lam trên vũng biển sâu, mặt trời cao và không khí dịu dàng của mùa thu ven biển.   Xônxeva nhảy lại gần cửa sổ - kia, tuần dương hạm vẫn đậu đó, chưa rời bến! Xônxeva luống cuống dứt dây chằng cửa sổ. Cô muốn thò đầu ra ngoài, vươn tay tới con tàu, vẫy nó rối rít bằng chiếc khăn tay trắng. Nhưng cửa sổ không mở ra và Xônxeva nhớ ra rằng đang là mùa đông và mặt trời chiếu sáng ở đây, trên các vĩ độ miền cực nam tuyệt đẹp này, là kỷ niệm cuối cùng của mùa hè. “Mong sao đoàn chưa đi nơi khác, chỉ mong đến kịp với họ”. – Xônxeva nghĩ thầm. Cô gặp lại các bạn bè trong thành phố bên bờ biển.   Một ngày sau trên chiến hạm lại trình diễn vở kịch bị bỏ dở. Khi “đồ quỷ sứ” kéo màn và Xônxeva bước ra sấn khấu, các chiến sĩ hải quân đứng cả dậy và tiếng vang của những tràng pháo tay chưa từng thấy trên vùng biển dội đến vùng bờ lân cận. Những bông hoa đồng nội giản dị rơi tới tấp xuống chân Xônxeva và hòa lẫn với đám nhung lụa trang phục cổ thành Vơnidơ. Vị chỉ huy đứng ở hàng đầu và thân ái mỉm cười. Xônxeva cúi đầu. Cô cảm thấy mi mắt nặng trĩu những giọt lệ như lần trước, nhưng đây là những giọt lệ ân tình hữu ái. Cô dằn lòng, ngẩng đầu lên mỉm cười. Ngay lúc đó dàn nhạc nổi lên và âm nhạc da diết của Verđi át cả tiếng sóng vỗ. Xônxeva rút bông sơn trà cài trên ngực ném xuống sàn. Thay vào đó cô cài bông hoa màu tím nhạt bám đầy bụi và khô héo. Đó là bông hoa vùng đất ngoại thành mà Vaxia Tsukhốp đã ném lên tặng cô. Cô hát tuyệt vời - giọng hát lanh lảnh ai oán trên vùng biển. Những ông già đánh cá ngồi trên bờ sát mạn nước, lắng nghe và kinh ngạc trước sức mạnh của tuổi trẻ con người. Chỉ huy trưởng lắng nghe và thầm nghĩ là không có gì làm cho tài năng nảy nở bằng tình bạn và sự quan tâm bình dị của đồng đội. Tưởng chừng Viôleta đang hát trên quê hương Vơnidơ. Ánh sao tỏa mờ trên những mỏm đá ven bờ. Ánh đèn xuyên tới tận đáy vịnh - nước trong đến như vậy. Không khí rung rinh vì những luồng khí nóng vô hình. Chân trời trên biển cả tuy đã về đêm, vẫn sáng lên hàng chục hải lý như đang lúc hoàng hôn. Sau buổi diễn các chiến sĩ hải quân vây xung quanh Xônxeva, nhưng họ nhanh chóng kính cẩn giãn ra. Bước lại gần Xônxeva, là một người thủy thủ cao lớn tay áo có những vòng viền vàng rộng - vị tư lệnh hạm đội. - Tôi muốn thay mặt toàn hạm đội cảm ơn đồng chí. – ông nói - Đồng chí đã đem lại niềm vui cao quý cho chúng tôi. Thế còn cậu em, đã khỏi rồi chứ? Xônxeva muốn nói rằng: không phải cô, mà chính những chiến sĩ trẻ sạm nắng này – khi thì đùa cợt, khi thì nghiêm trang, nhưng bao giờ cũng bình tĩnh và đầy thiện ý – đã cho cô được huởng một niềm hạnh phúc thực sự. Cô nghĩ rằng, với những khán giả như thế, thì cả Môda lẫn Betôven cũng phải ghen tỵ, nhưng cô không nói gì, chỉ ráng sức siết chặt tay vị tư lệnh. Gió mát thổi vào từ biển, nơi những ngọn hải đăng xa nhấp nháy trong bóng tối, trong tiếng rì rầm của làn sóng bạc đầu.   1935 MỘNG QUỲNH dịch Mời các bạn đón đọc Lẵng Quả Thông của tác giả K. G. Paustovsky.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Tuyển Tập Erich Maria Remarque
Erich Maria Remarque (22 tháng 6, 1898 – 25 tháng 9, 1970), tên khai sinh Erich Paul Remark, là nhà văn người Đức, được biết đến nhiều nhất với tác phẩm Phía Tây không có gì lạ. Ông sinh ra trong một gia đình thuộc giai cấp lao động ở thành phố Osnabrück, Đức. Cha của ông là Peter Franz Remark, còn mẹ là Anna Maria Một số tác phẩm của ông đã được dịch tại Việt Nam: Phía Tây Không Có Gì Lạ Bia Mộ Đen và Bầy Diều Hâu Gãy Cánh Ba Người Bạn Khải Hoàn Môn Chiến Hữu Bản Du Ca Cuối Cùng Lửa Yêu Thương Lửa Ngục Tù Một Thời Để Yêu Và Một Thời Để Chết Trong ebook này gồm có: Chiến Hữu Bản Du Ca Cuối Cùng Lửa Yêu Thương Lửa Ngục Tù Một Thời Để Yêu Và Một Thời Để Chết Phía Tây Không Có Gì Lạ Mời các bạn đón đọc Tuyển Tập Erich Maria Remarque.
Giây Phút Này - Guillaume Musso
Những tình tiết li kỳ đến nghẹn thở cùng một cái kết khó đoán định, câu chuyện của Musso như một thứ “thuốc kích thích” khiến người ta không rời mắt cho đến trang cuối cùng. Không để những độc giả của mình phải chờ đợi quá lâu, hơn một năm sau khi xuất bản Central Park, Guillaume Musso cho ra đời cuốn tiểu thuyết thứ 14 trong sự nghiệp của mình. Là sự kết hợp hoàn hảo giữa sự lãng mạn và những yếu tố liêu trai, ly kì, và một câu chuyện tình cảm động Giây phút này (tựa tiếng Pháp: L'instant present) giống như một ẩn số chờ bạn đọc khám phá. Nhân vật chính của cuốn tiểu thuyết là Arthur Costello, một bác sĩ trẻ sống có phần hơi bất cần. Được sinh ra từ cuộc tình ngoài luồng của mẹ, giữa Arthur và cha anh luôn có một lằn ranh không thể xóa nhòa. Bất ngờ, Arthur được thừa kế ngọn hải đăng với cái tên “Hai mươi tư ngọn gió” từ cha. Trước khi nhận phần “tài sản bất đắc dĩ” này, chàng trai trẻ đã được nghe về những cái chết thảm khốc từng xảy ra với những người chủ cũ của ngọn hải đăng, mà ông nội anh là một trong số đó. Dưới căn hầm của ngọn tháp có một lời nguyền đáng sợ hơn cả cái chết, mà từ giờ Arthur phải canh giữ. Nhưng sự tò mò như ngọn lửa luôn thiêu đốt tâm trí chàng trai trẻ. Arthur đã bước vào căn hầm đáng sợ đó và trở thành nạn nhân tiếp theo của lời nguyền về những chuyến du hành xuyên thời gian. Từ giây phút vướng phải lời nguyền khắc nghiệt ấy, Arthur giống như một lữ khách đi ngang qua cuộc đời. Bởi anh chỉ có khoảng một ngày để sống quãng đời mà người khác phải sống trong một năm. Đau khổ và tuyệt vọng, Arthur không còn dám mơ đến tình yêu, hạnh phúc hay một mái ấm gia đình. Những điều đó đã trở thành một thứ xa xỉ đối với anh. Đúng lúc này, Lisa xuất hiện như một tia nắng ấm áp sưởi ấm cuộc đời Arthur. Dằn vặt, đau đớn và xót xa, đã bao lần Arthur quyết định sẽ rời xa Lisa. Bởi anh biết lời nguyền kia giống như bóng ma đeo đẳng anh đến suốt đời. Điều đáng sợ nhất của lời nguyền không phải là những chuyến đi bất định xuyên thời gian, mà chính là cái chết. Cái chết sẽ xảy đến với những người mà Arthur yêu thương trong khoảng thời gian anh vướng phải lời nguyền. Hạnh phúc mà Arthur đã từng có, bỗng chốc sẽ tan biến như bọt biển. Nhưng Lisa vẫn muốn ở bên Arthur, bởi anh đã có mặt vào đúng lúc mà cô cảm thấy tuyệt vọng và đau khổ nhất. Lisa tin rằng, tình yêu của họ sẽ hóa giải được lời nguyền khủng khiếp tồn tại hàng trăm năm. Nhưng cuộc đời vốn không đẹp như những giấc mơ? Bởi từng cuộc sống của họ là một cuộc chiến dai dẳng với lời nguyền để được gần nhau thêm một phút. Khi những đứa con xinh xắn ra đời cũng là lúc Arthur lo sợ số mệnh sẽ cướp đi tất cả. Anh như một người lính quả cảm đang từng ngày chiến đấu với số mệnh. Liệu Arthur có thể dành được phần thắng trong cuộc chiến không cân sức này hay không? Kể về tình yêu, nhưng Guillaume Musso không đặt câu chuyện tình của mình vào những bối cảnh đời sống thường nhật, dễ đoán trước. Bằng trí tưởng tượng phong phú, tác giả đã tạo ra những tình huống có phần hồi hộp và ly kì để dẫn dắt người đọc đến đoạn kết. Dẫu có nôn nóng độc giả cũng không thể tìm cách “đi đường tắt” khi thưởng thức những tác phẩm của Musso. Nếu là người yêu thích các cuốn tiểu thuyết như Cuộc gọi từ thiên thần hay Central Park, chắc chắn bạn sẽ không phải thất vọng với Giây phút này. Hãy tận hưởng câu chuyện nhiều xúc cảm của tác giả nổi tiếng người Pháp. Để khi gấp sách lại ta nhận ra rằng: không cần sống trọn đời bên nhau, chỉ cần sống trọn vẹn bên nhau đã là quá đủ. Bởi hạnh phúc là biết trân trọng từng phút giây được bên nhau. Mời các bạn đón đọc Giây Phút Này của tác giả Guillaume Musso.
Chuyện Chàng Nàng - Marc Levy
Một lần nữa, ông vua của tiểu thuyết lãng mạn đương đại Pháp “bỏ bùa” độc giả bằng một câu chuyện tình giản dị mà đầy hóm hỉnh. Chuyện chàng nàng (tựa tiếng Pháp: Elle et lui) là cuốn tiểu thuyết mới nhất của Marc Levy, ra mắt vào giữa năm 2015 tại Pháp. Tác phẩm là câu chuyện tình đầy bất ngờ và bình dị của một nữ diễn viên người Anh và một nhà văn Mỹ. Hai con người cô đơn tìm đến Paris như một cách lẩn trốn. Không ngờ, thủ đô ánh sáng lại ban cho họ một tình yêu ngọt ngào.   Mia là một nữ diễn viên nổi đình nổi đám ở Anh. Cô bất ngờ phát hiện chồng mình là David đang phản bội. Nhưng trớ trêu thay, lúc này Mia và David đang đóng vai chính trong bộ phim sắp công chiếu. Nếu mọi chuyện bại lộ, sự nghiệp của Mia sẽ bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Quá mệt mỏi khi phải đóng vai một người vợ hạnh phúc trước công chúng, Mia quyết định đến Pháp sống cùng cô bạn thân Daisy để chạy trốn nỗi cô đơn đang dày vò trái tim cô. Còn chuyện tình cảm của Paul, anh chàng nhà văn có chút tiếng tăm người Mỹ cũng chẳng có gì khá khẩm. Sau những thất bại tình trường trong quá khứ anh đang có tình cảm với một nữ dịch giả người Hàn Quốc. Nhưng khoảng cách nửa vòng Trái đát làm Paul cảm thấy cô đơn. Người đàn ông Mỹ hóm hỉnh trải qua từng ngày trầm mặc ở Paris như để gặm nhấm nỗi cô đơn.   Do sự sắp xếp của vợ chồng đôi bạn thân của Paul mà anh và Mia gặp nhau trên một trang website kết bạn. Ban đầu, cặp đôi nhân vật chính chỉ định gặp gỡ, tán gẫu cùng nhau như những người bạn bình thường. Nhưng duyên phận luôn ẩn chứa những bất ngờ.   Paul và Mia tìm thấy một sức hút khó cưỡng ở đối phương. Dù lý trí đã nhiều lần phủ nhận tình yêu đó, nhưng con tim họ vẫn rung động. Cả hai vẫn yêu dẫu chưa hiểu rõ về nhau. Tình yêu mới dần chữa lành những vết thương lòng trong quá khứ của hai con người tội nghiệp.   Sẽ có một điều bất ngờ nho nhỏ dành cho những độc giả thân thiết của Marc Levy. Họ sẽ gặp lại Arthur và Lauren - cặp đôi nhân vật chính của tiểu thuyết Nếu em không phải một giấc mơ ở... tương lai.   Họ chính là người “chơi xỏ” anh chàng Paul hóm hỉnh bằng cách đưa thông tin của Paul lên website kết bạn. Nói một cách hài hước thì vợ chồng Arthur chính là ông tơ - bà nguyệt đưa Paul đến với Mia. Chuyện tình như định mệnh của cặp đôi Arthur và Lauren cũng được Marc Levy nhấn nhá một cách khéo léo trong Chuyện chàng nàng, như một phần bè phối hòa âm cùng chuyện tình của Paul và Mia.   Bằng ngôn ngữ giản dị, hóm hỉnh Marc Levy đã mang đến cho độc giả yêu thích dòng tiểu thuyết lãng mạn một câu chuyện tình duyên dáng và lung linh. Với lối kể đa chiều giàu chất điện ảnh, tác giả mang đến cho chúng ta một cuốn tiểu thuyết nhẹ nhàng, giàu cảm xúc mang hơi hướng của những bộ phim lãng mạn và hài hước đậm chất Hollywood như Letter to Juliet hay 27 lần cưới…   Chuyện chàng nàng là cuốn tiểu thuyết thứ mười lăm trong sự nghiệp của Marc Levy. Ông đã khéo léo lồng ghép những một phần cuộc đời mình vào nhân vật chàng kiến trúc sư Paul. Đọc tác phẩm, độc giả có dịp trải nghiệm hình ảnh một Paris cổ kính, duyên dáng và kiêu kỳ xuất hiện một cách tinh tế qua từng con chữ của nhà văn tài năng người Pháp. Để khi gấp sách lại ta như muốn chạy ngay đến phố Montmartre của Paris. Mời các bạn đón đọc Chuyện Chàng Nàng của tác giả Marc Levy.
Tên Tôi Là Đỏ - Orhan Pamuk
AudioBook Tên Tôi Là Đỏ   Cuốn sách là một hỗn hợp sắc bén giữa truyện vụ án, ngụ ngôn hậu hiện đại, tiểu thuyết lãng mạn lịch sử, và đặc biệt là ấn tượng về vẻ đẹp vĩnh hằng, huyền bí của Istanbul. Tên tôi là Đỏ có thể lay động gì tới đông đảo độc giả Việt Nam? Một câu trả lời thật khó mà cặn kẽ. Bởi bản thân cuốn tiểu thuyết này đã chứa đựng những thách thức. Không phải bề dày đồ sộ của gần 600 trang sách khổ lớn. Cũng không phải một câu chuyện vụ án ly kỳ có tới 3 án mạng bi thảm xảy ra. Các chương sách sẽ lôi tuột độc giả hướng về Istanbul của bốn trăm năm về trước, để lắng nghe lời thì thầm sâu thẳm của đô thành này, để thấu hiểu những mâu thuẫn trong quá khứ và hiện tại của Istanbul, cùng vẻ đẹp vĩnh hằng của nó. Tùy theo hành trình khám phá của độc giả, có nhiều câu chuyện đan xen trong cuốn sách đa tầng ý nghĩa này. Nhưng ấn tượng nhất là Istanbul, với đủ góc độ từ kinh thành tráng lệ cho tới những con phố nhỏ tối tăm. Đô thành ấy chứa đựng một bề dày văn hóa mà tiêu biểu là những cuốn sách của các nhà tiểu họa đạo Hồi, những người nhìn cuộc sống từ trên đỉnh cao của Thượng đế, dày công lặp lại hình thái nghệ thuật truyền thống, với họ, "cái Đẹp của thế giới thuộc về Allah". Một trong những chương sách gây sức hút nhất trong cuốn tiểu thuyết là chương 51. Trong đêm khuya thanh vắng, giữa một đêm mùa đông buốt giá, nhà tiểu họa già Osman đắm mình trong Quốc khố, lật giở những trang sách mình mơ ước suốt mấy chục năm qua. Một họa sĩ bậc thày với những ngón tay già nua bị tê cóng vì lạnh đang hào hứng bước vào thế giới của những xúc cảm tinh tế và đẹp đẽ của hàng nghìn trang sách quý. Ông không hay biết rằng say mê của mình đang đánh thức cả một bề dày quá khứ nhỏm dậy, và trong khoảnh khắc vui sướng tột độ ấy, Osman đã lấy cây kim từng đâm chọc mắt một nhà tiểu họa bậc thày để ấn vào mắt mình, với thái độ can đảm, bình tĩnh và kiên quyết. Các nhà tiểu họa Hồi giáo bao giờ cũng ẩn giấu trong mình khao khát được mù, sau nhiều năm cống hiến. Điểm nổi bật trong Tên tôi là Đỏ là sự đa thanh của các giọng điệu. 59 chương sách không có chương nào để lẫn hai giọng điệu đan xen. Mỗi người có một tiếng nói riêng. Cả con chó, cả xác chết, cả màu sắc… đều cất lên thứ ngôn ngữ riêng của mình. Đan cài trong những vụ án mạng, những giọng điệu xếp hàng thẳng dẫn dụ độc giả trôi vào một thế giới đầy màu sắc. Những tiếng nói không bị hạn chế tầm nhìn đã va đập dội vào nhau, là chất liệu làm nên một bầu không khí tin cậy về độ trung thực song lại mới mẻ đáng kinh ngạc với một cuốn tiểu thuyết lịch sử. Một điều sung sướng khác: câu hỏi lớn dành cho Orhan Pamuk, vì sao giải Nobel Văn học cao quý lại đến với đất nước Thổ Nhĩ Kỳ nhỏ bé sẽ được chính độc giả giải mã trong cuốn sách dày dặn này. Không phải sự đầu tư vô cùng lớn lao của Pamuk với chi tiết của hàng nghìn bức tiểu họa được dày công nghiên cứu. Cũng không hẳn là một cái nhìn giằng co căng thẳng giữa Đông và Tây luôn hiện diện trong các sáng tác của ông. Vượt lên trên đó là bản sắc văn hóa của Thổ Nhĩ Kỳ, là tình yêu của nhà văn đối với một thành phố đầy thăng trầm và biến động. Chính điều đó làm nên sức lay động trong cái nhìn sâu thẳm về lịch sử Thổ Nhĩ Kỳ, trên hành trình truy tìm linh hồn đau khổ của thành phố quê hương của Pamuk. Có thể nói, chính Istanbul cùng số phận của mình đã tạo nên Pamuk, một trong những tiếng nói mới mẻ và độc đáo nhất trong văn chương đương đại. Tên tôi là Đỏ được lấy từ một chương sách là một cảm hứng bất tận trong cuốn tiểu thuyết này. Như đã nói, tác phẩm là một thách thức đối với độc giả, không phải vì câu chuyện vụ án chỉ được giải mã ở phần kết, mà người đọc sẽ cảm nhận và ngấm dần một nền văn hóa vốn đang bị lãng quên, nơi giao thoa giữa châu Âu và châu Á. Trên hành trình khám phá ấy, điều bất ngờ đó là một cái nhìn gần gũi và thân thuộc như trong bất kỳ xã hội nào: những mối tình tuyệt đẹp, những đè nén tâm lý, những khát khao đầy bản năng… mà điểm khác biệt chính là cách giải quyết vấn đề ấy, với những lý giải của văn hóa và tôn giáo của đô thành Istanbul thế kỷ 16. Tác phẩm là một cột mốc văn học với giải thưởng Nobel 2006, là kiệt tác xứng đáng để giới thiệu tên tuổi của Pamuk đến với thế giới, trong đó có độc giả Việt Nam. Mời các bạn đón đọc Tên Tôi Là Đỏ của tác giả Orhan Pamuk.