Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Bọn Chiếm Đóng - Kobo Abe

Trong khi Murakami và Yoshimoto là những nhà văn đang nổi lên trên văn đàn Nhật Bản và là hai nhân vật hết sức quen thuộc ở Việt Nam hiện nay, tôi muốn lưu ý bạn đọc về một xu thế mới có lẽ tồn tại như một dòng chảy ngầm. Khi nói về xu thế này, vào năm 1990 nhà văn danh tiếng Kenzaburo Oe ( 1935 - 2007), Giải thưởng Nobel Văn chương năm 1998 có viết: “Lớp nhà văn này đã tích luỹ trong mình  cảm nghĩ về thực trạng xã hội và sức mạnh của văn học. Trong số họ nổi lên hàng đầu là Kobo Abe, một trong những gương mặt quan trọng nhất, nổi bật nhất sau chiến tranh. Ông sáng tác với ý thức tách khỏi truyền thống Nhật Bản, tuy gắn bó với việc xây dựng thế giới ảo tưởng, nhưng vẫn in đậm một lối nhìn riêng tư mà nghiêm túc về đời sống hiện đại”. Kobo Abe sinh ngày 7.3.1924 tại Tokyo. Tên thực của ông là Kimifusa (“Kobo” là cách phát âm theo Hán tự của từ “Kimifusa”). Cha ông là bác sỹ tại một bệnh viện nằm trong trường Cao đẳng Y khoa Hoàng gia ở Manchuria. Khi còn trẻ, Abe rất hứng thú với môn toán học và sưu tập côn trùng. Cũng giống nhiều nhà văn Nhật Bản hiện đại nổi tiếng thế hệ trước như Mori Ogai, Natsume Soseki, Tanizaki Junichiro... ông tiếp thu và chịu ảnh hưởng sâu sắc các nhà tư tưởng bậc thầy của phương Tây, có lẽ do nhiều năm sống ở nước ngoài và đời sống văn hoá đương đại của nó đã thôi thúc ông, nghiên cứu các nhà triết học phương Tây như Heidegger, Jaspers và Nietzsche... Năm 1941 Abe trở về Nhật Bản, năm 1943 ông thi đỗ Đại học Tokyo rồi theo học y khoa tại đây. Luôn ốm yếu do mắc bệnh đường hô hấp nên Abe được miễn quân dịch. Trong chiến tranh, ông tới sống ở Manchuria. Sau khi khỏi bệnh Abe tiếp tục việc học hành và tốt nghiệp vào năm 1948, nhưng ông tự nhủ sẽ không bao giờ hành nghề y. Từ đấy Abe đã bước vào sự nghiệp văn học. Ông tham gia nhóm văn chương do Kiyoteru Hamada dẫn dắt. Khuynh hướng sáng tác là hợp nhất các kỹ thuật của Chủ nghĩa siêu thực với tư tưởng Marxist. Ngay từ năm 1943 Abe đã cho ra đời một tác phẩm đầu tay. Bạn đọc hẳn đã nhận thấy Haruki Murakami tác giả Rừng Na-uy viết với một phong cách bộc trực, giọng điệu trung tính, lạnh lùng, câu ngắn gọn, đôi khi cộc lốc. Ông tránh lối diễn đạt uyển chuyển mà người Nhật hay dùng để câu nói mềm mại hơn khiến ngôn từ trở nên mập mờ. Còn văn  phong của Abe lại cô đọng và chuẩn mực, nó cho thấy nỗi bận tâm của ông đối với tư tưởng của tác phẩm hơn là kỹ thuật viết cốt tạo ra phong cách . Những nhà văn chủ chốt có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển thẩm mỹ văn học của ông: Edgar Allan Poe, Samuel Beckett, Rainer Maria Rilke và Fyodor Dostoyevsky, và đặc biệt là Franz Kafka. Ảnh hưởng Kafka càng rõ rệt trong tác phẩm Kabe - Esu Karuma shino hanzai (Bức tường - tội lỗi của S.Karma, 1951). Tác phẩm này được Giải Akutagawa, giải thưởng văn học cao quý nhất ở Nhật, kể chuyện một người phát hiện ra rằng tấm danh thiếp của anh ta tự hoá thành người và giả dạng anh ta mà phạm tội khiến anh bị toà án lôi ra phán xử. Năm 1947 Abe cho ra mắt một tuyển tập thơ. Abe chỉ thực sự được coi là một nhà văn nổi tiếng với tiểu thuyết Owarishi michi no shirube ni (1948), kể về cuộc đời một kẻ nghiện thuốc phiện. Vào những năm 1950, Abe gia nhập Đảng Cộng sản Nhật Bản. Năm 1962 ông xin ra khỏi đảng bởi những bài báo phê phán chính sách của đảng này. Những tác phẩm mang tính cách trải nghiệm của Abe được thế hệ độc giả trẻ hết sức ngưỡng mộ. Abe đã nhận được giải thưởng cho ba truyện ngắn của ông, “Akai mayu” (1950, Cái kén đỏ), “Kabe” (1951) và “S.Karuma - Shi no hanzai” (1951). Như nhiều nghiên cứu đã đề cập tới, vấn đề chủ đề và phong cách viết thường là nỗi ám ảnh đối với nhà văn Kafka đến mức ông đã phải khai thác nhiều yếu tố qua các truyện khoa học viễn tưởng và trinh thám để xây dựng tác phẩm của mình. Còn các tiểu thuyết và vở kịch của Abe thì đặc trưng ở sự quan sát kín đáo và các kỹ thuật viết tiên phong (avant - garde techniques). Khi đã quen thuộc một số tác phẩm của Kobo Abe bạn đọc sẽ nhận thấy thông thường các cảnh ngộ hay hoàn cảnh mà các nhân vật của ông phải đối mặt, hay đương đầu, thường là kỳ quặc, không giống thực tế và thái độ cùng hành vi của họ được bộc lộ qua khái niệm tự do ý chí. Các tác phẩm sau của Abe là những minh chứng cụ thể cho nhận định này: Daiyon kampyoki  (1959), Moetsukita chizu (1967, Tấm bản đồ rách), Mikkai (1977) và Hako otoko (1974, Người đàn ông trong chiếc hộp). Ở phương Tây, Abe hết sức nổi tiếng với hai tiểu thuyết The Woman in the Dunes, (1962, Người đàn bà trong cồn cát) và The Face of Another (1964, Khuôn mặt người khác). Chủ đề trung tâm trong các tác phẩm này của Abe là nỗi lạc lõng về thân phận, mặc cảm bị xa lánh và ghét bỏ, nỗi cô đơn cá nhân giữa một thế giới kỳ quặc, và những con người gặp khó khăn trong việc hòa nhập với cộng đồng. Hai kiệt tác này là các tác phẩm vượt khỏi mỹ quan truyền thống Nhật Bản, sáng tạo mới mẻ, dùng nhiều ẩn dụ, nhiều hình tượng cụ thể hay siêu thực để diễn tả nội tâm và tiềm thức con người bị tha hoá, vong ngã, trong xã hội đô thị. Các quan niệm giáo điều hay thành kiến đã được ông lật ngược lại. Thông thường con người được xem là trung tâm của vũ trụ, chúa tể của muôn loài, tác phẩm của ông lại chủ trương bình đẳng giữa các loài. không những thế còn có thể biến đổi từ loài này sang loài khác, và ngược lại, con người hoá thân thành sinh vật, sinh vật lại mang nhân cách như con người. Ông đề cao ý thức, lại chủ trương nhục thể chi phối tinh thần, hoàn cảnh xã hội quy định ý thức, và tự do chỉ có thật khi cá thể thoát ra khỏi mọi tập thể như quốc gia hay cộng đồng. Kobo Abe không ngừng thử nghiệm những thủ pháp và tư tưởng mới lạ, kể cả khoa học viễn tưởng, triết lý hiện sinh, chủ nghĩa hiện thực huyền ảo. Với số lượng tác phẩm to lớn và những đóng góp đặc sắc của ông cho văn học Nhật Bản, Kobo Abe  được đánh giá là một trong những tác gia quan trọng nhất của nền văn chương nước này ở thế kỷ XX. Những tác phẩm chính: Người đàn bà trong cồn cát (1963), Khuôn mặt người khác (1964), Người hộp (1973) Cái Kén Đỏ Chiếc thuyền Nô-Ê Bọn Chiếm Đóng Và một số và kịch. *** Abe Kôbô là một trong những nhà văn hậu chiến Nhật Bản thế hệ Shôwa 30 (từ năm 1955 trở đi) có khuynh hướng đi tìm một thủ pháp mới với mục đích bắt gặp con người toàn thể như một sinh vật có tính xã hội và chính trị. Nhà văn thế hệ nầy đều muốn tìm hiểu đâu là lối sống thích hợp của con người trong điều kiện của xã hội hiện tại. Abe Kôbô trên giấy tờ được gọi là Kimifusa theo cách đọc âm Nhật của hai chữ Hán Kôbô. Song thân gốc miền bắc (đảo Hokkaidô) nhưng ông sinh ra ở Tôkyô ngày 7 tháng 3 năm 1924. Cha ông, một bác sĩ y khoa tùng sự tại Mãn Châu. Do đó, ông lớn lên ở Phụng Thiên (nay là Thẩm Dương thuộc Trung Quốc) nhưng đã trở về nước để học thuốc và tốt nghiệp y khoa Đại học Đế Quốc Đông Kinh năm 1948. Sau khi Nhật bại trận và cha chết, ông sống cuộc đời nghèo túng nhưng vẫn cố gắng bỏ tiền túi in thơ (1947) và tiểu thuyết (1948). Không hành nghề y như cha, ông theo nghiệp văn như mẹ, một nhà giáo có đầu óc khuynh tả. Đầu tiên, ông sử dụng một bút pháp trừu tượng, xa rời hiện thực, nhưng sau chuyển qua văn phong tiền vệ với khuynh hướng đi tìm những ý tưởng và phương pháp biểu hiện mới mà trung tâm là những câu chuyện ngụ ngôn có tính khoa học giả tưởng. Đặc điểm của văn chương ông trước tiên là bản chất con người khoa học của ông. Thứ đến là tình cảm thiếu quê hương vì nơi ông gắn bó sâu đậm nhất là Mãn Châu, một nơi về sau đã trở thành một tỉnh của Trung Quốc. Ở Tôkyô, ông có cảm tưởng như mình sống trong một miền đất lạ. Quê hương ông là Mãn Châu có sa mạc ngút ngàn và những cơn bão cát chứ không phải là thành phố Tôkyô xô bồ, lạ mặt. Đặc điểm thứ ba là kinh nghiệm đau thương của cuộc sống khốn cùng sau những ngày Nhật Bản bại trận, lúc người di dân lập nghiệp ở thuộc địa trong số đó có gia đình ông đã phải vượt qua bao khó khăn để có thể về đến mẫu quốc. Người có ảnh hưởng đến lối suy nghĩ của ông là Abe Rokurô, ông giáo dạy tiếng Đức và là nhà nghiên cứu về triết học của Nietsche [1] và Shestov [2]. Qua Abe Rokurô, ông làm quen được Haniya Yutaka [3]. Trước khi ra trường (1947), ông kết hôn với Yamada Machiko, một nữ sinh viên ngành hội họa. Họ sống đạm bạc trong một căn nhà lợp tạm và đeo đuổi hoạt động nghệ thuật. Bà Machiko đã giúp đỡ ông rất nhiều trong việc trang trí hình bìa những tác phẩm và trong việc dựng phông cảnh khi Abe chuyển qua kịch nghệ. Tài năng của Abe đa dạng. Ông không những làm thơ, viết văn, dựng kịch, vẽ tranh mà còn chen vào các lãnh vực truyền thanh, truyền hình. Ở đâu, ông cũng chứng tỏ một tài năng phi thường và thí nghiệm không mệt mỏi những thủ pháp diễn đạt mới. Vì lúc nào cũng đi trước thời đại nên không phải ai cũng yêu chuộng ông. Mumyô shishuu "Tập thơ không tên" (1947) là tác phẩm đầu tay. Akai Mayu "Cái kén đỏ" (1950) giúp ông đoạt giải thưởng văn học hậu chiến, Kabe - S. Karuma nohanzai "Bức tường. tội của S. Karma" (1951) đem giải Akutagawa về tay ông lúc mới có 27 tuổi. Sau đó là một loạt tác phẩm như Daishikan Hyôki "Thời kỳ băng hà thứ tư" (1959), Suna no Onna "Người đàn bà trong động cát" (1962), Ta.nin no kao "Gương mặt kẻ khác" (1964), tất cả đều gây nên tranh cãi. Ngoài các vở kịch như Doreigari "Săn nô lệ" (1955), Yuurei wa koko ni iru "Đây có ma" (1958), sau nầy ông còn viết Hako-otoko "Người hộp"(1973) Hakobune sakuramaru "Chiếc thuyền lợp mái tránh lụt tên gọi anh đào" (1984). Với lối viết tiền vệ, nhà văn Abe Kôbô được sắp vào số tác giả khoa học giả tưởng qua "Bức Tường - Tội của ông Karuma","Thời băng hà thứ tư"nói trên, cũng như Moetsukitachizu "Bức địa đồ cháy rụi" (1967) mà ông viết theo phong cách nhà văn Pháp Alain Robbe-Grillet. Ông đặc biệt chú trọng tới chủ đề tha hóa (alienation). Abe Kôbô còn nhảy vào sân khấu như lạc bước vào một mê cung lúc nào không hay. Năm 1955, trong một cuốn tiểu thuyết nhan đề Seifuku "Đồng Phục" ngẫu nhiên có một số đoạn, ông trình bày như đối thoại của kịch. Thế rồi, Yuurei wa koko ni iru "Đây có ma" (1958) của ông đã ra đời 3 năm sau như ta đã biết. Ông đưa lên sân khấu những ảo tưởng (phantasm) của thời mới như ảo tưởng tinh thần, tâm lý hay thương mãi và muốn bắt nọn khán giả. Ông xem sân khấu phải là một loại chất dẻo để khán giả có thể nắn theo ý mình và để lại những dấu tích sự tham dự của họ vào quá trình xây dựng chung giữa nhà viết kịch bản, diễn viên và khán giả đó. Khán giả không thể là vô can. Họ được xem như có khả năng phạm tội. Ông muốn nói như thế về vai trò của người xem kịch khi viết vở Omae ni mo tsumi ga aru "Mầy cũng có tội nữa đấy" (1965). Một ví dụ khác với vở Enomoto Takeaki (1967), trong đó ông mô tả cuộc nổi loạn để thành lập một chế độ Cộng Hòa ở Hokkaidô năm 1870 của Enomoto Takeaki nhưng không phải là không muốn chất vấn khán giả về thái độ họ phải chọn lựa trước sự kiện ấy. Từ năm 1969, Kôbô chuyển qua dàn cảnh và thành lập trung tâm nghiên cứu và thí nghiệm kịch nghệ Abe Kôbô Studio (từ 1973), thử sửa đổi và dựng lại nhiều vở cũ, chuyển một số tiểu thuyết, kịch phóng thanh, kịch bản phim đã viết thành kịch nói. Danh tiếng ông vang dội trong lẫn ngoài nước. Hầu như cứ một lần viết một tác phẩm mới, ông lại như nới rộng thêm chân trời văn học. Ông được quốc tế đánh giá cao, tác phẩm được dịch ra nhiều thứ tiếng như Anh, Ý, Đức. Tháng 9 năm 1992, ông được Hàn Lâm Viện Khoa Học Nghệ Thuật Hoa Kỳ trao tặng danh hiệu hội viên danh dự. Chẳng bao lâu, một ngày cuối năm, đang ngồi viết trong thư phòng, ông bị tai biến mạch máu não, mê man và được đưa vào bệnh viện cấp cứu. Đầu năm sau, lại nhập viện vì vấn đề tim mạch và mất vào ngày 22 tháng giêng năm 1993, khép lại cánh cửa một cuộc đời hoạt động văn học nghệ thuật không ngừng nghĩ.   Mời các bạn đón đọc Bọn Chiếm Đóng của tác giả Kobo Abe.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Trật Tự Đen - James Rollins
Cuộc phiêu lưu hồi hộp đến đứng tim cùng bí mật lịch sử đã đưa Trật tự đen trở thành cuốn tiểu thuyết bán chạy kỷ lục, gây sôi động và nhiều tranh luận nhất từ trước tới nay của James Rollins. Bạn đọc bị cuốn hút vào câu đố bí ẩn đằng sau các chữ Run huyền bí. Một vụ cháy dữ dội xảy ra ở một hiệu sách đã nhóm lên một cuộc săn lùng không mệt mỏi xuyên suốt bốn lục địa. Hành động đốt nhà, giết người lộ rõ âm mưu xảo quyệt nhằm lấy trộm cuốn Kinh thánh từng thuộc về Charles Darwin, cha đẻ thuyết Tiến hóa. Chỉ huy trưởng chiến dịch Gray Pierce đã dấn thân vào tìm hiểu, khám phá bí mật từ thời Đức quốc xã và những cuộc thí nghiệm khủng khiếp mà người ta thực hiện tại một phòng thí nghiệm bỏ hoang chôn sâu trong những dãy núi đầy hang hốc tại Ba Lan. Cách một lục địa, bệnh điên tàn phá một tu viện xa xôi, hẻo lánh trên vùng núi cao của Nêpan, các vị sư biến thành những kẻ ăn thịt người và tự hành xác. Một nữ bác sĩ Hoa Kỳ đang tiến hành điều tra vụ việc, đột nhiên trở thành mục tiêu của một tên ám sát tàn bạo... Tất cả đang trông chờ vào tài thao lược của Gray Pierce... Không chỉ là cuộc phiêu lưu cổ điển mà còn là một cuộc phiêu lưu đầy tài trí, khiến người ta sửng sốt trước những khám phá... Trật tự đen xứng đáng là lựa chọn đầu tiên cho thể loại hành động và phiêu lưu... *** T rong những tháng cuối của Thế chiến thứ II, lúc Đức quốc xã sụp đổ, một cuộc chiến mới đã bắt đầu giữa các bên Đồng minh: để cướp bóc công nghệ của các nhà khoa học Đức. Một cuộc tranh tài giữa Anh, Mỹ, Pháp và người Nga đều là vì lợi ích riêng của mỗi nước. Các bản quyền phát minh bị đánh cắp: ống chân không mới, hóa chất và chất nhựa dẻo, thậm chí cả phát minh thanh trùng sữa bằng tia cực tím. Song, rất nhiều bản quyền phát minh đã mất hút xuống cái giếng sâu thẳm của những dự án đen, ví dụ như Điệp vụ Chiến dịch ghim kẹp giấy, với hàng trăm nhà khoa học nghiên cứu tên lửa V-2 phát xít đã được bí mật tuyển dụng và đưa vào Mỹ. Nhưng người Đức đã không chịu từ bỏ công nghệ của họ một cách dễ dàng như thế. Họ cũng chiến đấu để bảo vệ bí mật với hy vọng hồi sinh Đế chế thượng đẳng. Các nhà khoa học bị sát hại, các phòng thí nghiệm nghiên cứu bị phá hủy, các bản vẽ giấu kín trong các ngăn kéo, nhấn chìm xuống đáy hồ, chôn vùi trong các bản mật mã. Với mục đích tất cả là không để lọt vào tay các nước Đồng minh. Cuộc lùng kiếm trở nên nản chí. Có đến hàng trăm phòng thí nghiệm nghiên cứu vũ khí của Đức quốc xã, rất nhiều nằm ngầm dưới đất, trải khắp vùng đất đai của nước Đức, Áo, Tiệp, và Ba Lan. Một phòng thí nghiệm bí hiểm nhất là một mỏ nằm ngoài một ngọn núi nhỏ của thị trấn Breslau. Cuộc lùng kiếm tại địa điểm này có mật danh là “die Glocke” hoặc là “Cái chuông”. Người dân quanh vùng này báo là họ thấy những ánh sáng lạ cùng những căn bệnh và những cái chết bí hiểm. Quân đội Nga đến mỏ này trước. Mỏ bị bỏ hoang. Tất cả sáu mươi hai nhà khoa học tham gia vào dự án đã bị thủ tiêu. Còn chính thiết bị kia thì đã biến mất tăm vào đâu đó chỉ có Trời mới biết. Tất cả những gì người ta chắc chắn đã biết: Cái chuông là có thật. Mời các bạn đón đọc Trật Tự Đen của tác giả James Rollins.
Thiên Thần Nhỏ Của Tôi - Nguyễn Nhật Ánh
Khi dọn về ngôi nhà mới, Kha có một cô bạn nghèo sống trong ngõ hẻm gần đó. Khu vườn và ngôi biệt thự mà cha mẹ Kha được cấp không ngờ là nơi quen thuộc của Hồng Hoa, cứ như cô ấy đã gắn bó với nó từ lâu rồi. Vì thế, dù bị chủ nhà mới ngăn cấm, cô vẫn lén lút tìm vào khu vườn, để rồi gặp phải tai nạn... Và… *** Nguyễn Nhật Ánh là tên và cũng là bút danh của một nhà văn Việt Nam chuyên viết cho tuổi mới lớn. Ông sinh ngày 7 tháng 5 năm 1955 tại huyện Thăng Bình, Quảng Nam. Thuở nhỏ ông theo học tại các trường Tiểu La, Trần Cao Vân và Phan Chu Trinh. Từ 1973 Nguyễn Nhật Ánh chuyển vào sống tại Sài Gòn, theo học ngành sư phạm. Ông đã từng đi Thanh niên xung phong, dạy học, làm công tác Đoàn Thanh niên Cộng Sản Hồ Chí Minh. Từ 1986 đến nay ông là phóng viên nhật báo Sài Gòn Giải Phóng, lần lượt viết về sân khấu, phụ trách mục tiểu phẩm, phụ trách trang thiếu nhi và hiện nay là bình luận viên thể thao trên báo Sài Gòn Giải Phóng Chủ nhật với bút danh Chu Đình Ngạn. Ngoài ra, Nguyễn Nhật Ánh còn có những bút danh khác như Anh Bồ Câu, Lê Duy Cật, Đông Phương Sóc, Sóc Phương Đông,... *** Thế là đã gần hai tháng trôi qua kể từ ngày đầu tiên tôi gặp Hồng Hoa. Quãng thời gian ngắn ngủi đó không ngăn cản tôi và Hồng Hoa tin rằng chúng tôi đã quen nhau từ rất lâu và hôm nay chúng tôi đã trở thành một đôi bạn rất đỗi thân thiết, mặc dù cho đến tận bây giờ tôi vẫn chưa biết chỗ ở của Hồng Hoa. Hồng Hoa không muốn tôi đến chỗ nó, một phần do nó nghĩ đó chỉ là nơi ăn nhờ ở đậu, phần khác chắc nó sợ tôi cao hứng gây sự với ông anh quí hóa của nó. Tuy nhiên, tôi không cảm thấy phiền lòng nhiều về điều đó. Bởi vì từ sau cái tuần lễ tránh mặt tôi vì bị tôi bắt gặp ngoài chợ đến nay, trong những buổi chiều tôi nghỉ học, chiều nào Hồng Hoa cũng đến chơi với tôi trong vườn. Những lúc đó, ngôi vườn đối với chúng tôi chính là ngôi nhà ấm cúng của tuổi thơ, nơi chúng tôi mê mải chơi đùa quên cả giờ giấc hoặc ngồi im lặng bên nhau hằng giờ ngắm một chú chim lơ láo tìm mồi trong vòm lá hay ngắm một đàn kiến đang xếp hàng và nối đuôi nhau đi không đứt dưới những bụi cỏ rậm, cũng có khi chúng tôi chỉ ngóng cổ ngồi chờ một chiếc lá rơi. ... Mời các bạn đón đọc Thiên Thần Nhỏ Của Tôi của tác giả Nguyễn Nhật Ánh.
Thằng Quỷ Nhỏ - Nguyễn Nhật Ánh
Bạn bè thân của Nguyễn Nhật Ánh vẫn gọi anh bằng biệt danh “thằng quỷ nhỏ”, theo tên một truyện dài cùng tên của anh, đã được in lần thứ 11 và được dựng thành kịch, thành phim. Thằng quỷ nhỏ trong truyện là một cậu học trò nghèo, chăm học, tinh nghịch và có đặc điểm “hai vành tai ve vẩy như hai cánh bướm”. Ở ngoài đời anh không có đặc điểm đó, nhưng anh biết cách kể chuyện khiến người nghe phải “ve vẩy” đôi vành tai. Ông Lê Hoàng, Giám đốc NXB Trẻ, cho biết: “Trong năm 2003, NXB Trẻ sẽ tái bản toàn bộ truyện của Nguyễn Nhật Ánh, mỗi tuần một tập (phát hành vào ngày thứ hai) theo nhu cầu của các em thiếu niên”. 50 tập truyện sẽ được tái bản với số lượng 7.000 cuốn/tập. Một số lượng sách tái bản và tiền nhuận bút thật “đáng nể” đối với một nhà văn Việt Nam. Một số nhà phê bình có thể không thích truyện của Nguyễn Nhật Ánh vì cho rằng truyện viết cho tuổi mới lớn chưa phải là những tác phẩm “lớn”. Nhưng họ cũng phải công nhận rằng truyện của Nguyễn Nhật Ánh có độc giả và anh là một trong số ít nhà văn Việt Nam hiện nay sống được bằng chính tác phẩm của mình. Đối với một nhà văn, điều quan trọng nhất là viết (chứ không phải nói) để có tác phẩm. Nguyễn Nhật Ánh đang làm công việc đó một cách xuất sắc. *** Nguyễn Nhật Ánh là tên và cũng là bút danh của một nhà văn Việt Nam chuyên viết cho tuổi mới lớn. Ông sinh ngày 7 tháng 5 năm 1955 tại huyện Thăng Bình, Quảng Nam. Thuở nhỏ ông theo học tại các trường Tiểu La, Trần Cao Vân và Phan Chu Trinh. Từ 1973 Nguyễn Nhật Ánh chuyển vào sống tại Sài Gòn, theo học ngành sư phạm. Ông đã từng đi Thanh niên xung phong, dạy học, làm công tác Đoàn Thanh niên Cộng Sản Hồ Chí Minh. Từ 1986 đến nay ông là phóng viên nhật báo Sài Gòn Giải Phóng, lần lượt viết về sân khấu, phụ trách mục tiểu phẩm, phụ trách trang thiếu nhi và hiện nay là bình luận viên thể thao trên báo Sài Gòn Giải Phóng Chủ nhật với bút danh Chu Đình Ngạn. Ngoài ra, Nguyễn Nhật Ánh còn có những bút danh khác như Anh Bồ Câu, Lê Duy Cật, Đông Phương Sóc, Sóc Phương Đông,... *** Rốt cuộc rồi Nga cũng phát hiện ra bí mật quanh những bông hoa, điều mà Nga tưởng sẽ không bao giờ khám phá nổi. Chuyện xảy ra hoàn toàn tình cờ. Tối đó, đã lên giường nằm rồi, Nga sực nhớ mình bỏ quên thỏi chocolat trên đầu tủ buýp-phê. Thỏi chocolat hồi chiều ba mua cho, Nga vội đi mua dầu lửa cho chị Ngàn, không kịp ăn. Suốt buổi tối, Nga quên bẵng. Thỏi kẹo vẫn nằm yên trên đầu tủ. Thoạt đầu, làm biếng chui ra khỏi mùng, Nga định thôi. Nhưng nghĩ đi nghĩ lại, sợ chuột tha mất, Nga lồm cồm ngồi dậy đi ra phòng khách. Nga rón rén đi từng bước một. Nga không sợ chị Ngàn hay thằng Ngoạn thức giấc. Chị Ngàn và Ngoạn hề đặt lưng xuống giường là ngủ say như chết. Nhưng tối nay ba về ngủ nhà. Mà ba lại có tật khó ngủ. Vì vậy, Nga làm con mèo. Nga nín thở đi trên những đầu ngón chân. Vừa ra khỏi phòng ngủ, Nga ngạc nhiên thấy phòng khách còn sáng đèn. Tưởng ba không không ngủ được, ra ngồi đọc sách, Nga nhẹ nhàng bước lại. Hóa ra không phải ba, mà là thằng Ngoạn. Nó đang làm trò gì đó chỗ tủ buýp-phê, thấy Nga đột ngột xuất hiện, nó giật mình rụt phắt tay lại và giấu ra sau lưng. Nga nhướng mắt: - Ủa, giờ này sao em chưa đi ngủ? Bị bắt gặp bất thần, Ngoạn chưa kịp trấn tĩnh. Nó đứng đực ra, môi mấp máy nhưng không thốt được tiếng nào. Vẻ lúng túng của Ngoạn khiến Nga đâm nghi. Nga tính cao giọng xét hỏi nhưng sực nhớ có ba ở nhà nên nó đành nói khẽ, giọng nghiêm nghị: - Em làm gì ở đây? ... Mời các bạn đón đọc Thằng Quỷ Nhỏ của tác giả Nguyễn Nhật Ánh.
Quán Gò Đi Lên - Nguyễn Nhật Ánh
Chuyện diễn ra ở quán Đo Đo, quán ăn do tác giả sáng lập để nhớ quê nhà, nơi có chợ Đo Đo – chỗ Quán Gò đi lên ấy. Bởi thế, trong câu truyện tràn ngập những nỗi nhớ, nhớ món ăn, nhớ giọng nói, nhớ thói quen, nhớ kỉ niệm… Dẫu là câu chuyện ngập tràn nỗi nhớ, vẫn nghe trong đó những tiếng cười rất vui.   *** Nguyễn Nhật Ánh là tên và cũng là bút danh của một nhà văn Việt Nam chuyên viết cho tuổi mới lớn. Ông sinh ngày 7 tháng 5 năm 1955 tại huyện Thăng Bình, Quảng Nam. Thuở nhỏ ông theo học tại các trường Tiểu La, Trần Cao Vân và Phan Chu Trinh. Từ 1973 Nguyễn Nhật Ánh chuyển vào sống tại Sài Gòn, theo học ngành sư phạm. Ông đã từng đi Thanh niên xung phong, dạy học, làm công tác Đoàn Thanh niên Cộng Sản Hồ Chí Minh. Từ 1986 đến nay ông là phóng viên nhật báo Sài Gòn Giải Phóng, lần lượt viết về sân khấu, phụ trách mục tiểu phẩm, phụ trách trang thiếu nhi và hiện nay là bình luận viên thể thao trên báo Sài Gòn Giải Phóng Chủ nhật với bút danh Chu Đình Ngạn. Ngoài ra, Nguyễn Nhật Ánh còn có những bút danh khác như Anh Bồ Câu, Lê Duy Cật, Đông Phương Sóc, Sóc Phương Đông,... *** Con Cúc trở vô, cô Thanh giao cái chức "bếp trưởng" lại cho nó. Con Cúc cai quản cái bếp, cai quản luôn con Hường. Điều đó làm con Hường chẳng thích thú chút xíu nào. Chẳng phải con Hường tị nạnh gì, chỉ có điều nó và con Cúc là bạn bè ngang lứa ngoài quê, vô đây tự nhiên con Cúc làm sếp nó, con Cúc phụ trách phần nêm nếm, ra tô ra bát, còn nó suốt ngày loay hoay rửa hết đống chén này đến đống chén khác, chuyện đó làm nó thấy quê quê. Một hôm, con Hường khều con Cúc, nói: - Cúc ơi, mai tao về. - Í, mi đừng có điên! Răng lại về? - Con Cúc nhảy dựng. Con Hường chu mỏ: - Tao tưởng vô trong ni làm thứ chi, ai ngờ vô ngồi rửa chén! Nghe cái giọng bất mãn của con Hường, con Cúc hiểu ngay. Nó vỗ vai bạn: - Mi đừng có nghĩ bá láp! Hồi mới vô, tao cũng suốt ngày ngồi rửa chén y như mi vậy. Cặp mắt con Hường tròn xoe: - Mi nói thiệt đó hả? ... Mời các bạn đón đọc Quán Gò Đi Lên của tác giả Nguyễn Nhật Ánh.