Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Bóng tối và Ánh sao

Samuel Gerard là một bậc thầy võ thuật, một quý ông điển trai, giàu có, quyền lực, nhưng phía sau lớp vỏ bọc mạnh mẽ, đó vẫn là một cậu bé bơ vơ luôn canh cánh nỗi sợ bị chối bỏ. Anh chỉ sống với một nửa con người, cho đến khi gặp cô… Leda Etoile là cô gái mồ côi được một quý bà độc thân nhận về nuôi dưỡng. Sau khi bà qua đời, cuộc đời xô đẩy cô đến làm việc ở tiệm may váy nhiều thị phi và tai tiếng. Được giáo dục theo nếp sống thượng lưu nhưng mang dòng dõi thiếu minh bạch, cô như mắc kẹt giữa hai thế giới. Tinh tế, đoan trang, ngây thơ và trung thành, cô chỉ biết chấp nhận thực tại cho đến khi gặp anh... Trong cuộc vùng vẫy giữa quá khứ và hiện tại, giữa danh dự và dục vọng… Chính CÔ đã thắp sáng phần đen tối trong anh, giúp anh học cách yêu thương bằng cả thể xác lẫn tâm hồn. Còn ANH đem đến cho cô niềm tin, thổi bùng lên trong cô ngọn lửa của đam mê và hy vọng.  “Laura Kinsale đã phá vỡ tất cả những quy tắc của lối viết thuần túy trong văn chương lãng mạn để tỏa sáng.” - San Diego Union-Tribune *** Với văn phong trong trẻo, giản dị, thuần khiết mà tràn đầy tình cảm cùng sự miêu tả sâu sắc, tinh tế những cảm nhận, suy nghĩ trong tâm tư của nhân vật, Laura Kinsale đã viết nên một câu chuyện tình gây thổn thức rất nhiều đối với tôi. Bà đã, như tờ báo San Diego Union-Tribune đã bình luận về “Bóng tối và Ánh sao”, “phá vỡ tất cả những quy tắc của lối viết thuần túy trong văn chương lãng mạn để tỏa sáng.” Quả thật như vậy, bởi bằng cách xây dựng hình tượng nhân vật nam chính trong tác phẩm này, Laura Kinsale đã vượt ra khỏi cái lối mòn hình tượng nam chính thường thấy trong rất nhiều tác phẩm lãng mạn dã sử để mang đến cho câu chuyện của mình một Samuel Gerard rất mực con người, với nhiều uẩn ức, đớn đau và bóng tối bắt nguồn từ quá khứ kinh hoàng khi còn bé. Chàng trai ấy sở hữu vẻ ngoài của một thiên thần, với khuôn mặt và hình thể đẹp như tạc, mái tóc vàng và đôi mắt xám hút hồn, lớp vỏ bọc mạnh mẽ, cùng tiền tài và quyền lực. Nhưng trái ngược với hình ảnh thiên thần Gabriel tỏa sáng bên ngoài, Samuel Gerard lại mang trong mình phần tăm tối của bóng đêm. Anh đã từng là một cậu bé bơ vơ, không gia đình, không gốc gác, cả cái tên Samuel Gerard cũng là một cái tên tự cậu chọn lấy từ cuốn gia phả những dòng họ người Normandy. Anh đã từng là một cậu bé đã từng bị bán vào nhà chứa những đứa bé trai bị bắt làm điếm cho những ông già ấu dâm, đã từng bị cưỡng bức và lạm dụng tình dục. Cậu bé ấy may mắn được gia đình Hầu tước Ashland giải thoát khỏi chốn địa ngục đó và mang về nuôi. Lớn lên tại quần đảo Hawaii, bên cạnh tiểu thư Catherine “Kai” – con gái Hầu tước, và ông thầy Dojun người Nhật Bản, Samuel dành cả thời niên thiếu để trui rèn bản thân trở thành một bậc thầy võ thuật cừ khôi, một đấu sĩ sắt đá với trái tim là thanh đao, cố gắng chống lại cám dỗ của ham muốn và tình yêu với đàn bà – thứ được người thầy Dojun xem là điểm yếu của cậu. Vì cái quá khứ kinh hoàng luôn ám ảnh, cái quá khứ Samuel luôn xem là nhơ nhớp ấy, anh lớn lên với suy nghĩ mình luôn là đại diện cho bóng tối, là một con người không thể được yêu thương. Anh nhìn ra ở tiểu thư Catherine cái phần ánh sáng, thánh thiện mà anh không bao giờ có được, và quyết tâm sẽ kết hôn với Catherine để dùng cái ánh sáng ấy giúp mình chống đỡ lại phần tối tăm của con người mình. Anh tôn thờ ý tưởng có Catherine làm vợ, tôn thờ cái cảm giác như lẽ đương nhiên chuyện anh và cô sẽ trở thành vợ chồng – một mối quan hệ trong sáng, không nhục dục, không gây đau đớn và tổn thương. Nó trái ngược hoàn toàn với những gì anh cảm nhận được khi gặp Leda Étoile – cô gái thường dân mang nửa dòng máu Pháp, tao nhã, duyên dáng, được giáo dục trong môi trường quý tộc, nhưng cũng giống như Samuel, không thuộc về bất cứ nơi đâu. Càng gặp Leda, Samuel càng bị nàng ám ảnh: mùi hương của nàng, hình ảnh cái hông nàng, dáng hình tràn đầy nữ tính của nàng. Có lẽ tình yêu đã nảy nở giữa một quý ông sống với cái phần tăm tối của mình và ánh sao (“étoile” trong tiếng Pháp có nghĩa là “ngôi sao”) rồi đây sẽ soi rọi cuộc đời anh ngay từ cái khoảnh khắc anh nhặt giùm nàng cây kéo trong tiệm vải. Nhưng vì những gì Samuel cảm thấy với Leda, đối với anh lại là điểm yếu của anh, là cái cám dỗ anh luôn hãi sợ sẽ kéo mình xuống vực thẳm, nên Samuel cùng lúc vừa muốn Leda, lại vừa muốn đẩy nàng ra xa khỏi tâm trí. Và anh đã làm khá nhiều chuyện sai lầm, đã nói khá nhiều lời gây tổn thương, đã hành xử khá nhiều lần lạnh nhạt với Leda, khi anh vẫn chông chênh trên con đường nhận thức và học hỏi được rằng, anh xứng đáng được yêu thương, và anh có thể được yêu thương, bởi người một người phụ nữ bình thường nhưng quý giá hơn tất thảy: Leda. Leda không phải là mẫu mực của một nữ anh hùng trong dòng tiểu thuyết lãng mạn dã sử với khí chất mạnh mẽ, khác biệt, hơn người. Nhưng ở nàng có những phẩm chất cùng sự can đảm tiềm tàng, phù hợp với chuẩn mực phụ nữ thời Victoria: chung thủy, kiên trung, sẵn sàng đấu tranh, bằng tình yêu và lòng tận tâm của mình dành cho nam chính, để cứu lấy mối quan hệ giữa anh và nàng, và để cả hai có được hạnh phúc thật sự. Tôi đọc và thấy thương cho Samuel, những đoạn khi anh chàng, vẫn là một cậu bé của quá khứ lẩn khuất bên trong dáng hình người đàn ông trưởng thành, không biết phải đối mặt hay xử trí như thế nào trước sự cuốn hút về thể xác và tâm hồn mà anh cảm nhận được với Leda. Và tôi cũng thương cho Leda, cho người con gái luôn phải đối mặt với những cơn bốc đồng, những lời nói nhát gừng, những cử chỉ gây đau đớn mà Samuel thể hiện; cho nỗi buồn, niềm tủi thân mà nàng phải nếm trải vì sự giằng xé của Samuel. Leda nói đúng, nếu nàng không yêu Samuel nhiều đến thế, không tận tụy vì chàng đến thế, thì có lẽ, nàng đã bỏ chàng ra đi từ lâu lắm rồi… Và chính nhờ những mâu thuẫn, giằng xé, hiểu lầm đó, mà cái kết có hậu lại càng thêm ngọt ngào và ngập tràn hạnh phúc. – Nguyễn Việt Ái Nhi Review *** 1887 Ở một nơi tối tăm và tịch mịch, anh ngừng việc suy nghĩ. Anh để những tiếng người ồn ào lắng xuống, để âm thanh của cơn gió nhẹ thổi qua những tấm rèm lấp đầy tâm trí. Anh nhìn bóng phản chiếu lờ mờ của chính mình trong gương cho tới khi khuôn mặt đó biến thành của một người xa lạ, một tập hợp các đường nét không biểu cảm trong cặp mắt màu bạc và cái miệng cứng nhắc… và sau đó không còn là người lạ nữa, chỉ là một chiếc mặt nạ khắc khổ… rồi thậm chí xa hơn thế: không còn nhận dạng mà thay bằng những hình thù cơ bản. Chỉ có quang phổ của bóng tối và ánh sáng, một thực thể hữu hình và vô hình. Với thực tế trước mắt, anh dự định thay đổi thành một người khác. Để giấu đi màu tóc vàng, anh mượn một món đạo cụ từ nhà hát kịch kabuki[1] - chiếc mũ trùm đầu màu đen mà các kuroko[2] đôi khi họ kín đáo bước lên sân khấu để thay đổi bối cảnh. Để che diện mạo thật, anh không vẽ mặt hay bôi nhọ nồi vì như thế chưa đủ - khó tẩy trang nhanh và quá dễ bị nhận ra. Thay vào đó, anh bịt một chiếc khăn che mặt màu than chì chỉ để hở đôi mắt làm từ loại vải mềm như chiếc áo choàng màu xám đen anh buộc quanh thắt lưng. Bên trong bộ trang phục tối màu anh mang theo thiết bị dùng để trèo tường, để phóng điện, để trốn chạy hay sát thương, để giết người. Anh chọn đi tabt[3] mềm thay cho giày vì nó giúp bước đi nhẹ nhàng và thật chân hơn. Đất… nước… gió… lửa… và khoảng không. Anh ngồi khoanh chân trên sàn. Bằng đôi tai, anh lắng nghe tiếng gió dịu dàng nhưng không ai đủ sức chặn lại. Bằng những đốt xương, anh cảm nhận toàn bộ sức mạnh to lớn của mặt đất phía dưới. Bằng tâm trí, anh chấp nhận sự trống rỗng. Bất động, anh hòa lẫn vào bóng đêm: vô hình trong gương, tan vào cơn gió. Với những ngón tay đan vào nhau, anh triệu hồi quyền lực của ý chí để thay đổi thế giới như nó vốn hiện hữu. Anh đứng dậy và biến mất. Mời các bạn đón đọc Bóng tối và Ánh sao của tác giả Laura Kinsale.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Thầy Chung Trúng Số
Tóm tắt & Review (Đánh Giá) tiểu thuyết Thầy Chung Trúng Số của tác giả Hồ Biểu Chánh. Năm 1944, đầu tháng 5, trời tối một lát thì có tiếng còi báo động thổi rang tất cả vùng Sài-Gòn, Chợ-Lớn, Gia-Định. Tuân theo luật phòng-thủ thụ-động, ai cũng lo đóng cửa tắt đèn đặng xuống hầm. Tiếng còi dứt rồi thì quang cảnh im-lìm, châu thành vắng hoe chẳng khác nào bãi sa-mạc. Cách chẳng bao lâu, mấy đoàn phi-cơ tiếp nhau bay ù-ù trên không-phận Sài-Gòn thả bom xuống nổ tưng-bừng từ Xóm-Chiếu qua phía chợ Bến-Thành làm cho nhơn-dân đều kinh hồn khiếp vía. Đến sáng người ta đồn vang có nhiều nhà tang hoang, có nhiều người vong mạng. Tôi tò-mò đi xem. Ôi thôi ! Tôi rất đau đớn mà nhận thấy tai-nạn chiến-tranh tàn khốc của thiên-hạ gây ra cho lương-dân Việt-Nam phải gánh chịu. Vừa đau lòng, vừa tức trí, tôi thả bước đi cho giải khuây, không cần tính đi đâu. Tình-cờ vô tới khúc đường Frère Louis, tôi chợt thấy một dãy phố cũ-kỹ, thấp thỏi, tôi dừng bước và ngó vào. Đây là chỗ tôi ở một thời gian, cách 34 năm về trước. Những kỷ-niệm xưa phát hiện rõ-ràng trước mắt tôi. Dãy phố 10 căn tuy cũ song vẫn còn nguyên như xưa. Căn bìa đây là căn nhà của bà Phán Lý ở. Bà là một sương phụ tuổi lối 50, bà ở với cô Thiên-Hương, con gái của bà chừng 20 tuổi, tuấn-tú dung-nhan, đoan-trang hạnh-kiểm. Bà Phán Lý luôn luôn mặc y-phục trắng bằng lụa trắng. Bà ít khi ra đường, lại cũng ít tới nhà ai mà chơi. Còn cô Thiên-Hương thì ngày như đêm cô cứ cặm-cụi thêu khăn lụa và thêu mặt giầy để gởi cho mấy tiệm bán. Căn kế đó là căn của thầy Chung ở. Thầy trẻ tuổi, đẹp trai, học đã có bằng Thành-chung mà chưa có vợ, lại mồ-côi cha mẹ, cũng không có anh em. Thầy ở đây một mình, thầy làm việc trong một nhà in lớn ở đường Kinh-Lấp, lương mỗi tháng 25 đồng. Thầy nói thầy ăn cơm tháng tại quán dì hai ở đường hẻm d’Ormay, không ai biết dì tên chi, thấy dì mập-mạp nên gọi tên dì là «Dì Hai phì lủ». Ăn cơm hai bữa, trưa được nghỉ trên lầu, phải trả cho dì mỗi tháng 10 đồng. Căn kế nữa thì vợ chồng chú thợ Tư ở. Chú làm thợ mộc trong một nhà thuốc tây ngoài đường Catinat, chú chuyên đóng thùng để gởi thuốc xuống lục tỉnh. Tôi ở căn khít với chú thợ Tư đây, ở gần hai năm êm ấm vô cùng. Còn 6 căn kế thì thầy giáo, thầy ký, thầy thông thuộc các sở ở, ai cũng có vợ như tôi, có thầy lại được mụn con nhỏ ban đêm khóc chói-lói. Hồi đó số lương của mấy thầy chỉ có vài ba chục, mỗi tháng phải trả tiền phố hết 5 đồng. May nhờ giá sanh-hoạt rẻ, lại cũng nhờ biết tiện-tặn. không coi hát bóng, không ngồi nhà hàng, nên ai cũng sống được. Lần bước về nhà, những cảnh trông thấy hôm nay, với những tưởng nhớ ngày xưa cứ trạo-trực trong trí tôi hoài, làm cho tôi ngẩn-ngơ lơ-lửng. Tối lại, ngoài sân nước mưa hè rỉ-rả không dứt. Trên án thắp đèn dầu phộng bủa yến sáng tuy không tỏ, song cũng đủ đọc sách viết văn được. Ngồi bên bóng đèn leo-lét, tôi hồi tưởng đến mấy người quen năm xưa cùng tôi chung sống trong dãy phố đường Frère Louis. Tôi nhớ chuyện thầy Chung với mẹ con bà Phán Lý, tôi bắt tức cười. Tôi cười là vì ba người nầy mường-tượng như nhơn-vật trong chuyện «La Cure de Misère“ của nhà văn-hào Pháp là François Coppé. Tôi liền lấy giấy ra viết chuyện thầy Chung, viết đặng quên thảm-họa của lương-dân vô tội mà bị sát hại rất đau, rất ức. *** Tóm tắt Tiểu thuyết Thầy Chung Trúng Số kể về câu chuyện của thầy Chung, một thanh niên trẻ tuổi, đẹp trai, học giỏi nhưng mồ côi cha mẹ, sống một mình. Thầy Chung làm việc trong một nhà in với mức lương 25 đồng/tháng. Hàng ngày, thầy ăn cơm trưa tại quán của dì Hai phì lủ. Một ngày nọ, thầy Chung đi mua sắm ở chợ thì gặp bà Phán Lý, một góa phụ có con gái xinh đẹp là Thiên Hương. Bà Phán Lý bị thu hút bởi vẻ ngoài lịch lãm của thầy Chung nên đã ngỏ ý muốn gả Thiên Hương cho thầy. Ban đầu, thầy Chung không đồng ý vì nghĩ rằng mình không xứng đáng với Thiên Hương. Tuy nhiên, sau khi nghe bà Phán Lý kể về hoàn cảnh của Thiên Hương, thầy Chung đã đồng ý. Hai người kết hôn và sống hạnh phúc bên nhau. Thầy Chung tiếp tục làm việc trong nhà in, còn Thiên Hương ở nhà chăm lo cho gia đình. Một ngày nọ, thầy Chung trúng số độc đắc với số tiền 100.000 đồng. Thầy Chung quyết định dùng số tiền này để giúp đỡ những người nghèo khó. Thầy Chung mở một trường học miễn phí cho những trẻ em nghèo. Thầy cũng quyên góp tiền để xây dựng cầu cống, đường xá, giúp đỡ những người gặp khó khăn. Sự tốt bụng của thầy Chung đã khiến cho mọi người yêu mến. Thầy được mệnh danh là “Thầy Chung trúng số”. Đánh giá Tiểu thuyết Thầy Chung Trúng Số là một tác phẩm có giá trị nghệ thuật cao. Tác phẩm đã thể hiện được những nét đặc trưng của văn học Nam bộ giai đoạn giao thời 1900-1930. Thứ nhất, tác phẩm đã thể hiện được sự giao thoa của văn học trung đại và văn học hiện đại. Trong tác phẩm, ta vẫn thấy được những yếu tố của văn học trung đại như lối kể chuyện truyền thống, những lời bình luận của tác giả,... Tuy nhiên, bên cạnh đó, tác phẩm cũng có những yếu tố của văn học hiện đại như việc khắc họa tâm lý nhân vật, xây dựng tình huống truyện,... Thứ hai, tác phẩm đã phản ánh được những vấn đề của xã hội Nam bộ giai đoạn giao thời. Đó là những vấn đề như vấn đề nghèo đói, vấn đề hôn nhân gia đình, vấn đề người phụ nữ,... Thứ ba, tác phẩm đã thể hiện được tài năng của Hồ Biểu Chánh trong việc xây dựng nhân vật. Các nhân vật trong tác phẩm đều được xây dựng một cách chân thực, sinh động, có cá tính riêng. Nhìn chung, tiểu thuyết Thầy Chung Trúng Số là một tác phẩm đáng đọc. Tác phẩm đã góp phần làm phong phú thêm cho nền văn học Việt Nam. Đánh giá chi tiết Cốt truyện: Cốt truyện của tiểu thuyết Thầy Chung Trúng Số được xây dựng theo lối truyền thống, theo mô-típ "tình yêu - sóng gió - hạnh phúc". Tuy nhiên, tác giả đã khéo léo lồng ghép những yếu tố hiện đại vào tác phẩm, khiến cho cốt truyện trở nên hấp dẫn, lôi cuốn hơn. Nhân vật: Các nhân vật trong tiểu thuyết Thầy Chung Trúng Số đều được xây dựng một cách chân thực, sinh động, có cá tính riêng. Nhân vật thầy Chung là một người tốt bụng, hào phóng, luôn muốn giúp đỡ những người nghèo khó. Nhân vật Thiên Hương là một người phụ nữ xinh đẹp, dịu dàng, biết lo toan cho gia đình. Tình huống truyện: Tình huống truyện trong tiểu thuyết Thầy Chung Trúng Số được xây dựng một cách hợp lý, logic. Tình huống truyện đã góp phần đẩy nhanh mạch truyện, tạo nên những xung đột, mâu thuẫn giúp cho nhân vật phát triển tính cách, thể hiện được quan điểm của tác giả. Ngôn ngữ: Ngôn ngữ trong tiểu thuyết Thầy Chung Trúng Số được sử dụng một cách linh hoạt, phù hợp với từng hoàn cảnh, nhân vật. Ngôn ngữ của tác phẩm cũng được sử dụng một cách uyển chuyển, giàu hình ảnh, giúp cho tác phẩm trở nên hấp dẫn, lôi cuốn hơn. Kết luận Tiểu thuyết Thầy Chung Trúng Số là một tác phẩm có giá trị nghệ thuật cao. Tác phẩm đã thể hiện được những nét đặc trưng của văn học Nam bộ giai đoạn giao thời 1900-1930. Tác phẩm đã góp phần làm phong phú thêm cho nền văn học Việt Nam.   Mời các bạn mượn đọc sách Thầy Chung Trúng Số của tác giả Hồ Biểu Chánh.
Sống Thác Với Tình
Tóm tắt & Review (Đánh Giá) tiểu thuyết Sống Thác Với Tình của tác giả Hồ Biểu Chánh. Sống Thác Với Tình là tiểu thuyết thứ 63 của nhà văn Hồ Biểu Chánh, sáng tác vào năm 1957. Mời thưởng thức tác phẩm. Tóm tắt Tiểu thuyết Sống Thác Với Tình kể về câu chuyện tình yêu đầy éo le giữa hai nhân vật chính là Thanh và Mẫn. Thanh là một cô gái xinh đẹp, tài năng và có học thức. Mẫn là một chàng trai nghèo nhưng có chí cầu tiến. Hai người yêu nhau say đắm nhưng lại gặp phải nhiều trắc trở. Thanh là con gái của một gia đình giàu có. Mẹ cô là một người phụ nữ độc đoán, luôn muốn gả Thanh cho một người giàu có, có địa vị. Mẫn là con trai của một gia đình nông dân nghèo. Anh phải đi làm thuê để kiếm sống. Hai người yêu nhau nhưng không dám công khai vì sợ bị gia đình Thanh ngăn cản. Họ chỉ có thể gặp nhau trong bí mật. Một ngày, Mẫn quyết định bỏ đi để tự lập. Anh muốn có một cuộc sống ổn định để có thể cưới Thanh. Thanh đau khổ khi biết Mẫn bỏ đi. Cô tìm mọi cách để tìm gặp anh nhưng không được. Mẹ Thanh vì muốn ép Thanh lấy chồng giàu nên đã bắt cô uống thuốc độc. Thanh may mắn được cứu sống nhưng cô bị câm. Mẫn sau khi tự lập đã trở thành một người giàu có. Anh tìm gặp Thanh nhưng Thanh không nhận ra anh. Mẫn đau khổ nhưng vẫn không bỏ cuộc. Anh tiếp tục tìm cách giúp Thanh lấy lại giọng nói. Cuối cùng, nhờ sự giúp đỡ của một thầy lang, Thanh đã lấy lại được giọng nói. Cô nhận ra Mẫn và hai người đã đoàn tụ. Đánh giá Tiểu thuyết Sống Thác Với Tình là một tác phẩm có giá trị nghệ thuật cao. Tác phẩm đã thể hiện được những nét đặc trưng của văn học Nam bộ giai đoạn giao thời 1900-1930. Thứ nhất, tác phẩm đã thể hiện được sự giao thoa của văn học trung đại và văn học hiện đại. Trong tác phẩm, ta vẫn thấy được những yếu tố của văn học trung đại như lối kể chuyện truyền thống, những lời bình luận của tác giả,... Tuy nhiên, bên cạnh đó, tác phẩm cũng có những yếu tố của văn học hiện đại như việc khắc họa tâm lý nhân vật, xây dựng tình huống truyện,... Thứ hai, tác phẩm đã phản ánh được những vấn đề của xã hội Nam bộ giai đoạn giao thời. Đó là những vấn đề như vấn đề hôn nhân gia đình, vấn đề người phụ nữ,... Thứ ba, tác phẩm đã thể hiện được tài năng của Hồ Biểu Chánh trong việc xây dựng nhân vật. Các nhân vật trong tác phẩm đều được xây dựng một cách chân thực, sinh động, có cá tính riêng. Nhìn chung, tiểu thuyết Sống Thác Với Tình là một tác phẩm đáng đọc. Tác phẩm đã góp phần làm phong phú thêm cho nền văn học Việt Nam. Đánh giá chi tiết Cốt truyện: Cốt truyện của tiểu thuyết Sống Thác Với Tình được xây dựng theo lối truyền thống, theo mô-típ "tình yêu - sóng gió - hạnh phúc". Tuy nhiên, tác giả đã khéo léo lồng ghép những yếu tố hiện đại vào tác phẩm, khiến cho cốt truyện trở nên hấp dẫn, lôi cuốn hơn. Nhân vật: Các nhân vật trong tiểu thuyết Sống Thác Với Tình đều được xây dựng một cách chân thực, sinh động, có cá tính riêng. Nhân vật Thanh là một cô gái xinh đẹp, tài năng và có học thức. Cô là hiện thân cho những người phụ nữ Việt Nam thời xưa, luôn khao khát được yêu thương và hạnh phúc. Nhân vật Mẫn là một chàng trai nghèo nhưng có chí cầu tiến. Anh là hiện thân cho những người đàn ông Việt Nam thời xưa, luôn kiên trì, nỗ lực để đạt được ước mơ của mình. Tình huống truyện: Tình huống truyện trong tiểu thuyết Sống Thác Với Tình được xây dựng một cách hợp lý, logic. Tình huống truyện đã góp phần đẩy nhanh mạch truyện, tạo nên những xung đột, mâu thuẫn giúp cho nhân vật phát triển tính cách, thể hiện được quan điểm của tác giả. Ngôn ngữ: Ngôn ngữ trong tiểu thuyết Sống Thác Với Tình được sử dụng một cách linh hoạt, phù hợp với từng hoàn cảnh, nhân vật. Ngôn ngữ của tác phẩm cũng được sử dụng một cách uyển chuyển, giàu hình ảnh, giúp cho tác phẩm trở nên hấp dẫn, lôi cuốn hơn. Kết luận Tiểu thuyết Sống Thác Với Tình là một tác phẩm có giá trị nghệ thuật cao. Tác phẩm đã thể hiện được những nét đặc trưng của văn hóa Nam Bộ.   Mời các bạn mượn đọc sách Sống Thác Với Tình của tác giả Hồ Biểu Chánh.
Một Đời Tài Sắc
Tóm tắt & Review (Đánh Giá) tiểu thuyết Một Đời Tài Sắc của tác giả Hồ Biểu Chánh. Năm 1929 tháng Juillet. Mưa dầm dề luôn mấy ngày, rồi một buổi chiều sớm mơi, bầu trời thanh bạch, mặt trời ló ra chói nắng sáng lòa. Cây cối bị ướt loi ngoi mấy bữa, nay gặp nắng lại, giũ lá phơi ngành, trổ bông đâm tược, từ ngoài ruộng vô tới trong vườn, khoe một màu xanh lặc lìa, coi thiệt là khỏe mắt. Ông Hội đồng Võ Kế Nghiệp, nhà ở làng Phú Lợi gần chợ Cái Tắc, thuộc tỉnh Cần Thơ, có tánh hay trồng bông trồng kiểng; mấy bữa rày bị mưa, ông không chăm sóc kiểng vật của ông được, nay thấy trời nắng, ông mới bước ra sân. Con gái lớn của ông là Võ Thị Xuân Hương, 18 tuổi, học trên Sài Gòn, thi đậu, ông mới rước về, cô cũng đi theo ông ra ngoài sân mà thăm hoa xem kiểng. Ông hội đồng tay cầm cái kéo nhỏ, đi vòng theo mấy chậu bùm sụm, quít tàu, càng thăng mà hớt đọt bắt sâu. Cô Xuân Hương thì đi dài theo mấy liếp bông hường, lo chỏi mấy nhánh bị mưa oằn, gặp cái bông nào tốt thì cô cầm mà coi, mặt gần bông, bông giọi mặt. Mặt càng đẹp, bông càng xinh. Thình lình nghe có tiếng xe hơi ồ ồ ở xa chạy lại, tới ngang cửa, xe chạy chậm rồi quanh vô sân. Ông hội đồng ngó ra rồi nói với con rằng: „Xe nầy của ông Cai Tổng bên Thạnh Hòa mà". Xe ngừng giữa sân, hai vợ chồng ông Cai Tổng Hà Thiện Bình leo xuống. Ông hội đồng bước tới chào mừng. Cô Xuân Hương cũng lại gần chấp tay cúi đầu thi lễ. Bà Cai Tổng Bình ngó cô Xuân Hương và hỏi rằng: - Bày trẻ ở nhà coi nhựt trình nói con thi đậu bằng cấp gì đó rồi phải hôn? - Dạ thưa phải. Con thi đậu „Brevet Élémentaire". - Giỏi à! Bác nghe nói nên lật đật qua đây mà mừng cho con. Thằng Ý ở bên Tây nó cũng đậu Tú Tài kỳ nhì rồi, nó mới đánh dây thép về hôm qua. Có má con ở nhà hôn? - Thưa có. Ông Cai Tổng Bình tiếp hỏi Xuân Hương rằng: - Con đậu „Brevet Elémentaire" rồi con tính đi học nữa hay là thôi? - Thưa, con tính xin với má cho con học thêm ít năm nữa đặng thi „Brevet Supérieur". - Được a. Con học được thì học luôn cho đến cùng. Thằng Ý đậu Tú Tài rồi nó tính học luật. Học luật phải học 3 năm nữa mới được Cử Nhơn. Ông Hội đồng Nghiệp mời khách vô nhà. Bà hội đồng nghe nói có hai vợ chồng ông Cai Tổng Bình qua thì bước ra cửa mà tiếp chào. Ông Cai Tổng Hà Thiện Bình, nhà ở làng Thạnh Hòa, thuộc tỉnh Rạch Giá dựa bên cái lộ mới Long Xuyên - Rạch Giá kêu là lộ Cái Sắn. Ông Cai Tổng với ông Hội đồng Nghiệp vốn là bạn đồng hương, hai người hồi nhỏ ở Thục Nhiêu, thuộc tỉnh Mỹ Tho. Ông Hội đồng là con nhà giàu, rủi chừng ông cưới vợ rồi, cha mẹ lại suy sụp, gia tài bị chủ nợ thi hành phát mãi hết, ông phải qua Cái Tắc theo ở quê vợ mà nương dựa làm ăn. Ông lặn lội nhen nhúm lần lần, lại nhờ tám chín năm nay lúa gạo cao giá luôn luôn, ông dùng ít mà gây ra nhiều, nên hiện bây giờ ông có một cái nhà tốt mới cất tốn trên 12 ngàn đồng bạc lại có gần 100 mẫu ruộng trong làng Phú Lợi, 200 mẫu trong Kinh Xà No, và mới đấu giá mua thêm 200 mẫu bên làng Thạnh Hòa, thuộc hạt Rạch Giá nữa. Ông mới 42 tuổi, vợ chồng sanh được ba đứa con, đứa lớn là cô Xuân Hương đã thấy đó rồi, đứa giữa, con trai mới 15 tuổi học Tú Tài năm thứ tư, tại trường Chasseloup Laubat, còn đứa út cũng con trai, còn học tại Cần Thơ. Còn ông Cai Tổng Bình hồi trước thiệt tên Huỳnh, làng cử ông làm thôn Trưởng, ông xài thâm công nho hơn 1.000 đồng bạc, sợ tội nên bỏ xứ dắt vợ con mà trốn, để cho hương chức Hội tề giăng tay đậu tiền bồi thường. Vô Rạch Giá ông đổi tên lại là Hà Thiện Bình, nương náu ở làng Thạnh Hòa mà làm ruộng, lần lần ông mua điền khẩn đất, trở nên một người giàu, ra làm làng rồi lên chức Cai tổng. Ông năm nay đã hơn 55 tuổi rồi, có bốn người con, người con lớn đương làm Nghị Viên Hội Đồng địa hạt trong Rạch Giá, người kế đó là cậu Hà Thiện Ý 22 tuổi, học bên Tây, một người 18 tuổi, một người 16 tuổi, thôi học ở nhà mà chưa hứa gả nơi nào. Tuy ông Hội đồng với ông Cai tổng ở xa nhau, lại niên kỷ bất đồng, song thuở nay hai nhà thân thiện với nhau lắm, hay giúp đỡ nhau, hay tới lui thăm nhau, lại thường tính chừng Thiện Ý và Xuân Hương lớn khôn, thì hai nhà sẽ làm sui với nhau. Chủ khách gặp nhau mừng rỡ cùng dắt nhau vô nhà, rồi ông Hội đồng với ông Cai tổng thì ngồi bộ ghế giữa, còn hai bà thì ngồi tại bộ ván cẩm lai lót gần đó. Cô Xuân Hương lo trầu nước đãi khách, cô ra vô lăng xăng, mặt tươi cười, bộ nhâm nhẹ, tư cách phải là gái tân học, mà nết na cũng phải là con nhà giàu. Bà Cai tổng ngó theo cô hoài rồi bà nói với bà Hội đồng rằng: - Con nhỏ năm nay nó lớn đại. Nè, tôi nói với thím nó a, phải chờ thằng Ý tôi, chớ đừng có gả chỗ khác tôi không nghe cho mà coi. - Ai mà gả! Anh chị đã nói từ hồi nào tới giờ, gả chỗ khác sao được. Có sợ là sợ cậu Ý ở bển rồi cậu cưới đầm chớ. - Đâu có vậy! Vợ chồng tôi có nói trước cho nó biết rồi mà. - Ờ! Tôi quên nói cho chị hay nữa chớ. Hôm tháng giêng tôi có bịnh, tôi nghe nói ông Bình ngoài Cần Thơ hay lắm, tôi ra tôi cầu đặng xin thuốc. - Xác ông Quan Bình phải hôn? Tôi cũng nghe họ đồn hay lắm. - Thưa phải. Bận đó sẵn có con Xuân Hương bãi trường nên nó ở nhà, tôi biểu nó đi với tôi. Ra đó coi cho tôi rồi, luôn dịp coi cho nó nữa. Nè, ông Bình coi cho nó, ổng nói kỳ lắm chị. - Nói làm sao? - Ổng nói nó thông minh, học giỏi lắm, năm nay nó thi đậu, mà sau nó còn đậu một bằng cấp lớn hơn nữa. Tôi hỏi tới căn duyên của nó, thì ổng nói nó vốn tiên phong đạo cốt nên chừng nó lớn khôn không ham phú quí vinh huê, lại ngao ngán nhơn tình thế tục. Cuối 21 bước qua 22 tuổi thì nó có chồng, nhưng mà nó có chồng có con rồi thì nó lại tu. Nói năm thi đậu trúng rồi, còn sau nữa thì không biết ra sao. Mời các bạn mượn đọc sách Một Đời Tài Sắc của tác giả Hồ Biểu Chánh.
Một Chữ Tình
Tóm tắt & Review (Đánh Giá) tiểu thuyết Một Chữ Tình của tác giả Hồ Biểu Chánh. Chủ nhựt, học trò trường Chasseloup Laubat ra đi chơi hết, duy có trò bị phạt với chừng mười lăm trò thấy ngày thi đã cận rồi, muốn học ôn, nên còn ở lại trong trường mà thôi.  Lúc trưa trời mưa giông trót một giờ đồng hồ, me đổ lá đầy sân, cát chỗ khô chỗ ướt. học trò ngủ trưa thức dậy vào lớp học bài cho đến 4 giờ chiều mới ra ngoài hàng tư ngồi chơi. Đầu nầy năm ba học trò dụm nhau ngồi trò chuyện, đầu nọ vài ba trò dắt nhau đi lại đi qua.  Phạm Quảng Giao tay cầm cuốn sách “Pháp văn bị thể” chơn lần đi lại một góc vắng vẻ, rồi ngồi giở sách ra đọc. Trời tuy đã dứt mưa, song gió thổi ngọn me oằn oại, hễ luồng gió đến thì nước đọng trên cây đổ xuống, rồi lá me cũng lát đát rớt theo. Quảng Giao tính kiếm chỗ vắng học cho dễ, nào dè dở sách ra đọc chưa được mấy hàng mà ngoài sân nước tuôn lá đổ đã mấy lần, làm cho trò ta lãng trí đọc mà không nhớ chi hết.  Quảng Giao để cuốn sách trên gối, tay trái thì đè, còn tay mặt thì chống cằm, ngồi ngó ra ngoài sân, mắt nhìn cảnh vật tiu hiu, trí tưởng tiền trình càng ái ngại. Ngồi hồi lâu, bỗng nghe sau lưng có tiếng giầy động đất, Quảng Giao day lại thấy trò Lê Bác Ái chơn đi nhè nhẹ, miệng cười chúm chím, đương xâm xâm bước tới, ý muốn lén chọc cho giật mình chơi. Bác Ái thấy Quảng Giao day lại, không còn thế chọc ghẹo được, mới cười lớn rồi giựt cuốn sách mà hỏi rằng:  - Học giống gì đây anh?  - Đọc bậy Pháp quốc văn học chơi vậy mà.  - Anh giỏi quá! Trời nầy mà đọc sách được chớ. Tôi có tánh kỳ, hễ trời mưa tôi buồn, chẳng hề khi nào tôi học được.  - Tôi cũng vậy, nãy giờ đem sách lại ngồi đây chớ có đọc được câu nào đâu.  Bác Ái ngồi kề một bên Quảng Giao, tay lật sách lia lịa, dòm ngó láo liên một hồi để dẹp cuốn sách lại một bên nói với Quảng Giao rằng:  - Bữa nay còn có 4 tuần lễ nữa mới tới ngày thi anh há?  - Ừ.  - Anh nhớ đến ngày thi anh sợ hay không?  - Sợ giống gì?  - Thiệt, học như hai anh em mình đây đi thi thì cũng ít sợ. Ngặt chừng thi có học trò mấy trường khác vào thi chung với mình, bởi vậy tôi còn lo một chút.  - Lo sao? Họ thi phận họ, mình thi phận mình, hễ làm bài đủ số điểm thì đậu, chớ có họ rồi họ bớt điểm mình được hay sao mà lo.  - Không phải! Tôi lo là lo họ giựt thứ nhứt, thứ nhì rồi thì mất danh tiếng tụi Chasseloup mình chớ.  - Thi thì phải ráng chớ sao, mà tôi biết tôi giựt thứ nhứt không được đâu.  - Sao vậy?  - Tại cái mạng tôi không có, học thì học chớ không khi nào dành thứ nhứt được đâu.  - Mạng là cái gì? Anh khéo nói thì thôi!  - Vậy chớ anh không thấy sao? Mấy năm học trong lớp có thua ai đâu, mà mấy lần thi có lần nào tôi đứng thứ nhứt đâu nào?  - Tại anh tin tưởng mạng vận quá nên xuôi xả như vậy đa. Phải chi anh sốt sắng, trong trí cứ tính tranh thứ nhứt hoài, thì ắt phải được chớ gì,  - Hứ! Anh nói hơi Tây hoài! Con người ta ai lại không có mạng, vậy chớ kỳ thi năm ngoái anh Hà Tấn Phát học giỏi, ai cũng chắc ảnh đậu đầu, mà ảnh lại rớt đi, còn anh Nguyễn Văn Cảnh ảnh học dở mà lại cà lâm, ai cũng tưởng ảnh rớt, mà sao ảnh lại đậu?  - Ấy là tại may rủi chớ mạng số gì. Anh Phát ảnh rớt là vì lúc đi thi toán rủi ảnh tối tăm mày mặt, làm toán trật hết, nên ảnh mới rớt chớ.  - À! Ảnh giỏi toán sao chừng thi môn ấy ảnh tối tăm mày mặt, làm không được, vậy không phải tại phần số ảnh hay sao?  - Mình học Tây mà nói số mạng nghe kỳ quá!  - Ủa! học Tây là học, chớ cái óc của mình là óc Việt Nam làm sao mà đổi được.  - Anh nói nghe tức quá, nín không được. Học là cái gì? Con người đi học là cố ý muốn mở trí khôn cho rộng đặng biết chỗ nào là chỗ tốt, chỗ nào là xấu, sự nào là sự phải, sự nào là sự quấy, điều nào là điều hay, điều nào là điều dở, rồi chừng thành nhơn ra xung đột với đời, mình khỏi thua sút thiên hạ. Thưở trước ông bà mình học chữ Tàu, sách Tàu thì chuyên dạy lễ nghĩa, đạo đức mà thôi, bởi vậy ông bà mình học rồi trí thâm nhiễm lễ nghĩa, đạo đức đến thay đổi thấy việc chi có lợi thì sợ phi nghĩa nên không dám làm, bị ai hiếp đáp thì sợ thất lễ nên không dám cự, vì vậy, nên mối lợi mới để cho họ dành hết, mới bị người ta hiếp đáp bấy lâu nay đó. Anh nghĩ thử coi, cái óc của người mình như vậy không nên rửa cho sạch rồi sơn màu khác cho nó mới hay sao? Bọn chúng ta đây mau thoát khỏi vòng cựu học rồi chúng ta học theo Pháp quốc giáo dục, Pháp học mở trí khôn mà lại giúp con người có nghị lực, có cam đảm biết tốt biết xấu, biết quấy phải, nghĩa là hễ học thành rồi rồi thì con người có thể cạnh tranh lợi quyền, có thể đối đãi với đồng loại. Hễ học thì phải hành, mình học theo chữ Pháp thì phải ráng mà làm như người Pháp, nghĩa là cư xử, đi đứng, làm ăn, tính toán, suy nghĩ, mỗi mỗi đều phải làm cho giống người Pháp mới được, chớ anh học chữ Pháp mà anh cứ làm theo xưa, cứ nói hơi xưa hoài, thì khó coi quá mà.  - Anh nói nghe hay thiệt, mà tôi coi bạn học của mình đây chẳng phải có một mình anh nói như vậy đâu, trong 10 người hết 9 người đã muốn làm theo người Pháp, chớ không muốn làm theo xưa nữa. Phận tôi thì không chịu vậy. Tôi cũng biết cựu học tệ thì tệ, xưa nay người Nam ta cũng vì môn học ấy mà chậm trễ bước văn minh. Nhưng cựu học tệ thì tệ, chớ cũng có chỗ hay, nhứt là phong hóa có thua môn học nào đâu. Anh nói bây giờ mình học theo Tây, mình phải làm theo Tây, vậy chớ làm theo người Nam là bậy lắm sao? Mà anh tính làm theo Tây, vậy chớ anh đã thông thạo cách người Tây cư xử trong gia đình, họ giao thiệp cùng xã hội, họ suy tính lúc hành sự làm sao không, mà anh dám đại ngôn rằng anh làm như họ! Ê! đừng có vậy nà! Anh có giỏi thì anh học cho bằng trí, tài, nghề nghiệp của họ đi, còn cách cư xử thì mình phải theo người Nam mới phải chớ.  - Anh làm theo người Nam anh làm, còn tôi làm theo Tây chớ tôi không chịu cách cư xử của mình đâu.  - Ờ thôi, anh làm được anh làm, tôi sợ anh muốn làm con công, rồi anh thành con ngổng chớ.  Quảng Giao nói mấy lời rồi thò tay lấy cuốn sách, còn Bác Ái nghe nói như vậy liền day lại xô Quảng Giao đụng trong vách tường, rồi cười nói rằng: “Anh kiêu ngạo quá!”  Bác Ái bỏ đi được vài bước rồi trở lại hỏi rằng:  - Nầy anh, anh tính thi đậu rồi anh xin ra Hà Nội học thêm nữa, hay là ra kiếm việc làm?    Mời các bạn mượn đọc sách Một Chữ Tình của tác giả Hồ Biểu Chánh.