Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Đồng Bạc Trắng Hoa Xòe (Ma Văn Kháng)

Ma Văn Kháng lao động văn chương như một người H'Mông trồng bắp trên núi, lặng lẽ, cần cù, kiên nghị. Không ồn ào to tiếng với ai. Nét mặt anh cũng có cái vẻ chất phác núi rừng, ít nói, ít tranh luận, nghe ai nói nhiều chỉ gật đầu, hơi như ngơ ngác nữa.

Độc giả văn chương quen biết anh bằng tập Xa phủ (1969), tập truyện đầu tay, xinh xinh và đáng yêu như những chú thỏ non trong rừng rậm. Và sau đó thì đều đặn, năm in một tập, năm in hai tập, ở các Nhà xuất bản Văn học, Thanh niên, Phụ nữ, Công an nhân dân, Lao động và Kim đồng. Tính đến Đồng bạc trắng hoa xòe là ấn phẩm thứ mười một của anh trong vòng thập niên trở lại đây, thuần về miền núi.

Văn học miêu tả dân tộc miền núi, nói nghiêm túc, mới chỉ có sau Cách mạng tháng Tám, trong kháng chiến Việt Bắc. Những tiểu thuyết đường rừng của Lan Khai trước kia (Tiếng gọi của rừng thẳm, Truyện đường rừng, Suối đàn), ít nhiều của Thế Lữ (Vàng và Máu, Một đêm trăng), chỉ là những truyện mượn rừng núi nhằm gây một cảm giác ly kỳ rùng rợn. Người đặt nét bút đầu tiên khai phá vùng núi cao trong văn học Việt Nam phải kể là Nam Cao với Ở rừng (1948). Đấy mới chỉ là những phác thảo trong những trang nhật ký duyên dáng của anh, nhưng bóng dáng người miền núi hiện ra đã thật là có tình và đáng yêu. Rồi Nam Cao mất, chưa kịp làm gì thêm cho miền núi nữa.

Cùng sống với Nam Cao là Tô Hoài, có Núi Cứu quốc (1948). Vẫn chỉ là những nét phác thảo. Phải đến năm 1953, cái vùng đất biên cương núi non trùng điệp vòng phía Tây Bắc Tổ quốc mới lấp lánh trong văn học Việt Nam với Mường Giơn giải phóng và Vợ chồng A Phủ. Và sau nữa thì tiểu thuyết Miền tây (1967) khẳng định mảng văn học miền núi trong bức tranh toàn cảnh văn học cách mạng Việt Nam là không thể không chú ý được, là đã đóng chốt vào rồi. Nhà văn Tô Hoài với ngọn bút lão luyện và tài hoa, đã chấm phá bức tranh thủy mạc về người về cảnh miền núi chinh phục chúng ta từ nhiều năm nay. Con dế mèn phiêu lưu đã xòe cánh trên vùng Tây Bắc... một lời khen rất có duyên về anh, và chứng tỏ cái uy thế tuyệt đối của anh về địa bàn miền núi.

Lúc ấy Ma Văn Kháng vẫn còn là cậu học trò cần cù học, đọc và lầm lũi như chú bé dân tộc theo mẹ đi chợ, đi theo con đường của Nam Cao, Tô Hoài khai phá. Tìm mua: Đồng Bạc Trắng Hoa Xòe TiKi Lazada Shopee

Tiếp bước cha anh... đấy là truyền thống dân tộc.

Đọc xong Đồng bạc trắng hoa xòe có cái mừng là thấy lớp người sau đã kế tục được lớp người trước. Và còn nhiều hy vọng vì còn trẻ, còn khỏe, còn như con ngựa mới chạy nước kiệu trên một quãng đường.

Ma Văn Kháng, tên thật là Đinh Trọng Đoàn, gốc người làng Kim Liên, khu Đống Đa, Hà Nội, tham gia cách mạng năm mười hai tuổi, do thói quen chung hồi ấy, đổi tên là Nguyễn Kháng, cho nó bí mật tông tích. Lên dạy học Lao Kay kết nghĩa anh em với một cán bộ huyện họ Ma, và để tỏ sự quyết tâm sống bám vùng đất này, theo lời một cán bộ tỉnh ủy khuyên: “Vùng này không thua gì Sông Đông êm đềm đâu. Cậu muốn viết văn hãy cố sống ở đây hết một giai đoạn”. Kháng đã đổi họ Ma, và sống trên đó gần một phần tư thế kỷ.

Hai mươi hai năm ròng sống, làm việc, quan sát, và viết. Ma Văn Kháng tích lũy tư liệu cần cù đúng như một con kiến tha mồi vào tổ, mỗi ngày một ít, mỗi tháng một ít. Anh tham gia biên soạn lịch sử Đảng bộ Lao Kay, tham gia tổ chức hội nghị tỉnh ủy nghiên cứu chuyên đề thổ ty. Nhiều tư liệu ngấm vào anh thật tự nhiên, do việc cọ sát hàng ngày với những cán bộ H'Mông cùng cơ quan, những buổi công tác xuống huyện, xuống xã, đi tham dự các sinh hoạt dân tộc, những lễ ăn thề, lễ nào sồng, những phiên chợ, có mặt cả đám cưới đám ma các dòng họ H'Mông... Anh đọc nhiều và lấy làm biết ơn đã thừa hưởng thành quả những công trình nghiên cứu về dân tộc học, về phong tục tập quán, về ngôn ngữ H'Mông của Doãn Thanh, của Nông Trung, Lục Bình Thủy, Phạm Xuân Phúc, v.v... Anh thu thập cả những tài liệu nước ngoài viết về H'Mông như của Savina người Pháp, chuyên gia nghiên cứu H'Mông, có những nhận định về chính sách, cai trị vùng H'Mông: “H'Mông bao giờ cũng vẫn là H'Mông. Thổ ty là tất cả. Người Pháp phải tạo ra được các thủ lĩnh dân tộc ở từng địa phương và qua họ, mà cai trị đời đời ở các vùng miền núi". (Histoire des Miaos).

Cho đến khi ra mắt bạn đọc hôm nay, Đồng bạc trắng hoa xòe được viết đi viết lại bốn lần. Tôi đã nhìn thấy đống bản thảo dày gần hai gang tay, bằng đủ các loại giấy thếp, giấy học sinh, giấy đánh máy, chi chít những chỗ dập xóa, chú thích bên lề...

Công việc văn chương! Đáng thương biết mấy!*. Ông Goóc-ki có nói với bạn đọc, đại ý, ông khuyên những ai cho nghề viết văn là nhàn nhã, nắng không đến đầu, mưa không tới gáy, mà dấn thân vào thì thật là một lầm lẫn to lớn ở đời. Nghề viết văn thuộc lao động cực nhọc nhất trên thế gian này. Miếng da lừa (Balzac) có chín bản thảo khác nhau. Quan thanh tra (Gogol), năm bản. Người mẹ (Gorki) sáu bản, bản đầu và bản cuối cách nhau hai mươi năm. Riêng phần tả điệu múa Xalômê của Flô-be có mười bản, bản nào cũng gần như tuyệt vời.

Với số tuổi như Ma Văn Kháng, ta sẽ phải hình dung anh đã vật lộn cực nhọc như thế nào để đẻ ra nổi hơn sáu trăm trang giấy, tái hiện một giai đoạn lịch sử ngắn ngủi, nhưng rắc rối vào bậc nhất của cách mạng Việt Nam hiện đại, tiến hành trên một vùng núi phong kiến thế tập phiên thần nghèo nàn và lạc hậu, lấy cái không gian tỉnh biên giới Lao Kay hừng hực, hỗn loạn, phức tạp, rối ren, bọc trong cái bối cảnh lịch sử ngàn cân treo sợi tóc của dân tộc: Nhật thua, Tưởng vào, Quốc dân Đảng về phá rối, Pháp trở lại xâm chiếm Nam Bộ, rồi vào Hà Nội với Hiệp định mồng 6 tháng 3, v.v...

Giai đoạn lịch sử này ở miền núi lần đầu tiên được đưa vào tiểu thuyết. Có lẽ đã đến lúc rồi, chúng ta đã có điều kiện về thời gian, về khoảng cách lùi xa đủ tầm nhận thức những khúc ngoặt lịch sử có tính chất quyết định, mà tái hiện lại trong văn học đi thôi. Để cho tương xứng với tầm vóc những hy sinh to lớn, những đổi thay vĩ đại mà cuộc cách mạng theo học thuyết Mác — Lênin đã được những người cộng sản Việt Nam tiến hành trên đất nước này, cũng là lần đầu tiên trên thế giới. Và chỉ có loại hình tiểu thuyết mới kham nổi dung lượng ấy mà thôi.

Ma Văn Kháng đã cảm thấy thế. Từ một câu chuyện định viết về tiễu phỉ năm 1955, anh đã chuyển sang tiểu thuyết, khi bắt được tia chớp hai cán bộ Việt Minh đơn độc vào vùng các châu miền đông Lao Kay: Bắc Hà, Pha Long, Mường Khương, thuyết phục thổ ty Hoàng Yên Chao, La Văn Tờ, ba anh em viên tri châu họ Nông... cùng tham gia đánh Pháp, đánh Việt Nam Quốc dân Đảng, giải phóng Lao Kay 1946 (Sau này vào truyện anh có đổi tên đi ít chút, cho nó được thoải mái trong sự sáng tạo).

Cuốn truyện mở ra trước chúng ta cái thị xã biên giới Lao Kay đang bị bọn tranh giành quyền lợi Việt Nam Quốc dân Đảng chiếm đóng, rút chạy từ Vĩnh Yên, từ Việt Trì, từ Yên Bái dồn lại sống thoi thóp ở đây, thất vọng chán chường, vỡ mộng, nhưng vẫn đầy mưu mô xưng bá đồ vương, nhờ sự hà hơi của bọn Tàu Tưởng, theo Hiệp nghị, đã phải về bên kia biên giới. Những cán bộ Việt Minh được Đảng điều lên vận động quần chúng làm hậu thuẫn cho lực lượng vũ trang nhân dân: Vệ quốc đoàn, đã tiến đến Yên Bái, đang dừng lại chuẩn bị kế hoạch tấn công giải phóng thị xã Lao Kay.

Người đọc hào hứng đi theo hai cán bộ Việt Minh, cưỡi hai con ngựa, gần như tay không, vào một vùng đất lâu đời nơi biên cương heo hút, với các chế độ thổ ty kỳ quặc từ bao thế kỷ, những phong tục tập quán thật kích thích và lạ lùng, và nhất là với tâm hồn người dân tộc thiểu số anh em đáng thương và đáng quí mà chúng ta chưa được biết là bao.

Những đốm lửa cách mạng đã được đốt lên trên vùng hoang vắng trùng điệp núi non này, lòng yêu nước được khơi động, và quần chúng nhân dân anh em đã tề tựu dưới lá cờ Tổ quốc, cùng Vệ quốc đoàn tiến vào giải phóng Lao Kay, thành lập chính quyền Dân chủ nhân dân chậm nhất trong các tỉnh miền Bắc, nhưng đã thành công.

Cuốn truyện đóng lại vào cuối năm 1947, trong một trận đánh trên đèo Mã Yên Sơn, lúc này bọn thổ ty đã phản bội, liên kết với thực dân Pháp trở lại xâm lược nước ta, hành quân chiếm đóng Lao Kay. Thị xã đã lệnh sơ tán, tiêu thổ kháng chiến, theo chủ trương trường kỳ kháng chiến bấy giờ. Cuốn sách dừng lại ở đầu một khúc ngoặt mới: Cuộc kháng chiến chín năm chống Pháp, có ngụ ý mở cửa cho một cái gì sau này nữa đây.

Và Đồng bạc trắng hoa xòe đã dựng lên hàng loạt nhân vật, lối đa tuyến bình đồ, không ai là chính cả, hay nói một cách khác, nhân vật nào cũng có đường dây riêng, phát triển tâm lý và tính cách như là một nhân vật chính. Những tuyến nhân vật đan chéo nhau rối rắm như một mớ tơ vò, với những tâm trạng, những số phận, những cảnh ngộ nhiều hình nhiều vẻ, nhưng rồi cái nào vẫn kéo ra cái ấy, giống như một sợi tơ chuốt nõn trong tay người quay sa kéo ra từ đống tơ vò nọ. Không gian chuyển dịch luôn luôn, tạo một cảnh tượng rộng lớn cho bức tranh văn học, có điều kiện để các nhân vật thỏa sức vẫy vùng. Nhịp độ nhanh, nhiều sự việc, nhiều hành động. Lối dựng này đáp ứng được dung lượng rộng lớn của những cơn lốc cách mạng, hàng loạt người lột xác hoặc thoái hóa, sự đổ vỡ của những giá trị cố hữu, những ngã ba đường, sự đụng độ giữa chân thiện mỹ với những thế lực hắc ám đã tàn tạ. Lối dựng này rất ít thấy trong tiểu thuyết nước ta.

Viết Rừng động, Mạc Phi đã rất công phu thu thập tư liệu, muốn dựng lên một bức tranh lớn về những đổi thay của đồng bào Thái Tây Bắc trong cuộc kháng chiến chuyển mình chín năm của dân tộc. Anh đã có những thành công về vùng người Thái. Cũng như Nguyên Ngọc đã có những thành công về miêu tả dân tộc anh em Tây Nguyên trong Đất nước đứng lên. Ma Văn Kháng đặc biệt thành công về các nhân vật người H'Mông. Nhiều người đọc sách anh cứ đinh ninh tác giả là người dân tộc. Dân tộc H'Mông, tất nhiên. Không phải lòe thiên hạ bằng những ngôn từ cụ thể lối so sánh chất phác với cái tên cây cối trong rừng, ví von với con hươu con nai bằng tiếng gọi địa phương là lạ, hoặc đôi lúc nhét một vài từ dân tộc trong lời thoại cho nó có sắc thái là người miền núi. Nghe cứ tức anh ách. Ma Văn Kháng học theo lối sử dụng cách nói miền núi của nhà văn Tô Hoài. Và cái chính là anh đã sống nhiều năm với người miền núi. Sống có tình. Anh mô tả các dân tộc Lao Kay bằng một thứ tình cảm chồng vợ, anh em ruột thịt. Những con người xa lạ tưởng như khó hiểu và man rợ trên vùng núi biên cương, bỗng nhiên thành gần gũi thân quen, đúng là anh em một nhà. Những cảnh sắc tưởng như buồn tẻ, hoang sơ, từ khai thiên lập địa, bỗng rực rỡ đẹp... Ma Văn Kháng đã làm như nhà văn Tô Hoài, chấm phá vẩy hồn vào cảnh vật, khiến chúng lung linh, rực rỡ, hấp dẫn, kích thích làm sao! Và tôi đoán chắc rằng, những ai thường ngần ngại khi được điều lên công tác Lao Kay, đọc xong cuốn truyện, hẳn sẽ an tâm đi nhận công tác, trút thoát được cái nặng nề trong tâm khảm vô căn cứ, khi đã đeo con mắt của tác giả Đồng bạc trắng hoa xòe.

Bút pháp trong Đồng bạc trắng hoa xòe thường dùng theo lối vẽ long trong mây. Con rồng đẹp cứ giấu mình trong mây che chỉ lộ ra những khúc lượn vàng son có hạn, nhưng cho người xem vẫn nhận được đủ cái vóc dáng mạnh mẽ thanh thoát của toàn bộ con rồng.

Bút pháp trong Đồng bạc trắng hoa xòe thường dùng lối uống rượu sớm mai. Độ rượu chỉ đủ để gây ngây ngất, quá nữa là say, dưới một chút coi là chưa uống. Biết dừng lại để gây ngây ngất mới là người biết uống rượu. Trong văn chương biết dừng lại là quí hóa lắm. Nghệ thuật viết văn của Đông Tây kim cổ thâu tóm lại cũng chỉ trong ba tiếng biết dừng lại mà thôi.

Một lao động văn chương nghiêm túc thường có nhiều tác dụng lắm. Thử đeo đôi mắt một chính khách, đọc Đồng bạc trắng hoa xòe, bỗng nhận ra rằng: Thì ra bọn Pháp trước đây, bọn Mỹ vừa rồi, bọn phản động hiện nay đều chú ý đến vấn đề người H'Mông vùng Đông Nam Á chính vì thế đấy. Người H'Mông sống trên núi cao vùng giáp giới các nước Trung Quốc, Việt Nam, Lào, Thái Lan, Miến Điện, móc nối nhau như một tam giác — khu tam giác vàng theo từ ngữ của Mỹ. Dân tộc H'Mông gan dạ và kiên nghị nhưng bị vây hãm bằng ngu dốt và man dại trong lịch sử, tạo cho họ một mặc cảm kỳ thị chủng tộc nặng nề, một niềm mong ước tự trị tha thiết run rẩy, đã góp phần hình thành một tính cách H'Mông đặc biệt.

Phần thiếu sót của cuốn sách không đáng kể. Có chăng ở cảm giác đọc hơn một trăm trang đầu chưa thú vị lắm. Lối dựng các nhân vật phản diện Quốc dân Đảng theo một đường mòn thường thấy, đã là phản động thì xấu từ bên trong ra đến diện mạo, ăn mặc lố lăng, ngôn ngữ đểu cáng, rượu, gái, sợ chết, lại thường bị đẩy vào những tình huống tức cười ngớ ngẩn (Buổi họp thị trấn. Cảnh đón Vũ Khanh. Buổi họp ở nhà Cercle khiến chúng như một hành thi (thây ma đi, từ Đông y) đẩy ngón tay út cũng ngã. Có thể ở những đoạn mô tả các quán ăn chơi bời trước kia, tác giả chỉ được nghe kể lại, phải tưởng tượng ra nhiều hơn là từng trải (Quán Biên thùy). Có thể ở cả tâm trạng các loại người cũ, cũng thanh khí nhưng khác lạ hẳn lớp người anh, mà anh động chạm tới họ bằng những khắc họa ước lệ (Ngọc, Trọng). Sự thiếu sót này chỉ đáng ví như người đứng xem tranh thấy một vài nét màu vulgaire (tầm thường) lẫn lộn trong bức tranh sắc độ màu rất noble (cao nhã) của anh.

Điều đáng tiếc thứ hai, bút lực của anh, sao mà không nhấn thêm, đậm hơn lên cái đoạn mô tả cảnh Pao lao động. Anh có thể làm được lắm! Như anh đã mô tả những đoạn tuyệt hay về cảnh hành quyết người Mèo, cảnh Pao vật ngựa, cảnh Châu Quán Lồ dạy ngựa, cảnh ngày hộ sư các lực lượng vũ trang dân tộc... Với quan điểm yêu quí người lao động như anh, bút pháp của anh, mà chỉ chấm phá vài nét cảnh Pao đi cày, thật đáng tiếc. Anh có cho biết là sợ trùng lặp với một cuốn sách khác của anh, đã mô tả kỹ cảnh này, có trích học trong sách giáo khoa. Đừng câu nệ, anh Ma Văn Kháng ạ. Cứ phải cho vào đây, để hoàn chỉnh một bức tranh đẹp, chặt chẽ về mặt nội dung tư tưởng. Công phu ra thì vẽ lại với một nuance (sắc độ) khác càng hay.

Cuốn sách chưa kết thúc, nó chỉ nên coi là tập I. Chắc tác giả sẽ còn cho các nhân vật gặp nhau trong tập II, giai đoạn cuộc kháng chiến chín năm sẽ có nhiều thăng trầm, mâu thuẫn, xung đột gay cấn hơn nữa. Số phận của Châu Quán Lồ, của Pao, Lử, anh em Seng, Tếnh; những Chính, Đắc, Ngọc; những Triệu Đại Lộc, Phô-rô-pông, các viên thổ ty... còn biết bao là tâm trạng, là cảnh ngộ, là tính cách, sẽ va chạm nảy lửa.*

Nếu coi đây là kết thúc thì cuốn sách lộ ra một nhược điểm lớn. Nhiều nhân vật xử lý chưa hết mức. Có những nhân vật xuất hiện ở phần một rồi mất hút (ông lão Lìu, bào lãi Lìu, sĩ quan cận vệ Mộng Huyền, võ sĩ Vận). Nếu chỉ thế thì tác giả giống như một phù thủy non tay quyết, gọi âm binh lên dày đặc, nhưng không đủ sức sai phái chúng làm hết việc, để chúng rơi vãi, thậm chí quên cả chúng đi.

Ma Văn Kháng còn sung sức. Chúng tôi tin là anh còn đủ sức dắt dẫn nhân vật đi tiếp trong văn học, cho chúng ta thưởng thức những trang sách hay hơn nữa.

Với Đồng bạc trắng hoa xòe, Ma Văn Kháng đã khẳng định là đứng được trong loại hình tiểu thuyết. Nó có thể coi như một cái mốc trên bước đường văn học của anh tính từ Xa phủ.

Một phần năm thế kỷ sống ở miền núi, và quan sát, và viết. Một phần năm thế kỷ ấy thật đáng giá với Ma Văn Kháng. Và sự trân trọng của bạn đọc hôm nay với các tác phẩm của anh, đặc biệt với Đồng bạc trắng hoa xòe là một sự trả giá đầy ý nghĩa.Dưới đây là những tác phẩm đã xuất bản của tác giả "Ma Văn Kháng":Xa Xôi Thôn Ngựa GiàChim Én Liệng Trời CaoĐám Cưới Không Có Giấy Giá ThúĐồng Bạc Trắng Hoa XòeGặp Gỡ Ở La Pan TẩnMột Mình Một NgựaNgười Thợ Mộc Và Tấm Ván ThiênVõ Sĩ Lên ĐàiMùa Lá Rụng Trong Vườn

Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Đồng Bạc Trắng Hoa Xòe PDF của tác giả Ma Văn Kháng nếu chưa có điều kiện.

Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.

Nguồn: thuviensach.vn

Đọc Sách

Hai Kinh Thành (Charles Dickens)
Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Hai Kinh Thành PDF của tác giả Charles Dickens nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Hai Cuốn Nhật Ký (Tanizaki Junichiro)
Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Hai Cuốn Nhật Ký PDF của tác giả Tanizaki Junichiro nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Hai Chậu Lan Tố Tâm (Phan Du)
Hai chậu lan Tố Tâm là truyện ngắn Việt-Nam đã được giải nhì, đồng hạng với Nhật-Bản, trong cuộc thi truyện ngắn giữa các quốc gia vùng Đông-nam-Á (gồm có Trung-Hoa Dân-Quốc, Nhật-Bản, Đại-Hàn, Phi-luật-Tân, Mã-Lai, Ấn-Độ, Hương-Cảng, Hồi-Quốc và Việt-Nam) do Trung-Tâm Văn Bút Phi-luật-Tân tổ chức và tuyên bố kết quả vào thượng bán niên 1964 1. Truyện này trước kia đã được đăng trong tuyển tập Cô gái xóm nghèo, tác phẩm đầu tay của Phan Du, do nhà xuất bản Văn-hữu Á-châu ấn hành vào năm 1959. Nhưng sau khi quyển Cô gái xóm nghèo ra đời, với những trắc trở bất thường của nó, với sự góp ý của các bạn văn, tác giả Phan Du mới có ý định kiểm điểm lại những truyện ngắn của mình trên hai mươi năm sáng tác: truyện ngắn cũ nhất của ông - Bữa cơm chay - đăng trên tuần báo Tiểu Thuyết Thứ Bảy của Vũ Đình Long xuất bản ở Hà-Nội vào năm 1942, và truyện mới nhất, khá dài, gọi là Hồi hộp đăng ở tờ Văn của Nguyễn Đình Vượng và Trần Phong Giao vào số 26 (đầu năm 1965) nhưng sau khi việc sắp chữ hoàn thành, truyện này đã bị kiểm duyệt bỏ hết. Là một ngòi bút vững vàng từ thời tiền chiến và đến bây giờ vẫn còn nguyên vẹn nhiệt tình ngày trước, cộng thêm sự điêu luyện của bao nhiêu năm kinh nghiệm trong nghề, ông đã sáng tác được một số lượng khá lớn truyện ngắn. Nhưng vốn khiêm tốn quá nhiều đến gần như thích cuộc sống ẩn mình, ông không quan tâm đến việc ấn hành tác phẩm. Gần đây, sau khi truyện Hai chậu lan Tố Tâm đã được giải thưởng quốc tế một cách âm thầm, nhà văn Phan Du cũng không tỏ ra hứng khởi thêm được chút nào trong sự giới thiệu những sáng tác phẩm của mình. Một vài bạn văn ít ỏi của ông bất bình trước sự im lặng của giải thưởng ấy, và cả của ông, nhiều lần khuyến khích ông cho ra đời tất cả truyện ngắn sáng tác trên hai chục năm. Trước sự thúc đẩy chân tình của các văn hữu và lời đề nghị xuất bản nồng hậu của nhà CảoThơm, ông đã bỏ mất khá nhiều thì giờ để sưu tập lại hết sức khó khăn những sáng tác phẩm của mình từ trước. Nhưng sự bất mãn đối với chính mình khiến ông liên tiếp gạt bỏ, và chỉ giữ lại có mười chín truyện, trong đó gần cả mười năm sáng tác của giai đoạn đầu, chỉ còn giữ mỗi ba truyện: Sống gửi, Thuốc cá, Khóc thật in ở cuối tác phẩm này. Ba truyện ấy là di sản của Phan Du tiền chiến. Đem ba truyện ấy so sánh với các truyện khác của những năm về sau đây, đăng tải ở trong phần đầu tác phẩm, chúng ta nhận thấy ở trên căn bản, nhà văn Phan Du vẫn giữ một nét thuần nhất trong một thái độ về đời. Ông vẫn tiếp tục nụ cười chua xót trước những cảnh đời giả dối, vụ lợi, và vẫn tuyên truyền tình thương, phả khuyến từ thiện một cách rộng rãi, tuy vẫn không quên thỉnh thoảng bày tỏ đôi chút bất bình. Qua những cái nhìn thương hại, qua những nụ cười xót xa, chúng ta thấy được một ý bảo tồn, một chút an ủi, một niềm tin tưởng ở cái tính thiện cũng như lương tâm con người. Người ta có thể nghĩ rằng với một tình thương dồi dào nhưng lại trừu tượng, tác giả sẽ lầm lạc chăng, sẽ bất công chăng? Bởi lẽ tội ác đích thực phải được nghiêm trừng xứng đáng để cho con người lương thiện được sự yên lành, và nỗi đau khổ của kẻ thiệt thòi không thể chỉ được đền bù bằng chút xót xa của người đồng hội đồng thuyền, hay sự ái ngại của lớp dư thừa, nhàn rỗi. Nhưng nếu không quá bận lòng về những giọt lệ thương tâm mà tác giả tuôn tràn xuống quãng đường nhân thế hiện đang đầy dẫy xác chết và những bất công, chúng ta có thể tìm gặp ở nơi Phan Du những nguồn rung cảm lớn lao của một tâm hồn hướng thiện đã bắt gặp được ở trong sự sinh hoạt bình thường khá nhiều sự thực cao quí vốn là lẽ phải chân chính của đời: ở trong tác phẩm của ông, bao giờ hai cái sức mạnh Thiện, Ác cũng được đối đầu mãnh liệt, và sau nhiều phen tranh chấp gay go, cái Thiện vẫn nắm được phần thắng lợi, cũng như nó phải giành lấy thắng lợi ngoài đời. Cái Ác, ở đây, có thể khoác lấy hình hài lông lá của con heo rừng phá hoại giữa Hai gánh lúa, hoặc là những chiếc máy bay cuồng bạo gieo rắc tóc tang trong Cái vỏ đạn, hay là một đôi ý tình bất chính ẩn hiện chập chờn qua Con mèo đen. Và cái Thiện ấy là người nông dân chiến đấu gian nan để giữ mùa màng, là vị bô lão hy sinh tính mạng cho sự an toàn thôn xóm, là cái lương tri kịp thời giữ vững của một người bạn đứng trước hạnh phúc của người bạn mình. Trong Hai chậu lan Tố Tâm, ý thiện ấy là tinh thần chiến thắng được cái thú thích cá nhân để hướng về sự phục vụ xã hội. Tìm mua: Hai Chậu Lan Tố Tâm TiKi Lazada Shopee Cùng với thời gian và sự lớn mạnh của dân tộc mình, nhà văn Phan Du đã thấy thấm thía hơn trước chân lý của đời, và đảo cái nhìn bao quát hơn trước về những thực trạng xã hội. Do đó, trong nhiều tác phẩm, ông đã đẩy được tình thương đến những thái độ quyết liệt hơn xưa trong sự nhận diện tội ác, cũng như đối đầu với nó: Con ngựa hai chân, Bàn tay kẻ đói, Rắn hổ, Bức bình phong... là sự vạch trần tất cả chế độ phi nhân và phơi bày những lớp người xấu xa cùng những nạn nhân của họ. Giữa lúc nhiều người văn nghệ không rút chân khỏi đầm lầy cá nhân với những suy tư bất lực, nhà văn Phan Du vẫn giữ sáng được tấm lòng, vẫn cố hướng về những ý cao cả, trong một khuôn điệu nghệ thuật vững vàng đạt đến mực thước tinh vi cổ điển. Không đuổi theo những bong bóng sặc sỡ của các ảo tưởng gọi là « văn chương thời đại », không tự mê hoặc, và không mê hoặc người khác, nhà văn Phan Du vẫn cứ tiếp tục đều đặn con đường sáng sủa của mình. Và dầu mặt trời tuổi tác có quay chiều xuống chân mây, bước đường từ tốn của ông vẫn đang đi lên, vẫn cố đi lên mãi mãi theo với cuộc đời dân tộc. Saigon, tháng 6 năm 1965 VŨ HẠNHĐộc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Hai Chậu Lan Tố Tâm PDF của tác giả Phan Du nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Hắc Phong Thành Chiến Ký (Nhĩ Nhã)
Hắc Phong Thành Chiến Ký là phần tiếp theo của Long Đồ Án Quyển Tập, bao gồm mười chiến dịch, địa điểm chủ yếu là Hắc Phong Thành ở Tây Bắc, đồng thời cũng có tình tiết phá án xen kẽ giữa các chiến dịch ~~ Sự xuất hiện của Ác Đế Thành phá vỡ bình yên của vùng Tây Bắc, trận chiến giữa chính và tà hết sức căng thẳng. Vụ án kết hợp với chiến dịch, toàn bộ nhân vật trong Long Đồ tiếp tục trải qua những câu chuyện truyền kỳ.***Núi Hắc Phong nằm ở phía Nam của Thành Hắc Phong, đỉnh núi quanh năm tuyết phủ, sườn núi cây cối tốt tươi, chân núi có suối nhỏ đan xen, quả là một ngọn núi bốn mùa luân chuyển. Con đường quan đạo kéo dài từ biên giới Trung Nguyên cho tới Hắc Phong Thành do xe ngựa thường xuyên qua lại, cho nên vô cùng rộng rãi, mặt đất cũng vì vậy mà bằng phẳng. Tìm mua: Hắc Phong Thành Chiến Ký TiKi Lazada Shopee Bốn phía của quan đạo đều có núi bao phủ, chỉ cần vòng qua núi Hắc Phong là có thể trực tiếp đi thẳng tới cửa thành phía Nam của Hắc Phong Thành. Dưới chân núi có quân doanh của Triệu gia quân, một phần của đại quân Trung Lộc đóng ở đây, quân trướng kéo dài tới trăm dặm, tính từ cửa Nam của thành Hắc Phong cho đến núi Hắc Phong, tổng số quân lính lên tới mười hai vạn người. Phía Bắc Hắc Phong Thành giáp với núi Hắc Phong, phía Nam giáp Đại Tống, phía Tây Bắc lại giáp với một tòa thành hết sức phồn hoa - Tây Châu Phủ. Trên sườn núi phía Nam có rất nhiều chùa và miếu, có cả những ngôi chùa gần nghìn năm tuổi, hương khói rất vượng. Một ngày sáng sớm, tại một ngôi miếu gọi là 'Lưu Vân Tự' tọa lạc ở lưng chừng sườn núi phía Tây Nam của thành Hắc Phong, có hai vị tiểu hòa thượng mang theo cây chổi rơm, ngáp một cái rồi quét lá rụng trước cửa. Hai người vừa quét vừa trò chuyện, mấy ngày hôm trước quan tiên phong của Triệu gia quân là 'Hỏa Kỳ Lân' Âu Dương Thiếu Chinh mang theo kỵ binh trở về quân doanh, phỏng chừng nguyên soái Triệu Phổ cũng sắp dẫn binh mã quay về. Trong lúc trò chuyện, phía bên kia rừng truyền đến tiếng "xào xạc" khác thường, không giống tiếng gió thổi, cứ như đang có vật gì đó đang di chuyển vậy. "Ai nha!" Tiểu hòa thượng nhỏ tuổi chạy đến trốn phía sau lưng của tiểu hòa thượng lớn hơn, "Sư huynh, không phải là dã thú xuống núi đấy chứ?" Vị tiểu hòa thượng lớn hơn có chút bất đắc dĩ nhìn sư đệ của hắn, "Núi Hắc Phong làm gì có dã thú, nhưng mà hươu sao thì có rất nhiều đấy. Chúng không cắn người, ngược lại còn rất thú vị, đệ có mang theo bánh không? Nếu chúng chạy đến, chúng ta cho bọn nó ăn đi." Tiểu hòa thượng kia vừa mới nói xong chữ "đi", trong rừng cây liền "viu" một tiếng, một con Hắc Hổ cực lớn chui ra, bay qua đỉnh đầu của hai tiểu hòa thượng rồi nhảy vào khu rừng bên dưới núi. Hai tiểu hòa thượng vẫn duy trì tư thế há hốc miệng ngẩng đầu nhìn bầu trời. "Sư huynh, đó là hươu sao à?" Mãi một lúc lâu, tiểu hòa thượng túm lấy vị sư huynh đang trợn mắt há mồm, hỏi, "Nó có ăn bánh không?" Lúc này, trong rừng lại truyền đến một loạt tiếng động xôn xao, hai tiểu hòa thượng sợ tới mức ôm nhau thành một cục. "Viu viu" hai cái, trong rừng cây lại xuất hiện vài bóng người, chẳng qua hiện tại không phải hắc hổ mà là vài người thợ săn mang theo cung tên. "Tiểu hòa thượng!" Dẫn đầu là một thiếu niên cường tráng hỏi hai người, "Có thấy một con hắc hổ không?" "Cái này..." Hai vị tiểu hòa thượng cùng nhau gật đầu.Dưới đây là những tác phẩm đã xuất bản của tác giả "Nhĩ Nhã":Đồn Đại Hại Chết Người TaDu Long Tùy NguyệtHắc Phong Thành Chiến KýHảo Mộc Vọng ThiênHoàng Bán TiênHuyết Dạ Dị Văn LụcQuạ Đen Quạ TrắngQuốc Tướng Gia Thần ToánThịnh Thế Thanh PhongVũ Dạ Kỳ ĐàmĐộc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Hắc Phong Thành Chiến Ký PDF của tác giả Nhĩ Nhã nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.