Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Miền Đất Hứa Của Tôi - Khải Hoàn Và Bi Kịch Của Israel

Miền đất hứa của tôi là cuộc phiêu lưu cá nhân của một người Israel, băn khoăn trước ngập tràn biến cố lịch sử trên quê hương mình. Đây là một hành trình vượt không gian và thời gian của một người sinh ra tại Israel, nhằm khám phá câu chuyện đại sự của dân tộc mình. Thông qua lịch sử gia đình, lịch sử cá nhân và các bài phỏng vấn sâu, Shavit đã cố gắng tiếp cận câu chuyện sâu xa hơn và những câu hỏi sâu sắc hơn về Israel, về sự định hình tương lai của người Do Thái. Đây là một trong những cuốn sách quan trọng và có tác động mạnh mà Ari Shavit viết nhằm phục hồi cảm giác về thực tính của Israel và say sưa với nó, để khôi phục lại sự hùng vĩ của một thực tế đơn giản trong cái nhìn đầy đủ về các sự kiện phức tạp. Miền đất hứa của tôi gây ngạc nhiên về nhiều mặt, nhất là việc nó tương đối ít chú trọng tới việc cung cấp cho người đọc các thông tin về chính trị. Shavit, nhà bình luận trong ban biên tập của Haaretz, có một tư duy độc lập, không bị ảnh hưởng bởi bất kỳ học thuyết nào. Ông viết không để ca ngợi hay đổ lỗi, dù trong quá trình ấy ông đã làm cả hai điều này, thay vào đó, với sự uyên bác và tài hùng biện; ông viết để quan sát và phản ánh. Đây là cuốn sách ít thiên vị nhất về Israel. Một cuốn sách Phục quốc Do Thái nhưng không bị kích động bởi chủ nghĩa phục quốc. Nó nói về toàn thể trải nghiệm Israel. Shavit đắm mình trong toàn bộ lịch sử của đất nước mình. Dù một số  sự kiện trong đó làm ông tổn thương, song không gì là xa lạ đối với ông. Ông đã viết một chương xuất sắc về chính trị gia tham nhũng nhưng đầy sức hút, Aryeh Deri, và sự trỗi dậy trên chính trường của tôn giáo dòng Sephardi tại Israel, qua đó minh họa rõ nét tầm hiểu biết của mình. Tuy nhiên thật may đây không phải là một cuốn hồi ký; nó là một cuộc điều tra được viết với văn phong gần gũi. Shavit khám phá xã hội của ông với sự tỉ mỉ của một người đàn ông cảm thấy bản thân mình gắn với số phận của nó, và ông không ngần ngại nói về sự tan rã của nước cộng hòa Israel trong những năm gần đây. Theo quan sát của ông “Trong vòng chưa đầy 30 năm, Israel đã trải qua bảy cuộc nổi loạn trong nước khác nhau: cuộc nổi dậy của người định cư, các cuộc nổi dậy hòa bình, cuộc nổi dậy vì tự do tư pháp, cuộc nổi dậy phương Đông, cuộc nổi dậy của dòng Chính thống cực đoan, cuộc nổi dậy của chủ nghĩa khoái lạc cá nhân và cuộc nổi dậy của người Israel gốc Palestine.” Ông lo lắng, có lẽ có phần hơi quá, rằng đất nước ông đang tan rã: “Quốc gia khởi nghiệp này phải tự khởi động lại”. Chắc chắn là không có tình tiết giảm nhẹ nào cho sự bất bình đẳng kinh tế và xã hội mà ông mô tả, hoặc những xáo trộn hoàn toàn các chính sách định cư trong vùng lãnh thổ mà Israel có một mối quan tâm khẩn cấp và lâu dài trong việc di tản. Nhưng những lời khuyên và khích lệ của Shavit rằng “luận điểm cũ về nghĩa vụ và sự cam kết đã được thay thế bằng một luận điểm mới về sự phản kháng và chủ nghĩa khoái lạc”, và “thách thức trước mắt là thách thức giành lại quyền lực quốc gia”, là u ám và khắc nghiệt hơn so với giọng văn đầy nhiệt huyết và phóng khoáng trong cuốn sách. Và khái niệm “quyền lực quốc gia” thì đi kèm với những mối liên hệ không mấy hấp dẫn. Vùng đất hỗn loạn và ồn ào trong Miền đất hứa của tôi sẽ không thể được chữa lành chỉ với những cố gắng đơn thuần để đưa nó trở lại bình thường như trước đây. *** NHỮNG DẤU CHẤM HỎI Những gì tôi còn nhớ được là nỗi sợ hãi. Nỗi sợ hãi mang tính sinh tồn. Nơi tôi lớn lên - Israel giữa thập niên 1960 - đầy nghị lực, nhiệt huyết, và hy vọng. Nhưng tôi luôn cảm thấy đằng sau những ngôi nhà đẹp đẽ với bãi cỏ phía trước nhà của tầng lớp thượng lưu thành phố quê hương tôi là một đại dương tăm tối. Tôi lo sợ có ngày đại dương tăm tối đó sẽ trào dâng và nhấn chìm tất cả chúng tôi. Một trận sóng thần như trong thần thoại sẽ đập vào bờ và cuốn Israel của tôi đi. Nó sẽ thành một Atlantis(1) nữa, chìm sâu dưới đáy biển. Một sáng tháng 6 năm 1967, khi tôi chín tuổi, tôi đến bên cha dang cạo râu trong nhà tắm. Tôi hỏi ông, liệu người Ả-rập có thắng không. Liệu người Ả-rập có chinh phục Israel của chúng ta hay không? Liệu họ có ném tất cả chúng ta xuống biển không? Vài ngày sau, Chiến tranh Sáu ngày(2) bắt đầu. Tháng 10 năm 1973, tiếng còi báo động của thảm họa bắt đẩu rền rĩ. Tôi đang bị cúm, phải nằm trên giường sau buổi trưa ngày lễ Yom Kippur(3) yên tĩnh, khi những chiếc phản lực F-4 đang xé nát bầu trời. Chúng bay ở độ cao 500 feet(4) trên mái nhà chúng tôi hướng đến kênh đào Suez, chống lại lực lượng xâm lược Ả-rập bất ngờ đánh chiếm Israel. Nhiều chiếc, trong đó đã không bao giờ trở lại. Lúc đó tôi 16 tuổi, sững sờ khi nghe tin quân đội Israel thua trận tại sa mạc Sinai và Cao nguyên Golan. Trong 10 ngày kinh hoàng này, dường như nỗi sợ hãi ban sơ của tôi đã được chứng minh. Israel đang nguy nan. Những bức tường của Ngôi đền Thứ ba(5) của người Do Thái đang rung lắc. Tháng 1 năm 1991, Chiến tranh vùng Vịnh lần thứ nhất bùng nổ. Tel Aviv bị tên lửa SCUD của Iraq bắn phá. Có người còn lo lắng về khả năng Israel bị tấn công bằng vũ khí hóa học. Trong nhiều tuần, người dân Israel mang theo mặt nạ phòng độc khi đi lại. Thi thoảng, khi có cảnh báo là đầu đạn tên lửa đã được bắn ra, chúng tôi liền đeo mặt nạ chui vào những căn phòng bịt kín. Mặc dù sau đó hóa ra không phải, nhưng có điều gì đó khủng khiếp về thứ nghi lễ kỳ quái này vẫn đọng lại. Tôi lắng nghe âm thanh còi báo động, và hoang mang nhìn vào đôi mắt kinh hãi của người thân nhốt trong những chiếc mặt nạ chống độc do Đức sản xuất. Tháng 3 năm 2002, một làn sóng khủng bố làm Israel lo lắng. Hàng trăm người chết khi những đối tượng đánh bom cảm tử Palestine tấn công các xe buýt, câu lạc bộ đêm, và trung tâm mua sắm. Một đêm, khi tôi đang viết bài nghiên cứu về Jerusalem thì nghe một tiếng nổ lớn. Tôi nhận ra chắc là ở quán bar trong khu nhà tôi. Tôi chộp lấy tập giấy viết và lao ra phố. Ba chàng trai – ngồi trong quán trước những vại bia vơi một nửa - đã chết. Một phụ nữ nhỏ nhắn chết gục trong góc. Những người bị thương thì đang gào thét và khóc lóc. Khi nhìn vào địa ngục xung quanh trong ánh đèn sáng rực của quán bar đã nổ tung, tôi - một nhà báo - tự hỏi: Cái gì sẽ đến? Chúng tôi có thể chịu đựng được sự điên rồ này bao lâu nữa? Liệu có lúc nào sinh lực sống đầy tự hào của người Israel chúng tôi sẽ phải đầu hàng các thế lực gây chết chóc đang cố gắng hủy diệt mình? Chiến thắng quyết định trong cuộc chiến năm 1967 đã xua tan những nỗi sợ trước chiến tranh. Sự phục hồi vào các thập niên 1970 và 1980 đã chữa lành vết thương sâu của năm 1973. Tiến trình hòa bình thập niên 1990 đã hàn gắn thương tích năm 1991. Sự thịnh vượng cuối thập niên 2000 đã che đậy nỗi kinh hoàng của năm 2002. Chính xác là do ít hiểu biết, nên người Israel chúng tôi cứ khăng khăng tin vào bản thân, tin vào quốc gia-dân tộc và tương lai của mình. Nhưng qua nhiều năm, nỗi sợ hãi câm lặng của tôi vẫn không bao giờ qua di. Dù bàn bạc hay biểu đạt nỗi sợ hãi này là điều kiêng ky, nhưng nó vẫn luôn đeo bám tôi mọi nơi. Các thành phố của chúng tôi dường như được xây trên cát trượt. Nhà ở của chúng tôi dường như không bao giờ vững chắc hoàn toàn. Ngay cả khi dân tộc tôi trở nên mạnh mẽ và giàu có hơn, tôi vẫn cảm thây nó dễ bị tổn thương. Tôi nhận ra chúng tôi thường xuyên bị nguy hiểm đe dọa. Vâng, cuộc sống của chúng tôi tiếp tục sôi động, giàu có, và hạnh phúc về nhiều mặt. Israel tạo nên một cảm giác an toàn xuất phát từ thành công về vật chất, kinh tế, và quân sự. Sinh lực sống hằng ngày của chúng tôi thật thần kỳ. Nhưng vẫn luôn tồn tại nỗi sợ, rằng một ngày nào đó cuộc sống thường nhật sẽ tê liệt như ở Pompeii(6). Quê hương yêu dấu của tôi sẽ vụn nát khi đội quân Ả-rập khổng lồ hoặc lực lượng Hồi giáo hùng mạnh vượt qua hàng phòng thủ và xóa sổ sự tồn tại của nó. Những gì tôi còn nhớ được là sự chiếm đóng. Chỉ một tuần sau khi tôi hỏi cha, liệu các nước Ả-rập có chinh phục Israel không, thì Israel đã chinh phục những vùng đất người Ả-rập cư trú ở Bờ Tây và Gaza. Một tháng sau, cha mẹ, em trai và tôi bắt đầu một chuyến đi gia đình đến các thành phố bị chiếm đóng là Ramallah, Bethlehem, và Hebron. Đi qua nơi nào chúng tôi cũng thấy dấu tích của những chiếc xe jeep, xe tải và xe quân sự Jordan bị cháy. Những lá cờ trắng đầu hàng treo trên hầu hết các ngôi nhà. Một số con phố bị chặn lại bằng những xác xe hơi Mercedes đen vốn sang trọng nhưng đã biến dạng do xe tăng Israel nghiến lên. Nỗi sợ hãi hiện ra trong đôi mắt những dứa trẻ Palestine bằng và ít tuổi hơn tôi. Cha mẹ chúng xem ra đã bị đánh bại và bẽ mặt. Trong vài tuần, người Ả-rập hùng mạnh đã biến thành nạn nhân, còn người Israel bị nguy cấp lại trở thành kẻ chinh phục. Quốc gia Do Thái giờ đây hân hoan chiến thắng, tự hào và say sưa với cảm giác cuồng nhiệt về sức mạnh. Khi tôi ở tuổi vị thành niên, mọi thứ còn tốt đẹp. Chúng tôi hiểu chung chung rằng việc chiếm đóng quân sự là nhân đạo. Israel hiện đại đã mang đến sự tiến bộ và phồn vinh cho các vùng đất Palestine. Giờ đây, những người láng giềng lạc hậu của chúng tôi đã có điện, nước máy, và sự chăm sóc y tế mà họ chưa bao giờ có trước đây. Họ cần phái nhận thức được rằng cuộc sống của họ chưa bao giờ tốt đến vậy. Chắc chắn họ biết ơn vì những gì chúng tôi dành cho họ. Và khi hòa bình được thiết lập, chúng tôi sẽ trả lại phần lớn các lãnh thổ đã chiếm đóng. Nhưng lúc này, mọi thứ trên Đất Israel đều ổn cả. Trên khắp đất nước, người Ả-rập và Do Thái chung sống, bình yên, và sung túc. Chỉ khi đi lính tôi mới hiểu được có điều gì đó không ổn. Sáu tháng sau khi gia nhập lữ đoàn dù ưu tú của Lực lượng Phòng vệ Israel (IDF),(7) tôi được điều động đến chính những thành phố bị chiếm đóng mà mình đã đi qua lúc còn bé 10 năm trước. Giờ thì tôi bị phân công làm những nhiệm vụ bẩn thỉu: kiểm tra, quản thúc tại gia, giải tán biểu tình bằng bạo lực. Điều làm tôi tổn thương nhất là đột nhập vào những ngôi nhà, lôi các chàng trai ra khỏi giường ấm nệm êm đi thẩm vấn lúc nửa đêm. Thứ quái quỷ gì đang xảy ra thế này, tôi tự hỏi. Tại sao tôi lại bảo vệ tổ quốc mình bằng cách hành hạ những thường dân đã bị tước đoạt quyền và tự do? Tại sao Israel của tôi lại chiếm đóng và đàn áp dân tộc khác? Vì vậy, tôi trở thành người phản chiến. Trước tiên, với tư cách một người hoạt động xã hội trẻ tuổi và sau là nhà báo, tôi đã hăng hái đấu tranh chống lại sự chiếm đóng. Trong thập niên 1980, tôi phản đối việc thiết lập các khu định cư trên lãnh thổ Palestine. Thập niên 1990, tôi ủng hộ sự thành lập nhà nước Palestine do Tổ chức Giải phóng Palestine (PLO)(8) lãnh đạo. Trong thập niên đầu tiên của thế kỷ 21, tôi tán thành việc Israel đơn phương rút khỏi Dải Gaza. Nhưng hầu hết các chiến dịch chống lại sự chiếm đóng mà tôi tham gia cuối cùng đều thất bại. Gần nửa thế kỷ sau chuyến đi đầu tiên của gia đình tôi ở Bờ Tây bị chiếm đóng, Bờ Tây vẫn bị chiếm đóng. Như khối u ác tính, chiếm đóng trở thành một phần không tách rời trong sự tồn tại của nhà nước Do Thái. Nó cũng đổng thời trở thành một phần không tách rời trong cuộc đời tôi với tư cách một người Israel. Mặc dù tôi phản dối sự chiếm đóng, nhưng tôi cũng chịu trách nhiệm về sự chiếm đóng này. Tôi không thể phủ nhận sự thật hoặc chạy trốn sự thật là dân tộc mình đã trở thành một dân tộc đi chiếm đóng. Mãi đến vài năm trước, tôi đột nhiên nhận ra rằng nỗi sợ hãi mang tính sinh tồn liên quan đến tương lai dân tộc mình không tách rời tổn thương về đạo đức liên quan đến chính sách chiếm đóng của đất nước mình. Một mặt, Israel là dân tộc duy nhất ở phương Tây đi chiếm đóng dân tộc khác. Mặt khác, Israel là dân tộc duy nhất ở phương Tây bị đe dọa sự tồn tại. Cả sự chiếm đóng lẫn sự đe dọa đều khiến tình trạng của Israel trở nên đặc biệt. Đe dọa và chiếm đóng trở thành hai trụ cột trong tình trạng của chúng tôi. Phần lớn các nhà quan sát và phân tích phủ nhận tính hai mặt này. Những người cánh tả đề cập sự chiếm đóng và không chú ý đến sự đe dọa, trong khi những người cánh hữu chú tâm vào sự đe dọa và bỏ qua sự chiếm đóng. Nhưng sự thật là nếu không kết hợp cả hai yếu tố trong một thế giới quan, thì không thể hiểu hết Israel hay cuộc xung đột Israel-Palestine. Bất kể cách tư duy nào không gắn với hai điểm cốt lõi này, chắc chắn đều không đầy đủ và vô dụng. Chỉ có cách tiếp cận thứ ba mới thực tế, xem xét cả việc đe dọa và chiếm đóng, biết phải trái và nhìn nhận đúng lịch sử Israel. Tôi sinh năm 1957 tại thành phố đại học Rehovot. Cha tôi là nhà khoa học, mẹ là nghệ sĩ, và trong số những người sáng lập ra tổ chức Zion(9) có các cụ của tôi. Giống như phần lớn thanh niên Israel, tôi đi nghĩa vụ quân sự ở tuổi 18, tham gia lực lượng nhảy dù, và khi hoàn thành nghĩa vụ, tôi học triết tại Đại học Hebrew ở Jerusalem, nơi tôi tham gia phong trào hòa bình và sau đó là phong trào nhân quyến. Từ năm 1995, tôi viết cho tờ báo tự do hàng đầu của Israel, Haaretz. Mặc dù tôi luôn ủng hộ hòa bình và ủng hộ giải pháp hai quốc gia,(10) nhưng tôi dần nhận thấy những khiếm khuyết và thành kiến của phong trào hòa bình. Hiểu biết của tôi về sự chiếm đóng và đe dọa khiến tiếng nói của tôi có phần khác với mọi người trên truyền thông. Là người phụ trách chuyên mục, tôi thách thức các giáo điều của cả cánh hữu lẫn cánh tả. Tôi biết rằng không có câu trả lời đơn giản cho Trung Đông, và cũng không có giải pháp tình thế cho mâu thuẫn Israel-Palestine. Tôi nhận ra tình huống của Israel là vô cùng phức tạp, có lẽ thậm chí còn bi thương nữa. Trong thập niên đầu tiên của thế kỷ 21, Israel đã hành động hiệu quả. Khủng bố lắng xuống, công nghệ cao bùng nổ, cuộc sống hằng ngày sôi động. Về mặt kinh tế, Israel đã trở thành mãnh hổ. Để tồn tại, đất nước này đã trở nên mạnh mẽ, đầy sinh lực, sáng tạo và thích hưởng thụ. Nhưng đằng sau ánh sáng rực rỡ của câu chuyện thành công phi thường, lo lắng đang dâng trào. Mọi người bắt đầu lên tiếng hỏi những câu mà suốt đời tôi đã luôn tự hỏi. Giờ không chỉ là chính trị phe tả hay phe hữu nữa. Cũng không chỉ là thế tục đối lập với tôn giáo. Có điều gì đó sâu xa hơn đã xảy ra. Nhiều người Israel không an lòng với Israel mới nổi. Họ tự hỏi liệu mình còn thuộc về quốc gia Do Thái nữa hay không. Họ đã mất niềm tin vào khả năng chịu đựng của Israel. Một số đã lấy hộ chiếu nước ngoài; một số gửi con đi du học. Tầng lớp thượng lưu nhìn thấy một lựa chọn khác bên cạnh lựa chọn Israel. Dù phần lớn người Israel vẫn yêu quê hương và mừng vui với phúc lành của dân tộc, nhưng nhiều người đã mất niềm tin vững chắc vào tương lai đất nước. Khi thập niên thứ hai của thế kỷ 21 bắt đầu, có năm vấn đề khác nhau gây hoài nghi về khát vọng sống tham lam của Israel: quan niệm rằng xung đột Israel-Palestine có thể không giải quyết được trong tương lai gần; lo ngại rằng quyền bá chủ chiến lược khu vực của Israel bị thách thức; e sợ rằng tính hợp pháp của nhà nước Do Thái bị xói mòn; quan ngại rằng xã hội Israel vốn đã biến đổi sâu sắc giờ lại bị phân chia và phân cực, nền tảng dân chủ-tự do của đất nước đang sụp đổ; và nhận thức rằng chính phủ yếu kém của Israel không thể giải quyết triệt để những thách thức nghiêm trọng như chiếm đóng và rạn nứt xã hội. Mỗi vấn đề ở đây đều ẩn chứa một mối đe dọa đáng kể, nhưng ảnh hưởng chung của chúng còn gây ra nỗi sợ hãi khủng khiếp hơn. Nếu hòa bình không khả thi, liệu chúng tôi có chống lại được một xung đột kéo dài một thế hệ khi ưu thế về chiến lược bị đe đọa, tính hợp pháp đang mất dần, bản sắc dần chủ đang rạn nứt, và những mâu thuẫn nội bộ đang chia rẽ chúng tôi? Trong khi vẫn đổi mới, quyến rũ và mạnh mẽ, Israel đã trở thành một quốc gia bị nghi ngờ. Cảm giác lo lắng cứ lơ lửng trên mảnh đất này, như cái bóng lớn của một ngọn núi lửa sắp phun trào. Đây chính là lý do tôi dấn thân vào chuyến đi này. Sáu mươi lăm năm sau khi thành lập, Israel quay lại những câu hỏi chủ chốt. Một trăm lẻ sáu năm sau khi ra đời, chủ nghĩa Zion giờ dang đối mặt với những mâu thuẫn cơ bản của mình. Thách thức giờ đây vượt xa vấn đề chiếm đóng, và củng sâu sắc hơn hẳn vấn đề hòa bình. Điều mà tất cả chúng tôi phải đối mặt là câu hỏi về ba khía cạnh của Israel: Tại sao? Là gì? Sẽ thế nào? Câu hỏi này về Israel không thể trả lời bằng các bài bút chiến. Vì rất phức tạp, nên nó cũng không tự trở thành vấn đề để tranh cãi và phản đề được. Cách giải quyết duy nhất là kể câu chuyện về Israel. Đây chính là điều tôi cố gắng làm trong cuốn sách này. Theo cách riêng và qua lăng kính chủ quan, tôi đã cố gắng nhìn nhận sự tồn tại của chúng tôi trong một tổng thể, theo cách tôi hiểu. Cuốn sách này là cuộc phiêu lưu cá nhân của một người Israel, bối rối trước biến cố lịch sử ngập tràn trên quê hương mình. Đây là một chuyến đi trong không gian và thời gian của một người sinh ra tại Israel, nhằm khám phá câu chuyện rộng lớn của dân tộc mình. Thông qua lịch sử gia đình, lịch sử cá nhân, và các bài phỏng vấn sâu, tôi sẽ cố gắng nói đến câu chuyện rộng hơn và câu hỏi sâu hơn về Israel. Điều gì đã xảy ra trên quê hương tôi trong hơn một thế kỷ, đưa chúng tôi đến nơi mình đang sống? Chúng tôi đã đạt được điều gì ở đây và vấp phải sai lầm nào ở đây, và chúng tôi đang hướng tới đâu? Cảm giác lo âu sâu sắc của tôi có cơ sở không? Nhà nước Do Thái có thật sự lâm nguy không? Có phải người Do Thái chúng tôi đang mắc kẹt trong một bi kịch tuyệt vọng, hay chúng tôi vẫn có thể hồi sinh, tự cứu mình, và lấy lại được đất đai mà chúng tôi vô cùng yêu quý? (1) Atlantis là hòn đảo hư cấu được nói đến trong tác phẩm của triết gia Hy Lạp cổ đại Plato viết khoảng năm 360 trước công nguyên (TCN). Mặc dù sống trong một xã hội văn minh, nhưng con người ở đây trở nên tham lam, nhỏ nhen, suy đồi về đạo đức, nên các vị thần đã nổi giận, dùng lửa và động đất nhấn chìm Atlantis xuống biến sâu. Lưu ý: Toàn bộ chú thích trong sách là của người dịch, trừ các chú thích ghi rõ (BT) là của người biên tập. (2) Chiến tranh diễn ra từ 5-10/6/1967 giữa Israel và các quốc gia Ả-rập lân cận là Ai Cập, Jordan, và Syria. Israel chiến thắng áp đảo (nhờ yếu tố bất ngờ, kế hoạch chiến đấu sáng tạo) giành quyến kiểm soát Dải Gaza, bán đảo Sinai của Ai Cập, Bờ Lây và Đông Jerusalem của Jordan và Cao nguyên Golan của Syria. (3) Còn gọi là Ngày chuộc tội/Ngày lễ sám hối. Là ngày lễ thiêng liêng nhất trong năm của Do Thái giáo. Đế chuộc tội và ăn năn, người Do Thái dành 25 giờ ăn chay, chuyên tâm cầu nguyện và thường xuyên tham gia các nghi lễ ở giáo đường Do Thái. (4) 500 feet tương đương 152,4 m. (5) Trong lịch sử người Do Thái, Ngôi đền Thứ nhất do vua Solomon xây dựng vào khoảng thế kỷ 10 TCN, sau đó bị phá hỏng vào khoảng năm 587 TCN. Ngôi đền thứ hai được xây dựng vào năm 516 TCN và lai bị phá hỏng vào khoảng năm 70 sau CN. Ngôi đền Thứ ba chưa dược xây dựng. Nó vẫn nằm trong mong ước của người Do Thái. (BT) (6) Pompeii, thành phố La Mã cổ đại bị phá hủy và chôn vùi hoàn toan khi núi lửa Vesuvius phun trào năm 79, tình cờ được khám phá năm 1748 (sau 1.700 năm) nham thạch đã xóa sạch mọi sự sống, hơn 2.000 người chết, hơi nóng khủng khiếp khiến cơ thế họ ngừng hoạt động gần như ngay lập tức. (7) Viết tắt của “Israel Defense Forces”. (8) Palestine Liberation Organization, thành lập năm 1964 Hội nghị Thượng đỉnh Ả-rập năm 1974 công nhận PLO là “đại diện hợp pháp và duy nhất của nhân dân Palestine.” Năm 1993, PLO đã công nhận nhà nước Israel và Israel đã công nhận PLO là đại diện hợp pháp của nhân dân Palestine. (9) Zion là một phong trào chính trị ủng hộ sự phát triển nhà nước Israel; đây cũng là tên ngọn đồi phía đông thành phố Jerusalem, từng là trung tâm văn hóa-chính trị cúa người Do Thái dưới thời Vua David. Sau khi Vương quốc Judea thất thủ năm 70, Zion trở thành biểu tượng cho hy vọng phục quốc của người Do Thái. (10) Giải pháp cho cuộc xung đột Israel-Palestine, thành lập hai nhà nước của hai dân tộc: nhà nước Palestine độc lập tồn tại cùng nhả nước Israel ở bờ Tây sông Jordan.   Mời các bạn đón đọc Miền Đất Hứa Của Tôi- Khải Hoàn Và Bi Kịch Của Israel của tác giả Ari Shavit.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Nghệ Thuật Chinh Phục Khách Hàng
Trong Nghệ thuật Chinh Phục Khách Hàng bậc thầy Janelle Barlow và Claus Moller đã giới thiệu một ý tưởng đột phá mang tính cách mạng: Biến những lời phàn nàn, chỉ trích thành một món quà. Thật vậy, lời phàn nàn của khách hàng là thông tin phản hồi quý báu có thể giúp các doanh nghiệp cải thiện chất lượng sản phẩm, nâng cấp dịch vụ, ứng xử của con người và xác định trọng tâm định hướng sản xuất, kinh doanh, thị trường một cách nhanh chóng, hiệu quả và ít tốn kém nhất. “Ấn bản đầu tiên của quyển sách đã là một viên ngọc quý. Phiên bản mới được cập nhật toàn diện này còn tuyệt vời hơn nữa. Những ví dụ mới vừa mang tính chất chỉ dẫn vừa truyền cảm hứng và thực sự hữu ích cho những người làm công tác chăm sóc khách hàng. Tôi tin rằng quyển sách sẽ gây sửng sốt cho bất cứ ai đang nghi ngờ sức mạnh từ việc lắng nghe khách hàng của mình”... *** NHỮNG LỜI KHEN NGỢI DÀNH CHO “NGHỆ THUẬT CHINH PHỤC KHÁCH HÀNG” “Barlow và Moller đã vạch ra lý do tại sao một khách hàng phàn nàn có thể trở thành tài sản quý giá nhất của công ty và hướng dẫn bạn cách giành lại khách hàng, thúc đẩy thêm giao dịch và tích lũy thêm những lời chứng thực thuận lợi. Nếu thành công trong kinh doanh có ý nghĩa quan trọng đối với bạn, bạn cần phải đọc quyển sách này!” Ron Kaufman, Tác giả và nhà sáng lập trường UP Your Service! “Đối với những công ty đang dành ngày càng nhiều tiền vào việc nghiên cứu kỳ vọng của khách hàng, quyển sách này là một làn gió mới mẻ. Quyển sách cũng có thể được đặt tên là: Biến những cảm xúc thông thường thành lợi nhuận.” Paul Clark, Tổng giám đốc, Country Energy, Úc “ Nghệ thuật chinh phục khách hàng cung cấp một phương tiện tuyệt vời để giải thích cách thức một công ty có thể cung cấp dịch vụ hoàn hảo và xử lý lời phàn nàn thông qua những mối quan hệ khách hàng được cải thiện, mà cuối cùng là giúp gia tăng doanh số cũng như cải thiện sự hài lòng của khách hàng.” Thom Ray, Tổng Giám đốc British Telecom “Ngày nay mọi thứ dường như quá phức tạp. Nhưng Barlow và Moller đã chọn một vấn đề gai góc và biến nó thành điều dễ hiểu, không chỉ trong thế giới kinh doanh, mà còn trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta. Tôi sẽ không bao giờ cảm thấy lời phàn nàn có tính hủy hoại nữa.” Tiến sĩ Russ Volckmann, Chủ bút và Biên tập viên, Tạp chí Integral Leadership Review “Trong ngành kinh doanh cửa hàng tiện ích, sau tốc độ giao hàng thì dịch vụ là quan trọng nhất. Quyển sách này đào sâu nghiên cứu những điều kiện cần thiết giúp hoạt động khôi phục dịch vụ diễn ra một cách nhất quán.” Lee Barnes, Chủ tịch Chuỗi Cửa hàng tiện ích Family Fare “Quyển sách này mang lại một sự chuyển đổi thái độ mang tính cảm hứng cho những nhân viên trong ngành dịch vụ, một công thức đột phá tạo ra sự khôi phục dịch vụ khi phải đối mặt với những lời phàn nàn khó khăn, và một sự cải tổ hệ thống quản lý.” Rick Brandon, đồng tác giả quyển Sự tồn tại của Tri thức “Quyển sách này xử lý việc khôi phục dịch vụ như một nghệ thuật. Bài kiểm tra thực sự của một thương hiệu vĩ đại là khả năng tận dụng cơ hội để hình thành mối quan hệ khách hàng mới. Thông qua sự pha trộn kỹ lưỡng khả năng phân tích, tính sáng tạo trong kinh doanh và các ví dụ thực tế, những trang sách này sẽ thuyết phục bạn rằng những lời phàn nàn thực sự là những món quà.” Mike English, Phó Giám đốc Trung tâm Liên lạc Khách hàng, Starwood Hotels & Resorts Worldwide Inc. “Khái niệm trong quyển sách này là một thái độ mà chúng tôi đã áp dụng để bổ sung cho lời hứa thương hiệu của mình tại Royal Plaza ở Scotts, Singapore. Chúng tôi đã gieo mầm cho sự quan trọng của nó vào tất cả các nhân viên để họ thực sự biết ơn sự phản hồi của khách hàng, dù chúng thuận lợi hay bất lợi.” Patrick Garcia Fiat, Tổng giám đốc, Royal Plaza, Scotts, Singapore “Quyển sách này rất sâu sắc. Nó trở lại với những nền tảng cơ bản đang thúc đẩy ngành của chúng tôi. Các tác giả đưa bạn đi qua quá trình từ lúc đề cập đến một trải nghiệm không hay của khách hàng đến lúc biến vị khách đó thành một khách hàng trung thành. Tựa đề quyển sách này không thể đúng hơn được nữa.” Rich Hicks, Giám đốc Nhà hàng Tin Star “Chúng tôi sở hữu một trong những địa điểm hùng vĩ nhất trên thế giới: cầu bộ hành trên không (Sky Walk) ở Grand Canyon West. Và chúng tôi vẫn nhận được những lời phàn nàn. Quyển sách này có thể giúp bất kỳ tổ chức nào đạt được những mục tiêu trải nghiệm của khách hàng. Khái niệm này có tác dụng rất tốt ở nhiều nền văn hóa khác nhau. Ngày nay, điều này trở nên rất quan trọng nhằm tạo nên một đặc trưng thực sự mang tính quốc tế trong dịch vụ mang lại trải nghiệm cho khách hàng.” Waylon Honga, Giám đốc điều hành, Grand Canyon West “Quyển sách này dành cho bất cứ nhà quản lý nào hiểu được rằng những khách hàng thực sự thỏa mãn sẽ mang lại những cơ hội tốt nhất để kiếm thêm nhiều khách hàng khác. Nghệ thuật chinh phục khách hàng là một công cụ mạnh mẽ cần được chia sẻ cho mọi nhân viên trong toàn công ty.” Andy Jorishie, Phó Chủ tịch The Zimmerman Agency “Quyển sách này là một tác phẩm nghệ thuật. Tôi sẽ giới thiệu cho bất cứ ai đang tìm kiếm sự hoàn hảo và học hỏi về hoạt động chăm sóc khách hàng nói chung và xử lý phàn nàn nói riêng.” Omran Al Shansi, Giám đốc Xử lý Phàn nàn, Emirates Telecommunications Corp. “Đây là một quyển sách kỳ diệu với những công cụ và kỹ thuật thực tiễn nhằm đảm bảo tạo ra những trải nghiệm thú vị cho khách hàng và giải quyết tốt ngay cả những lời phàn nàn mang tính thách thức nhất từ phía họ. Nó bao gồm rất nhiều gợi ý nhằm cung cấp dịch vụ khách hàng hoàn hảo ngay cả trong những tình huống khó khăn nhất. Những công cụ này thực sự có hiệu quả, mang tính thực tiễn.” Michael Krumpak, cựu Giám đốc Tiểu ban Đào tạo và Phát triển, Hạ viện Mỹ “Khái niệm ‘Lời Phàn nàn là một Món quà’ chỉ ra sự khác biệt mang tính dài hạn. Chúng tôi tin rằng, là một mạng lưới các ngân hàng, chúng tôi có thể sửa chữa một số lượng lớn các sai sót của chúng tôi từ phản hồi của khách hàng. Chắc chắn chúng tôi sẽ trở nên độc đáo hơn trong cách thức phục vụ khách hàng. Quản lý phàn nàn là một yếu tố then chốt trong chiến lược kinh doanh của chúng tôi.” Andrey Litvinov, Phó Chủ tịch, Life Financial Group, Nga “Thật thú vị khi cuối cùng chủ đề ‘phàn nàn’ cũng được đề cập và thảo luận sâu sắc. Hoạt động kinh doanh của chúng tôi, vốn được dựa trên việc xây dựng quan hệ, đã nhận được lợi ích rất lớn từ những kiến thức sâu sắc được cung cấp trong quyển .” Cliff Miller, Chủ sở hữu M. J. Christensen Diamonds “Triết lý ‘Lời Phàn nàn là một Món quà’ đã mang lại quyền lực cho những nhân viên tiếp xúc khách hàng của chúng tôi trong việc cải thiện và cũng cố quan hệ với khách hàng. Phương pháp tiếp cận bằng sự giao tiếp độc đáo này đối với những dịch vụ sai sót rất có ích cho tổ chức chúng tôi, giúp xây dựng những nhóm nhân viên mạnh hơn và hiệu quả làm việc cao hơn.” Peta Peter, Giám đốc Giáo dục và Đào tạo, Amway Úc và New Zealand. “Quyển sách này là một thành phần vô giá trong bộ công cụ của chúng tôi nhằm tạo ra nền văn hóa dịch vụ khách hàng khác biệt. Nó tập trung vào việc tiếp nhận những lời phàn nàn của khách hàng để tinh chỉnh dịch vụ và thu phục khách hàng trở lại, thay vì xem những lời phàn nàn là những điều tồi tệ cần né tránh.” Muriel Roake, Giám đốc Phát triển Thương hiệu và Tổ chức, Air New Zealand “Tôi luôn là người ủng hộ triết lý xem phàn nàn là quà tặng của Janelle và Claus trong lĩnh vực này nhiều năm qua. Các kênh giao tiếp và sự thông suốt của cách tiếp nhận lời phàn nàn, thông qua blog và phòng chat trực tuyến, đã tạo điều kiện cho cả những nhu cầu thiết yếu hơn trong việc xử lý sự phàn nàn một cách hiệu quả và nhanh chóng.” Nigel Roberts, Phó Chủ tịch Điều hành, The Langham Hotels & Resorts “Dịch vụ khách hàng là một nghịch lý: một doanh nghiệp càng có nhiều sự tương tác với khách hàng, họ càng nhận được nhiều phản hồi ‘tiêu cực’, nhưng đồng thời cũng có nhiều cơ hội để tạo ra những điều ‘tích cực’. Nhiều yếu tố trong quyển đã được Boyd Gaming sử dụng và tỏ ra hữu ích khi chúng tôi tiếp tục xây dựng khả năng cung cấp và giám sát dịch vụ khách hàng cũng như các chương trình phản hồi chủ động.” Brian Shultz, Phó Chủ tịch Tiếp thị, Midwest and South Region, Boyd Gaming Corp. “Đây là một quyển sách về lĩnh vực tâm lý – tâm lý của những khách hàng vẫn còn quan tâm để phàn nàn, tâm lý của những tổ chức có đủ tự tin để tiếp nhận lời phàn nàn và xử lý chúng, và tâm lý của những người trong tổ chức cũng như mức độ tự tin khác nhau trong việc xử lý phàn nàn.” Sanjay Tiwari, Giám đốc Kinh doanh và Dịch vụ Khách hàng, KLM Cargo USA “Nếu bạn muốn biết điều gì thực sự có hiệu quả trong việc quản lý lời phàn nàn, hãy nghiên cứu quyển sách này. Nó bao gồm những ví dụ thực tiễn và những tư duy mới nhất về chủ đề này. Thật hiếm khi có thể tìm thấy một quyển sách như vậy dành cho những người liên quan đến hoạt động xử lý những khách hàng phàn nàn và rút tỉa tốt những nghiên cứu học thuật có giá trị.” Jochen Wirtz, Giáo sư, Đại học quốc gia Singapore, đồng tác giả quyển Tiếp thị Dịch vụ: Con người, Công nghệ, Chiến lược “Phương pháp tiếp cận mới mẻ này đối với sự khôi phục dịch vụ và lòng trung thành của khách hàng đã trở thành một phần trong những từ ngữ thường dùng trong văn phòng Butterfield Bank. Janelle và Claus cung cấp nguồn thực phẩm cho ý tưởng, những ví dụ có thể giảng dạy và giải trí, những hướng dẫn dễ sử dụng nhằm đưa triết lý của họ vào thực tế.” Lori Baker-Lloyd, Phó Chủ tịch phụ trách Phát triển Tổ chức và Nguồn Nhân lực, Ngân hàng N. T. Butterfield & Son, Bermuda Xin dành tặng quyển sách này cho Khổng Tử, người đã thông thái chỉ ra rằng: “Người phạm lỗi mà không biết sửa lỗi là phạm lỗi thêm một lần nữa”. Khổng Tử không biết về lời phàn nàn của những khách hàng hôm nay, nhưng ông đã lý giải một cách thật dễ hiểu rằng tại sao những khách hàng phàn nàn lại là người tặng quà cho ta. Mời các bạn đón đọc Nghệ Thuật Chinh Phục Khách Hàng của tác giả Janelle Barlow & Claus Møller.
Người Mẹ Trinh Trắng
Họ là 3 người bạn gái chơi rất thân với nhau, có những hoài bão, có những ước mơ, đáng lẽ họ sẽ có được một tương lai tốt đẹp như bao nhiêu cô gái bình thường khác. Nhưng...một biến cố xảy đến và họ đã rẽ những ngã rẽ khác nhau. Mỗi người một số phận riêng, một cuộc sống riêng, chỉ có một điểm chung là chẳng ai có thể trở về nơi bắt đầu ... *** Đứa con trai nhỏ mới lên 3 tuổi của tôi từ bên ngoài chạy thẳng vào trong bếp ôm chặt chân tôi. Thằng bé ngước cái mặt nhỏ đẫm nước mắt lên nhìn tôi, giọng nói ngọng nghịu: “Mẹ! Bo bị ngã”. Tôi vội vàng tắt bếp gas, đặt đôi đũa sang một bên, ngồi xổm xuống ôm lấy thằng bé, xót xa hỏi: “Làm sao con bị ngã? Có phải lại chạy theo anh Thắng đá bóng không?”. Thằng bé phụng phịu, nó ra sức lắc đầu: “Không phải Bo chạy theo anh Thắng đâu, mẹ không được mắng Bo.” “Ừ, mẹ không mắng Bo” tôi vỗ mấy cái vào mông nó. “Thế làm sao con ngã?” “Anh Thắng đá bóng vào người con, con ngã.” Thằng bé dùng bàn tay nhỏ quẹt ngang nước mắt trên cái má hồng hồng, tỏ vẻ ấm ức lắm. Điệu bộ đó làm tôi suýt bật cười nhưng vẫn cố nghiêm giọng: “Con không chạy theo anh Thằng thì làm sao anh Thắng đá bóng vào người con được?” Nghe tôi nói thế thì nó khóc òa lên. Tôi phủi hết đất cát bám trên quần áo thằng bé rồi ôm nó vào nhà tắm. “Ngoan! Bo là con trai, không được khóc nhè. Lần sau mà còn chạy theo các anh lớn đi đá bóng là mẹ phạt nghe chưa?” Thằng bé nấc lên một cái, gật gật đầu. Nó rất sợ bị tôi phát hiện ra đi chơi đá bóng với mấy thằng bé lớn hơn trong làng. Con trai tôi rất kỳ lạ, nó không chịu chơi với mấy đứa cùng tuổi mà rất thích chơi với mấy đứa lớn hơn, cũng có thể vì từ lúc nó còn bé xíu thì mấy đứa trẻ trong làng đã hay lôi tha nó đi cùng nên thành quen. Con trai tôi tên thật là Thành Đạt, nó là đứa trẻ rất đáng yêu, thân hình nhỏ tròn xinh, đôi mắt to đen láy lanh lợi, hai cái má mũm mĩm trắng hồng, lại được cái hay cười, khóc chút là quên ngay. Mặc dù ai cũng bảo con trai tôi không có nét giống tôi mấy nhưng tôi chẳng quan tâm, tôi chỉ mỉm cười tự hào, thơm lên cái má búng ra sữa của nó và bảo: “Dù sao nó vẫn là con trai tôi.” Mãi mãi là con trai tôi. Tôi chính là một bà mẹ đơn thân, nhưng tôi chưa bao giờ cảm thấy mặc cảm hay tủi thân. Ngày tôi ôm Bo trở về nhà gặp bố mẹ và nói nó là con trai tôi, bố mẹ tôi đau khổ khóc lóc, thậm chí là muốn đuổi hai mẹ con tôi ra khỏi nhà vì xấu hổ với làng xóm, họ hàng. Tôi cắn răng chịu đựng tất cả những lời trách móc, những ánh mắt khinh bỉ coi thường, những lời dị nghị của hàng xóm xung quanh. Tôi không trách bất kỳ ai, họ có quyền như vậy, không chồng mà có con, là lỗi tại tôi, tôi bất hiếu. Bố mẹ tôi cũng nhiều lần gặng hỏi về cha đứa bé nhưng tôi thà bị mắng thậm tệ chứ quyết không hé răng nửa lời. Lúc ấy, nghị lực duy nhất giúp tôi vượt qua tất cả chính là đứa con trai nhỏ, dù có chuyện gì đi nữa tôi cũng phải nuôi con trai tôi. Và cuối cùng tôi đã thắng, bố mẹ tôi đành đầu hàng trước sự gan lỳ của tôi. Mẹ tôi bảo: “Con dại thì cái mang” nên mẹ đã bao dung cho tôi, dang tay đón nhận đứa cháu ngoại không mong muốn. Gia đình tôi cũng chẳng phải dư giả gì, bố tôi làm việc trong nhà máy lương không được bao nhiêu, mẹ tôi ở nhà làm nông, chỉ đủ tiền nuôi hai chị em tôi ăn học. Cũng may là còn một mảnh đất ông cha để lại nên bố mẹ tôi đồng ý cho hai mẹ con tôi ra ở đó, tự kiếm sống nuôi nhau. Tôi cũng đã hoàn thanh chương trình cao đẳng Y Tế nên thuận tiện xin vào làm trong bệnh viện huyện, lương đủ nuôi sống hai mẹ con. Chớp mắt một cái đã 3 năm, thời gian khó khăn nhất cũng đã qua, họ hàng làng xóm cũng đã chấp nhận mẹ con tôi. Ai cũng yêu quý Bo, khen nó vừa xinh vừa ngoan. Nhiều người con bảo tôi trông không giống phụ nữ đã có con, vẫn còn y như thời con gái, chẳng thay đổi gì. Cũng có người mai mối cho tôi, có cả mẹ tôi, bà muốn tôi lấy chồng để có chỗ dựa sau này, bớt vất vả khi nuôi con một mình nhưng tôi cứ lẩn tránh. Làm sao tôi biết được những người đàn ông đó có thật sự tốt với con trai tôi không, tôi không muốn vì tôi mà thằng bé phải sống theo sắc mặt người khác. Dù sao thì cuộc sống của mẹ con tôi cũng rất tốt, không thiếu thốn gì, cho nên không nhất thiết phải dựa dẫm vào một người đàn ông xa lạ nào đó. Vật lộn với Bo trong nhà tắm ra, người tôi cũng ướt sũng. Thằng bé cười nắc nẻ chạy vòng vòng quanh nhà đùa nghịch để tôi phải đuổi theo sau bắt nó mặc quần áo. “Bo! Đứng lại mặc quần áo đã. Xấu hổ quá đi thôi.” Tôi túm lấy nó kéo lại làm nó cười giòn tan. Thằng Thắng, con nhà anh Huy bên cạnh chạy vào sân nhà tôi gọi to: “Cô Vân ơi! Thằng Bo bị ngã có sao không cô? Tại nó cứ đứng gần chỗ bọn cháu nên mới bị ngã.” Tôi cười, chắc thằng bé sợ tôi trách nên mới sang báo cáo tình hình. Thắng mới học lớp 4, trẻ con nghịch ngợm làm chuyện thường, tôi không quan trọng truyện đó. Vừa mặc áo cho Bo, tôi vừa nói vọng ra: “Em Bo không sao. Lần sau nó còn chạy theo thì Thắng về mách cô nhé!” Con trai tôi thấy Thắng sang thì hớn hở gọi to: “Anh Thắng!” Nó định chạy ra ngoài nhưng tôi đã nhanh tay kéo ngay lại, cau mày nghiêm khắc: “Đến giờ ăn cơm rồi, con biết chưa?” Thắng chào tôi một tiếng rồi chạy về nhà, còn thằng nhóc của tôi thì chạy lon ton vào trong bàn, nhón chân trèo lên ghế, xếp chân ngồi nghiêm chỉnh, mặt ỉu xìu. Tôi chỉ tủm tỉm cười rồi đi vào bếp dọn cơm. Không phải con trai tôi đói hay nó thích ăn cơm gì đâu, nó cũng nghịch ngợm, lười ăn như bao đứa trẻ khác, nhưng sau không biết bao nhiêu lần dọa dẫm, có khi là cả đánh đòn nó mới chịu ngồi im cho tôi đút hết bát cơm đầy.   Mời các bạn đón đọc Người Mẹ Trinh Trắng của tác giả Poulp.
Phong Thủy Sư (Thiên Tài Thần Côn)
Hạ Thược vì cứu một ông lão rơi vào hố băng mà đã trọng sinh về thời thơ ấu. Kiếp này, cô sẽ sống một cuộc sống hoàn toàn khác. Kiếp này, cô quyết định một lần nữa thay đổi vận mệnh của bản thân. Nhưng điều khiến cô bất ngờ chính là làm việc thiện lại có được khả năng đặc biệt - Thiên nhãn Từ đó về sau cô thấy được tương lai, hiện thực và quá khứ. Từ đó trở đi, thương trường xuất hiện thêm một truyền kỳ. Từ đó trở đi, chính giới xuất hiện một nhân vật khó cầu vô cùng thần bí. Từ đó trở đi, giới hắc đạo có quy định riêng, có một người, trong bất kỳ tình huống nào cũng không thể chọc vào người này. Từ đó trở đi, giới huyền học lại có thêm một vị tổ sư. . . . Thân phận này tuy rằng không giống như trong tưởng tượng, nhưng mà, cuộc sống cũng không tệ lắm? *** Hạ Thược vì cứu một ông lão rơi vào hố băng mà đã trọng sinh về thời thơ ấu. Kiếp này, cô sẽ sống một cuộc sống hoàn toàn khác. Kiếp này, cô quyết định một lần nữa thay đổi vận mệnh của bản thân. Nhưng điều khiến cô bất ngờ chính là làm việc thiện lại có được khả năng đặc biệt - Thiên nhãn Từ đó về sau cô thấy được tương lai, hiện thực và quá khứ. Từ đó trở đi, thương trường xuất hiện thêm một truyền kỳ. Từ đó trở đi, chính giới xuất hiện một nhân vật khó cầu vô cùng thần bí. Từ đó trở đi, giới hắc đạo có quy định riêng, có một người, trong bất kỳ tình huống nào cũng không thể chọc vào người này. Từ đó trở đi, giới huyền học lại có thêm một vị tổ sư. . . . Thân phận này tuy rằng không giống như trong tưởng tượng, nhưng mà, cuộc sống cũng không tệ lắm? Mời các bạn đón đọc Phong Thủy Sư (Thiên Tài Thần Côn) của tác giả Phượng Kim.
Marion Mãi Mãi Tuổi 13
Marion, Mãi Mãi Tuổi 13 Cuốn sách gây chấn động nước Pháp về nạn Quấy rối học đường. Quấy rối học đường hay còn đươc gọi là bắt nạt học đường, là một sản phẩm kém văn minh của xã hội. Tháng 5. 2014, Nghiên cứu đánh giá thực trạng bạo lực giới trường học tại Hà Nội với 3.000 học sinh ở 30 trường học ở Hà Nội đã công bố con số 19% học sinh cho rằng đã từng bị quấy rối hoặc bắt nạt. Vấn nạn này được nói đến nhiều trong vài năm gần đây nhưng thực tế đã có từ vài thập kỉ trước. Tuy nhiên, trong một thời gian dài, chúng ta đã xem nhẹ những hành vi này và không thực sự lưu tâm đến các biểu hiện của con trẻ. Khi nhắc tới những vấn nạn học đường, người ta thường nghĩ ngay tới những trận ẩu đả, đánh đấm của lũ học sinh. Tuy nhiên, thực chất đó chỉ là phần nổi của tảng băng chìm. Quấy rối học đường còn là các hành vi bạo lực về thể xác, tinh thần, tình dục, ngôn ngữ và còn vô vàn hình thức khác mà chúng ta chưa biết hết. Dựa trên một câu chuyện có thật tại Pháp, hơn 200 trang sách “Marion, mãi mãi tuổi 13” đã tái hiện lại một câu chuyện đầy hoang mang và phẫn uất về cái chết của một học sinh 13 tuổi trong một vụ án quấy rối học đường. “Marion, mãi mãi tuổi 13” khiến tất cả chúng ta không thể thờ ơ trước vấn nạn này được nữa. *** Gửi Marion   Marion, con gái yêu của mẹ, con đã tự vẫn1[*] ở tuổi 13, vào ngày 13 tháng Hai năm 2013, bằng cách dùng chiếc khăn quàng để tự treo cổ mình ngay trong phòng ngủ. Bên dưới giường, người ta cũng đã tìm thấy chiếc điện thoại di động của con bị treo lơ lửng vào một đầu sợi dây để tượng trưng cho việc cắt đứt mọi lời chửi rủa và đe dọa của những kẻ đã từng tra tấn con ở trường học. Mẹ viết cuốn sách này để tưởng nhớ con, để giãi bày nỗi buồn xa vắng bâng khuâng của mẹ về một khoảng đời trong tương lai mà mẹ con chúng mình sẽ không còn chung sống và chia sẻ cùng nhau nữa. Mẹ viết cuốn sách này để mỗi người đều rút ra những bài học từ cái chết của con. Để giúp các bậc cha mẹ tránh cho con cái họ khỏi trở thành hoặc nạn nhân giống như con, hoặc những tên đao phủ giống như những đứa đã khiến con mông lung lạc hướng. Để cho các cấp có thẩm quyền trong bộ máy giáo dục nổ lực cẩn trọng hơn nữa, nỗ lực lắng nghe và có thiện chí hơn nữa đối với trẻ em khi chúng phải chịu đau đớn. Mẹ viết cuốn sách này để người ta coi nạn quấy rối học đường là một việc quan trọng, cần phải lưu tâm. Mẹ viết cuốn sách này để không còn đứa trẻ nào muốn treo cổ cái điện thoại, lẫn kết thúc cuộc đời của nó nữa. *** 1 Thứ Tư ngày 13 tháng Hai năm 2013 "Chúng ta vậy là đã nhận cái án chung thân rồi"   Con khi ấy đang nằm trên giường ở trên lầu, mẹ đến sờ trán con thì thấy hình như cơn sốt đã hạ rồi. “Có vẻ khá hơn rồi đấy!” - mẹ đã nói thế. Nhưng không, chẳng có gì khá hơn cả. Hôm trước, con cảm thấy không khỏe nên đã xin nghỉ học để về nhà sớm. Bà đã đón con vào tầm 13 giờ 15. Con kêu bị đau họng, mẹ đoán là con bị cảm cúm. Mẹ đã khuyên con nghỉ ngơi trong phòng bố mẹ cho yên tĩnh và uống hai viên thuốc. Buổi tối, hai má con nóng bừng, mẹ lại cho con thêm một viên thuốc nữa. Sau khi dùng bữa tối với cả nhà thì con quay vào giường đi ngủ. Chẳng có gì đáng ngạc nhiên cả khi ta bị mệt. Sáng hôm sau con đã không dậy đúng giờ đi học, mẹ gọi điện đến trường để thông báo với các thầy cô là con bị ốm. Vào tầm 11 giờ, con xuống dưới nhà ăn trưa như thể chẳng có chuyện gì xảy ra. Chẳng ồn ã gì, hệt như thường lệ khi con ngủ dậy. Mẹ sẽ chẳng bao giờ quên được ánh mắt con khi ấy, chiếc áo đen xinh xắn mà con đã mặc hôm ấy, khuôn mặt đáng yêu của con chẳng hé lộ chút nào về những gì con đã trải qua. Các bậc cha mẹ luôn rất ngây thơ khi họ yêu con cái mình. Họ thiếu trí tưởng tượng. Thứ Tư, mẹ nghỉ làm ở cơ quan để ở nhà chăm sóc ba chị em con. Con đã 13 tuổi rồi nên tự xoay xở lấy. Con nghĩ thế và mẹ cũng tin là như vậy. Nhưng còn em gái Clarisse của con, nó mới lên chín tuổi và em trai con, Baptiste, vừa chớm 18 tháng. Mẹ phải đem những túi rác đến khu lọc rác, nhân tiện đem một số quần áo đã quá chật đối với các con đến cho Zahia. Số đồ cũ ấy bao giờ cũng hữu dụng với một người có bốn đứa con như cô ấy. Mẹ lên phòng con để thông báo mẹ sẽ vắng nhà trong khoảng thời gian làm tất cả những công việc ấy và sẽ quay về sớm thôi. Con nằm trên giường, chìm khuất trong bóng tối. Mẹ đã mở cửa cuốn bao ngoài cửa sổ và thở dài nói với con rằng chẳng nên nằm lì trong bóng tối mãi như thế. Đôi mắt con ánh lên vẻ mệt mỏi lẫn buồn ngủ. Mẹ đã đem điện thoại bàn đến bên con và bảo nếu có chuyện gì thì gọi cho mẹ. Và mẹ đã khóa cửa nhà. Thật ngu ngốc! Nỗi lo sợ bị trộm lẻn vào đã choán lấy tâm trí mẹ. Các bà mẹ luôn có thói quen lạ lùng là chỉ nghĩ đến những gì tồi tệ nhất, họ làm mọi việc chỉ để loại bỏ những hoảng loạn ra khỏi đầu. Họ sợ tai nạn trên đường, sợ bệnh tật, sợ đối mặt trực diện với một tên trộm. Nhưng những chuyện ấy vẫn chưa phải là khủng khiếp nhất. Làm sao họ có thể nghĩ đến điều khủng khiếp nhất, đến nỗi đau tóe ra từ sự phi lý nhất trên đời, và sự phi lý ấy đã đẩy con đến chỗ rời khỏi cõi đời này chứ? Điều khủng khiếp nhất trong sự khủng khiếp đã xảy ra vào ngày hôm đó, thứ Tư ngày 13 tháng Hai năm 2013. Mẹ đã tạt qua khu lọc rác thải như dự kiến, rồi đến nhà Zahia, cô ấy ở cách nhà mình chừng mười phút chạy xe. Do đang ăn trưa cùng với các con nên bạn của mẹ đã lấy thêm hai cái đĩa cho em trai và em gái con. Mẹ và cô ấy đã trò chuyện với nhau vẽ những tác hại của Facebook và sự lan tràn của điện thoại di động. Chỉ riêng tháng Giêng, tài khoản của con báo có đến 3.000 tin nhắn SMS! Mẹ vẫn còn hết sức ngỡ ngàng vì điều đó. Bỗng nhiên mẹ nghĩ đến con đang nằm một mình trên giường với những dòng tin nhắn khủng khiếp mà bố mẹ đã tìm thấy trong điện thoại của con chín ngày trước. Bố mẹ đã phải ép con đọc mã số mở máy trong lúc con cứ ghì chặt cái điện thoại bằng hai tay với vẻ mặt ngơ ngác. Bỗng nhiên mẹ cảm thấy cần nói chuyện với con, cần kiểm tra xem mọi chuyện có ổn không. Xem liệu con có bị ngã khi leo từ giường tầng của con xuống? Liệu con có bị trượt chân trong phòng tắm? Điện thoại di động của con không trả lời, điện thoại bàn cũng không. Nỗi kinh hoàng choán lấy mẹ. Lúc ấy vẫn chưa đến 13 giờ, mẹ chạy ào ra xe cùng hai đứa em nhỏ của con. Một linh cảm xấu xâm chiếm tâm trí mẹ. Mẹ vừa lái xe vừa gọi điện thoại như một mụ điên. Mẹ để mặc các em trong chiếc xe vẫn còn đang nổ máy ngay trước nhà và chạy nhanh đến cửa. Cửa vẫn được khóa cẩn thận đúng như lúc mẹ đi, điều ấy đã trấn an mẹ. Mẹ hét lên gọi con ngay khi vừa bước vào nhà. Chỉ có sự yên lặng đáp lại. Mẹ chạy nhanh lên cầu thang. Con không ở trong nhà tắm. Cửa phòng con đóng chặt, có gì đó chèn cửa ngăn không cho người vào. Mẹ nghĩ là con đang ngồi co quắp đằng sau cánh cửa để không cho mẹ vào lãnh địa của con. Mẹ đẩy mạnh hơn, thì ra là chiếc ghế của con đã chặn cửa lại. Giây phút đó kéo dài như bất tận. Đẩy nữa, đẩy mạnh, khai thông lối vào... Và mẹ đã nhìn thấy con. Miệng hét váng lên, nước mắt đầm đìa, mẹ bám chặt lấy con, cố gắng nâng con lên để cổ con đỡ bị thít chặt. Không thể thế được! Không thể thế! Mẹ không sao tự gỡ cho con được. Mẹ tìm thấy kéo trong phòng tắm, cắt đứt cái khăn quàng cổ đang khiến con nghẹt thở làm con ngã xuống sàn. Mẹ tát mạnh vào má để đánh thức con, con có vẻ vẫn còn ý thức. Hà hơi tiếp sức. Gọi cấp cứu khẩn cấp, số 18, nhanh lên. Các nhân viên cấp cứu nói rằng họ đang đi về hướng Massy. Không, ở Vaugrigneuse cơ – mẹ gào, mẹ khóc, mẹ ngạt thở. Mẹ thực hiện mát-xa tim mạch cho con hệt như họ hướng dẫn qua điện thoại. Con đã nôn được. Mẹ phải đặt con theo thế nằm nghiêng sang một bên trong vài khắc, rồi lại bắt đầu làm tiếp. Mát-xa, mát-xa nữa, rồi lặp lại lần nữa, tỉnh lại đi con ơi, Marion, mẹ xin con đấy. Em trai và em gái con vẫn đang ở một mình trong chiếc xe còn nổ máy, những người lính cứu hỏa không tìm thấy đường. Mát-xa, mát-xa, mát-xa. Nhanh lên, báo cho bố con biết, bố vẫn đang đi làm. Nói với bố rằng có chuyện rất nghiêm trọng xảy ra, bố phải về nhà ngay. Một người lính cứu hỏa ló đầu vào. Ông ta ra lệnh cho mẹ phải đi xích con chó nhà ta lại, con Vanille ấy. Mẹ đã gọi cho gia đình, người thân, gọi cho cô bạn thân nhất của mẹ. Zahia đã rất lo lắng và đến ngay để xem có chuyện gì xảy ra. Cô ấy đón Baptiste còn cô bạn Myriam của mẹ thì dẫn Clarisse đi. “Chị Marion bị choáng một chút” – mẹ đã giải thích cho em gái con như thế. Những hiến binh đã có mặt, cả ông thị trưởng thành phố cũng tới. Mẹ đã gào thét, nguyền rủa, sỉ vả mình đến hụt hơi. Mẹ lẽ ra không bao giờ nên để con ở nhà một mình. Mẹ lẽ ra không bao giờ nên đến nhà Zahia. Mẹ lẽ ra không nên để cô ấy bày thêm đĩa ăn cho Clarisse và Baptiste. Mẹ lẽ ra không nên ngồi tán phét với cô ấy. Mẹ lẽ ra nên ôm con trong vòng tay mình và ru dỗ con cho đến tận lúc những ý tưởng đen tối trong đầu con bay đi hết. Sự tự kết tội cứ bủa vây lấy mẹ. Tại sao mẹ lại đi chứ? Tại sao mẹ lại để con một mình? Tại sao mẹ lại không nhìn thây có chuyện gì bất thường chứ? Tại sao con lại không nói gì với mẹ? Tại sao lại là con, tại sao lại là mẹ, tại sao lại là chúng mình chứ? Bố con đã về đến nhà. Vào lúc 14 giờ 30, người ta thông báo với bố mẹ rằng con đã rời bỏ thế giới này mà đi rồi. “Có lá thư nào không?” Không, chẳng có gì cả, những hiến binh trả lời chắc chắn. Bố mẹ quá choáng váng, bàng hoàng, như thể sợi dây nối buộc chúng ta với nhau trong thực tại đã bị cắt đứt đột ngột vậy. Đây chỉ có thể là một cơn ác mộng, một trong những bộ phim tồi tệ nhất mà trong đó người ta để mặc mình bị nhấn chìm hoặc nuốt chửng. Bạn bè của gia đình đến thăm hỏi, chuẩn bị đồ ăn, giặt giũ quần áo, giúp đỡ mọi việc trong khi bố mẹ vẫn đang mắc kẹt trong trạng thái đờ đẫn không phân định được ranh giới giữa cuộc sống trước đây và cuộc sống hiện tại. Cuộc sống cầm chừng. Cuộc sống bị tản mạn điểm xuyết bởi những nỗi buồn sầu lắng bâng khuâng. Cuộc sống mà không còn có con nữa. Cuộc sống với bốn người. Cuộc sống phải xây dựng lại. Cuộc sống mà bố mẹ sẽ cố gắng sao cho nó thật xứng đáng với Clarisse, với Baptise. Ừ, đương nhiên phải thế rồi. Nhưng cuộc sống không có con, Marion ạ. Cuộc sống không có con. Bố mẹ và các em vậy là đã nhận cái án chung thân rồi. Mời các bạn đón đọc Marion Mãi Mãi Tuổi 13 của tác giả Nora Fraisse.