Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Nghệ Thuật Chọn Lựa

Trong cuốn Nghệ thuật chọn lựa, giáo sư đại học Columbia, Sheena Iyengar, một chuyên gia hàng đầu về chọn lựa, đặt mình vào nhiệm vụ nặng nề đó là giúp chúng ta trở thành những người chọn lựa sáng suốt hơn. Cô đã nêu ra nhiều câu hỏi đầy thú vị: Khao khát lựa chọn là bẩm sinh hay được tạo nên bởi văn hóa? Tại sao đôi khi chúng ta chọn lựa những điều ngược lại với sở thích của cá nhân? Chúng ta thực sự có bao nhiêu quyền năng đối với những chọn lựa của mình? Cuối cùng, cô đưa ra những câu trả lời bất ngờ và rất sâu sắc, từ nghiên cứu nghiêm túc, bài bản đã được trao giải thưởng của cô. Trong cuốn sách này, bạn sẽ được học về mối quan hệ phức tạp giữa lựa chọn và tự do, và tại sao hai thứ này lại thường không song hành với nhau. Bạn sẽ thấy rằng quá nhiều lựa chọn có thể áp đảo chúng ta, dẫn tới những kinh nghiệm không lấy gì làm dễ chịu, từ  “tội lỗi Tivo” do quá nhiều chương trình TV trong khi không thể xem hết tới sự bối rối trước hàng loạt kế hoạch bảo hiểm sức khỏe. Có lẽ điều quan trọng nhất, bạn sẽ khám phá ra lựa chọn của bạn - cả điều nhỏ nhặt bình thường cho tới những quyết định quan trọng - được hình thành nên bởi rất nhiều tác động khác nhau ra sao, cả hữu hình lẫn vô hình. Tác phẩm đặc sắc này soi rọi những niềm vui và thách thức của sự chọn lựa, cho chúng ta thấy cách chúng ta xây dựng nên cuộc sống của mình ra sao, qua từng lựa chọn. Sheena Iyengar là giáo sư của Trường Kinh doanh Columbia, thuộc Đại học Columbia, đồng thời được bổ nhiệm vào Khoa Tâm lý học. Cô được xem là một trong những chuyên gia nghiên cứu về lựa chọn hàng đầu thế giới, từng nhận được rất nhiều bằng danh dự, nổi tiếng nhất là Giải thưởng Tổng thống dành cho các Khoa học gia và Kỹ sư khởi đầu sự nghiệp (Presidental Early Career Award) vào năm 2002. Công trình nghiên cứu của cô thường xuyên được khen ngợi trên các tờ báo nổi tiếng như Thời báo New York, Tạp chí Phố Wall, tạp chí Fortune, và tạp chí Times cũng như trong các quyển sách bán chạy như Blink (Trong chớp mắt) của Malcolm Gladwell, The paradox of choice (Nghịch lý của chọn lựa) của Barry Schwart. *** Quá khứ là khúc dạo đầu Mọi sự đều có nguồn cơn - Joseph Campbell   Tôi sinh ra ở Toronto. Mẹ tôi sinh non một tháng giữa lúc cơn bão bao phủ thành phố dưới tuyết lạnh và một bầu không khí câm lặng. Sự đột ngột và điều kiện thời tiết nhập nhoạng vào lúc tôi ra đời là những điềm gở dù rằng khi ấy chẳng ai để ý đến chúng. Mẹ tôi vừa mới di cư từ Ấn Độ sang, bà là người thuộc về cả hai thế giới và bà đã truyền sang tôi tính cách của một người thuộc nhiều nền văn hóa [1] . Bố tôi đang trên đường sang Canada, nhưng ông không đến kịp; việc ông vắng mặt lúc tôi ra đời là dấu hiệu của sự vắng mặt lâu hơn sau này. Ngẫm lại, tôi nhận ra mọi nẻo đời mình đã được định sẵn ngay thời điểm tôi chào đời. Dù là những vì tinh tú trên trời hay chỉ là hòn đá cuội bên đường, dù do bàn tay của Chúa trời hay bởi thế lực vô hình, thì số mệnh đã được định đoạt và mọi chuyện sau này của tôi chỉ để xác nhận điều này mà thôi. Đó là một câu chuyện. Còn đây là câu chuyện khác. Bạn chẳng biết được đâu. Đó là cuộc đời kiểu đồ chơi “chú hề trong hộp” (jack-in-the-box): Bạn thận trọng mở nó, từng hộp một, ấy thế mà mọi thứ vẫn bung xổ ra. Tôi bước vào thế giới này như thế - thật đột ngột - sớm một tháng so với dự tính. Bố tôi thậm chí không kịp có mặt, ông vẫn còn ở Ấn Độ, nơi mẹ tôi vẫn hằng nghĩ rằng bà cũng ở đó. Ấy thế mà không hiểu sao rốt cuộc bà ẵm tôi trên tay ở Toronto, và bên ngoài cửa sổ, bà có thể nhìn thấy tuyết đang bị cuốn đi. Giống những bông tuyết ấy, chúng tôi trôi dạt đến nhiều nơi khác nữa: Flushing, Queens rồi đến Elmwood Park, bang New Jersey. Tôi lớn lên trong cộng đồng dân di cư người Sikh, những người cũng giống như bố mẹ tôi, đã rời hẳn Ấn Độ nhưng vẫn mang nó theo mình. Và thế là tôi được nuôi nấng trên một đất nước trong lòng đất nước khác, bởi vì bố mẹ tôi luôn cố gắng lập lại cuộc sống họ vẫn hằng quen thuộc. Cứ mỗi tuần ba ngày, bố mẹ dẫn tôi đến gurudwara , một đền thờ, tại đó tôi ngồi ở phía bên phải cùng những người đàn bà, trong khi đám đàn ông túm tụm mé bên trái. Theo tín điều của đạo Sikh, tôi để tóc dài và không được cắt tóc, tượng trưng cho sự sáng tạo hoàn hảo của Chúa trời. Ở cổ tay phải tôi đeo kara , một loại vòng tay bằng thép, tượng trưng cho sự vững tin và ngoan đạo và đó cũng chính là lời răn đe rằng bất kể tôi làm gì cũng đều diễn ra dưới ánh mắt trông chừng của Chúa trời. Và trong mọi lúc, kể cả khi tắm, tôi phải mặc kachchha , một loại đồ lót gần giống như quần lót boxers, biểu hiện của sự kiềm chế dục vọng. Đây chỉ là một trong vô số phép tắc mà tôi phải theo, mọi người theo đạo Sikh đều thế, và những gì mà đạo Sikh không ra lệnh thì do bố mẹ tôi quyết định. Điều này có vẻ như tốt cho bản thân tôi, nhưng cuộc sống luôn có cách chọc thủng các kế hoạch của bạn hay các kế hoạch người khác vạch ra cho bạn. Đến khi chập chững, tôi luôn va vào mọi thứ, và thoạt đầu bố mẹ cứ nghĩ tôi chỉ là một con bé hết sức vụng về. Nhưng một chiếc đồng hồ tính tiền đỗ xe hẳn phải đủ lớn để né tránh chứ? Và tại sao tôi lại cần người khác nhắc nhở thường xuyên phải cẩn thận mỗi khi đi đứng? Đến khi rõ ra tôi không phải là một con bé vụng về thông thường nữa, tôi được đưa đến một chuyên gia thị lực tại bệnh viện Các tín đồ Columbia. Ông ta nhanh chóng giải đáp điều bí ẩn: tôi bị mắc dạng hiếm gặp của chứng viêm võng mạc sắc tố (retinitis pigmentosa), một chứng bệnh di truyền về thoái hóa võng mạc, và thị lực của tôi chỉ là 20/400. Trước khi vào trung học, tôi đã mù hẳn, chỉ còn nhận biết là có ánh sáng mà thôi. Tôi cho rằng điều bất ngờ xảy ra hôm nay giúp ta sẵn sàng cho những bất ngờ sắp tới. Đương đầu với mù lòa hẳn đã giúp tôi kiên cường hơn. (Hay tôi có thể đương đầu tốt do bẩm sinh tôi đã kiên cường?) Thế nhưng, dù có chuẩn bị kỹ đến đâu, chúng ta vẫn có thể phải hứng chịu nỗi đau quặn lòng. Bố mất năm tôi 13 tuổi. Sáng đó, ông thả mẹ tôi xuống chỗ làm ở Harlem và hứa sẽ đi gặp bác sĩ để khám cái chân đau và những vấn đề hô hấp mà ông đang mắc phải. Tuy nhiên, tại phòng khám bệnh, do nhầm lịch hẹn nên chẳng ai đến khám cho ông khi đó. Bực bội vì chuyện này - và sẵn đang bị stress từ những chuyện khác - ông hét mắng, lao ra khỏi phòng khám và nện chân thình thịch xuống vỉa hè cho đến khi ông gục xuống trước một quán bar. Nhân viên pha chế của quán đã kéo ông vào bên trong và gọi xe cứu thương. Cuối cùng thì bố tôi cũng được đưa đến bệnh viện, nhưng ông không sống nổi vì lên cơn đau tim nhiều lần trên đường đến đó. Chuyện này không có ý nói rằng cuộc đời chúng ta chỉ được định hướng bởi những sự kiện ngẫu nhiên, hú họa và chẳng mấy dễ chịu, nhưng có vẻ như, bất chấp kết quả ra sao, “chiếc xe cuộc đời” vẫn tiến vào vùng đất phần lớn chưa có trên bản đồ. Bạn có thể điều khiển chiếc xe đó được đến đâu khi mà tầm nhìn chỉ có chừng ấy và thời tiết lại thay đổi còn nhanh hơn việc bạn có thể kịp thốt lên mấy tiếng “Bất ngờ quá!”? ........................................ Hượm đã. Tôi vẫn còn một câu chuyện khác để kể cho bạn. Và mặc dù đây là câu chuyện về tôi, nhưng một lần nữa tôi ngờ rằng lần này bạn cũng sẽ thấy chính mình trong đó. Năm 1971, bố mẹ tôi di cư từ Ấn Độ sang Mỹ theo ngả Canada. Như nhiều người đi trước, khi đặt chân lên vùng đất mới và cuộc đời mới này, họ đi tìm một “giấc mơ Mỹ”. Họ sớm phát hiện ra rằng việc theo đuổi giấc mơ đó dẫn đến nhiều thách thức gian khổ, nhưng họ vẫn bền chí. Tôi được sinh ra trong giấc mơ đó, và tôi cho rằng mình hiểu rõ nó hơn bố mẹ vì tôi thông thạo văn hóa Mỹ hơn. Cụ thể tôi nhận thức được rằng thứ tuyệt đẹp tỏa sáng ở trung tâm của giấc mơ này chính là sự lựa chọn - sáng đến nỗi bạn vẫn có thể thấy được nó ngay cả khi bạn, cũng giống như tôi, có mù lòa đi nữa. Bố mẹ tôi đã chọn đến đất nước này, nhưng họ cũng đã chọn việc giữ lại càng nhiều càng tốt những điều liên quan đến đất nước Ấn Độ. Họ sống cùng những người Sikh khác, tuân theo giáo lý của đạo và dạy cho tôi ý nghĩa của sự phục tùng. Ăn gì, mặc gì, học gì và sau này là làm việc ở đâu, kết hôn với ai - tôi đều phải theo phép tắc của người Sikh và ý nguyện của gia đình. Thế nhưng tôi được học ở trường rằng tự quyết định mọi việc cho chính mình không chỉ là điều hợp lẽ tự nhiên mà còn là điều đáng khao khát nữa. Đây chẳng phải là vấn đề liên quan đến nền tảng văn hóa, cá tính hay khả năng; đơn giản đó là sự thật và lẽ phải. Nói cách khác, với một cô gái mù người Sikh bị lệ thuộc vào quá nhiều điều cấm đoán, đây là một tư tưởng hết sức mạnh mẽ. Tôi có thể nghĩ đến đời mình kiểu như định mệnh đã an bài, như thế có lẽ đúng ý với bố mẹ hơn. Hay tôi có thể nghĩ đến nó như một chuỗi tai họa ngoài tầm kiểm soát, đó cũng là một cách lý giải cho sự mù lòa của tôi và cái chết của bố. Tuy nhiên, có vẻ như tình hình sẽ hứa hẹn hơn nếu tôi nghĩ rằng cuộc đời là một chuỗi những lựa chọn, là những điều vẫn còn có thể xảy ra, và là những việc mà tôi có thể biến thành hiện thực. Nhiều người trong số chúng ta nghĩ đến và kể lại câu chuyện của mình chỉ bằng loại ngôn ngữ mà chúng ta đã lựa chọn. Đó hẳn nhiên là ngôn ngữ chung của nước Mỹ, và việc dùng ngôn ngữ này đã gia tăng nhanh chóng ở phần lớn các nơi khác trên thế giới. Chúng ta có lẽ dễ chấp nhận những câu chuyện của người kia hơn khi chúng được kể bằng loại ngôn ngữ này, và như hy vọng của tôi sẽ được trình bày trong quyển sách, “lựa chọn để nói” (speaking choice) mang lại nhiều lợi ích. Nhưng tôi cũng hy vọng sẽ khám phá ra được nhiều nẻo đường khác mà trong đó chúng ta sống và kể lại câu chuyện của mình, hình thành nên những câu chuyện kể phức tạp và mang nhiều sắc thái hơn những ngả rẽ thô thiển của Số phận và Cơ hội mà tôi trình bày ở trên. ........................................ Bài học cuộc đời về sự lựa chọn mà tôi có được từ thuở bé dần dần trở thành những kiến thức hàn lâm khi tôi vào đại học. Tại Đại học Pennsylvania, tôi đã nghiên cứu nhiều nhóm tôn giáo khác nhau để tìm hiểu tôn giáo ảnh hưởng đến nhân sinh quan của con người như thế nào. Nghiên cứu này cho thấy các quan điểm về lựa chọn rất khác nhau, rằng các trải nghiệm của tôi trong vai trò là một người Sikh và một người Mỹ cũng chỉ cho phép tôi biết đến một nhóm nhỏ trong số đó. Sau này, khi là nghiên cứu sinh tiến sĩ khoa tâm lý xã hội tại Đại học Stanford, tôi đã so sánh sự hình thành và thực tiễn của lựa chọn giữa các nền văn hóa. Tôi nghiên cứu sự khác biệt về văn hóa và cả những yếu tố quen thuộc ảnh hưởng đến lựa chọn hàng ngày của chúng ta. Đây chính là trọng tâm của sự nghiệp nghiên cứu của tôi trong 15 năm qua. Khái niệm “lựa chọn” bao hàm quá nhiều ý nghĩa khác nhau và có quá nhiều hướng khác nhau để nghiên cứu về chúng, cho nên tôi không thể nào nêu lên đầy đủ trong một quyển sách được. Tôi chỉ nhắm đến việc khám phá những khía cạnh tôi nhận thấy đáng suy nghĩ và có liên quan nhiều nhất đến cách sống của chúng ta. Quyển sách này được đặt trên cơ sở tâm lý học, nhưng tôi cũng viện đến nhiều lĩnh vực và chuyên môn khác, bao gồm kinh doanh, kinh tế học, sinh học, triết học, nghiên cứu văn hóa, chính sách công và y tế. Với cách làm như vậy, tôi hy vọng thể hiện được hết mức có thể các quan điểm và đem ra bàn luận những quan niệm mà chúng ta đã biết về vai trò và thực tiễn của lựa chọn trong cuộc sống. Mỗi chương trong bảy chương sau sẽ nhìn nhận lựa chọn ở một lợi điểm khác nhau và giải quyết nhiều câu hỏi khác nhau về cách mà lựa chọn tác động đến cuộc sống của chúng ta. Vì sao lựa chọn lại có sức mạnh như vậy và sức mạnh này đến từ đâu? Có phải tất cả chúng ta đều chọn lựa theo cùng một cách? Mối liên quan giữa cách chúng ta chọn lựa và địa vị của chúng ta là như thế nào? Vì sao chúng ta lại thường xuyên thất vọng bởi những lựa chọn của mình, và chúng ta làm thế nào để tận dụng công cụ lựa chọn một cách hiệu quả nhất? Chúng ta kiểm soát lựa chọn hàng ngày của mình nhiều đến đâu? Chúng ta sẽ chọn lựa ra sao nếu quyền lựa chọn của mình gần như không có giới hạn? Chúng ta có nên để người khác chọn lựa thay mình hay không, và nếu có thì đó là ai và vì sao? Dù bạn có đồng ý với các quan điểm, gợi ý và kết luận của tôi hay không - và tôi dám chắc là không phải lúc nào chúng ta cũng đồng ý với nhau đâu - thì chỉ với quá trình tìm hiểu về những vấn đề này cũng có thể giúp bạn có được những quyết định sâu sắc hơn. Lựa chọn, từ việc nhỏ nhặt cho đến một sự kiện thay đổi cuộc đời, cả lúc hiện hữu lẫn khi vắng mặt, là một phần không thể tách rời của các câu chuyện về cuộc đời của chúng ta. Khi bạn đọc quyển sách này, tôi hy vọng bạn có thể thấu hiểu chính bản thân mình, cuộc đời mình, rằng mọi sự đã bắt đầu như thế nào và nó sẽ hướng về đâu. [1] Nguyên văn “multiple identity”.   *** SỐNG SÓT   Bạn sẽ làm gì nào? Nếu bạn bị bỏ rơi ngoài biển trên một chiếc phao nhỏ hay kẹt lại trên núi với chiếc chân gãy hay nói chung gặp trở ngại theo kiểu “bơi ngược dòng không mái chèo” - như mọi người thường nói - thì bạn nghĩ mình sẽ làm gì? Bạn sẽ bơi được trong bao lâu rồi mới xuôi tay? Bạn có thể nuôi hy vọng trong bao lâu? Chúng tôi đưa ra những câu hỏi này, sau khi dùng bữa, trong những lúc tiệc tùng họp mặt, vào những chiều Chủ nhật nhàn rỗi, chẳng phải để tìm vài mẹo vặt hòng sống sót mà vì chúng tôi bị mê hoặc bởi sức chịu đựng tối đa và khả năng ứng phó của chúng ta khi lâm vào tình cảnh cực kỳ khó khăn mà lại không hề được chuẩn bị hoặc không lường trước được. Chúng tôi muốn biết trong số chúng ta, ai sẽ còn sống sót để kể lại câu chuyện? Ví dụ như trường hợp của Steven Callahan. Vào ngày 5 tháng 2 năm 1982, khoảng 800 dặm phía Tây quần đảo Canaria [3] , thuyền của ông, chiếc Napoleon Solo, bị bão đánh lật úp. Callahan, khi đó 30 tuổi, nhận ra chỉ còn mình ông trơ trọi lênh đênh trên biển với một chiếc phao rò rỉ cùng vài nguồn dự trữ ít ỏi. Ông hứng nước mưa để uống và tự làm lao đâm cá. Ông ăn hàu và thỉnh thoảng bắt được những con chim sà xuống ăn phần thịt hàu thừa. Để giữ mình tỉnh táo, ông ghi lại những gì đã trải qua và tập yoga mỗi khi cơ thể yếu ớt của ông cho phép. Còn lại là, chờ đợi và trôi dạt về phía Tây. Bảy mươi sáu ngày sau, ngày 21 tháng 4, một chiếc tàu đã phát hiện ra Callahan ở ngoài khơi miền duyên hải quần đảo Guadeloupe [4] . Thậm chí cho đến ngày nay, ông là một trong số ít ỏi những người cầm cự được trên biển một mình trong hơn một tháng. Không chút nghi ngờ rằng Callahan - một con sói biển - đã nắm vững những kỹ năng đi biển hết sức quan trọng để sống sót, nhưng liệu chỉ với những kỹ năng này thì có đủ để cứu sống ông hay không? Trong cuốn sách của mình, Lênh đênh: Bảy mươi sáu Ngày Lưu lạc trên Biển (Adrift: Seventy-six Days Lost at Sea) ông miêu tả tâm trạng của mình không lâu sau khi xảy ra thảm họa như sau: Quanh tôi lởn vởn mảnh vụn của chiếc Solo . Các thiết bị của tôi được tuyệt đối an toàn, những hệ thống quan trọng nhất vẫn đang hoạt động, công việc ưu tiên trong ngày đã định ra, thứ tự ưu tiên không có gì phải bàn cãi. Dù thế nào chăng nữa, tôi vẫn phải nén lại những nỗi lo lắng, đau đớn, sợ hãi đang trỗi dậy. Tôi là thuyền trưởng của chiếc tàu bé xíu giữa những cơn sóng đầy phản trắc. Tôi đã thoát được trạng thái bấn loạn sau khi mất chiếc Solo và sau cùng cũng đã có nước uống và thức ăn. Tôi vượt qua được cái chết mười mươi và giờ đây tôi đứng trước một lựa chọn: tự mình hướng đến một cuộc sống mới hoặc là đầu hàng và tự nhìn mình chết dần. Tôi chọn cách chiến đấu đến cùng. Callahan đã hình dung lại tình cảnh của mình, dẫu rằng cực kỳ tồi tệ, qua những lựa chọn. Đại dương mênh mông, bốn bề thăm thẳm. Ông chẳng thấy gì khác ngoài một mặt biển xanh bất tận, ẩn chứa bên dưới nhiều nỗi lo sợ và hiểm họa bất chợt. Tuy nhiên, trong tiếng sóng vỗ bập bềnh và tiếng gió rít ông không nghe thấy lời phán quyết phải chết mà thay vào đó là câu hỏi: “Có muốn sống hay không?” Khả năng nghe được câu hỏi đó và trả lời bằng một câu khẳng định - để đòi lại cho mình sự lựa chọn mà dường như hoàn cảnh đã tước bỏ trước đó - có thể là thứ đã giúp ông sống sót. Lần tới, nếu ai đó hỏi rằng “Bạn sẽ làm gì nào?”, bạn có thể trích một trang từ quyển sách của Callahan và trả lời, “Tôi sẽ chọn lựa.” Một người sống sót nổi tiếng khác, Joe Simpson, suýt chết khi leo xuống từ một ngọn núi trong số những đỉnh núi băng nằm trên lãnh thổ Peru của dãy Andes [5] . Sau khi bị ngã gãy chân, ông không thể bước đi được, vì thế người bạn cùng leo núi, Simon Yates đã cố gắng dùng dây thừng để hạ ông xuống nơi an toàn. Do không thể nhìn và nghe thấy Simpson nên khi Yates vô tình hạ ông xuống một gờ đá, Simpson không thể giữ chắc được và ông cũng không thể leo ngược lên được. Giờ đây, Yates phải gánh chịu toàn bộ trọng lượng của Simpson; sớm muộn gì, ông (Yates) cũng không chịu nổi và cả hai sẽ rơi xuống chết. Sau cùng, nhận thấy không còn cách nào khác, Yate cắt sợi thừng, và đinh ninh rằng ông đã kết án tử hình bạn mình. Những gì xảy ra sau đó thật lạ thường: Simpson đã rơi xuống ngay trên rìa của một khe băng, trong vài ngày kế tiếp ông đã bò năm dặm xuyên qua một con sông băng và đến được nơi cắm trại ngay trước khi Yates chuẩn bị bỏ đi. Trong cuốn “Chạm cõi hư không” (Touching the Void) kể về tai nạn này, Simpson viết: Thôi thúc từ bỏ không leo xuống nữa là một điều nhục nhã, không thể chịu đựng được. Tôi không mường tượng được có gì bên dưới nhưng tôi chắc chắn hai điều: Simon đã bỏ đi và sẽ không quay lại. Nghĩa là cứ nằm trên mỏm băng này thì đời tôi thế là chấm dứt. Phía trên không còn lối thoát, và buông mình sang mé bên kia thì chẳng khác nào là một lời mời mọc chấm dứt nhanh chóng mọi chuyện này. Tôi đã bị cám dỗ bởi điều đó, nhưng thậm chí ngay trong cơn tuyệt vọng, tôi thấy rằng mình không đủ can đảm để tự kết liễu cuộc đời. Còn rất lâu mới đến lúc giá rét và sự kiệt sức đánh quỵ tôi trên mỏm băng này, và nghĩ đến việc phải một mình nằm chờ điều đó đến và sẽ loạn trí bởi thời gian quá lâu như vậy đã buộc tôi có lựa chọn này: tụt xuống cho đến khi có thể tìm lối thoát hoặc là chết giữa đường. Tôi thà đi gặp cái chết còn hơn để nó tìm đến mình. Giờ thì chẳng còn đường lùi, dù trong tôi đang gào lên là hãy từ bỏ đi. Với những người có ý chí sắt đá như Callahan và Simpson, việc họ có sống sót hay không chỉ phụ thuộc vào lựa chọn của họ mà thôi. Và như Simpson đã trình bày cụ thể, lựa chọn là một mệnh lệnh chứ không phải là cơ hội; bạn có thể lãng phí cơ hội, nhưng gần như không thể chống lại mệnh lệnh. Dù phần lớn chúng ta sẽ chẳng bao giờ trải qua những hoàn cảnh cực kỳ khắc nghiệt như trên (hy vọng là vậy), thế nhưng hàng ngày chúng ta vẫn phải đối diện với những mệnh lệnh của bản thân, buộc mình phải chọn lựa. Chúng ta nên hành động hay nên dừng lại và quan sát? Bình tĩnh chấp nhận bất kể việc gì xảy ra với mình, hay gan lì theo đuổi những mục tiêu mà mình tự đặt ra? Chúng ta đo cuộc đời mình bằng nhiều thước đo khác nhau: là tháng năm, là những sự kiện lớn, là những thành tựu. Chúng ta cũng có thể đo cuộc đời bằng những lựa chọn mà chúng ta đã thực hiện. Tổng hợp toàn bộ những lựa chọn này mang lại cho chúng ta nơi sinh sống và địa vị xã hội hiện tại, bất kể ta là ai, ta ở đâu. Khi nhìn cuộc đời qua lăng kính này, rõ ràng sự lựa chọn là một nguồn lực vô cùng mạnh mẽ, một yếu tố đóng vai trò quyết định cách sống của chúng ta. Nhưng sức mạnh của sự lựa chọn bắt nguồn từ đâu, và khả năng chúng ta có thể tận dụng triệt để nó ra sao? Mời các bạn đón đọc Nghệ Thuật Chọn Lựa của tác giả Sheena Iyengar.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Nguyên Lý 80/20 - Bí Quyết Làm Ít Được Nhiều
Lệch chênh, vũ trụ này là thế! Nguyên lý 80/20 là gì? Nguyên lý 80/20 cho chúng ta biết rằng trong bất cứ một nhóm nào cũng đều có một số đối tượng có một vai trò quan trọng hơn những đối tượng khác rất nhiều. Một mức chuẩn hoặc giả thuyết phù hợp là 80% những kết quả hoặc sản phẩm được sản sinh ra từ 20% những nguyên nhân, và nhiều khi từ một tỷ lệ nhỏ hơn nhiều những động lực có sức tác động lớn. Lời ăn tiếng nói thường nhật là một minh họa rất rõ cho thực tế này. Ngài Issac Pitman, người phát minh ra tốc ký, khám phá ra rằng chỉ có 700 từ thông dụng mà đã chiếm đến 2/3 các từ ngữ dùng trong những cuộc nói chuyện trao đổi qua lại giữa chúng ta với nhau. Pitman nhận thấy rằng, những từ ngữ này, kể cả những từ ngữ phái sinh của chúng, chiếm 80% trong lời ăn tiếng nói thông thường. Trong trường hợp này, không tới 1% từ ngữ (bộ từ điển New Oxford Shorter Oxford English Dictionary tập hợp nửa triệu từ) được sử dụng trong 80% lượng thời gian. Chúng ta có thể gọi đây là nguyên lý 80/1. Tương tự, trên 99% những trao đổi, chuyện trò sử dụng không tới 20% vốn từ: chúng ta có thể gọi đây là nguyên lý 99/20. Điện ảnh cũng có thể sử dụng để làm một minh họa cho nguyên lý 80/20. Một nghiên cứu mới đây cho thấy rằng 1,3% các bộ phim đem về 80% tổng doanh thu từ vé xem phim ở rạp, và ta có thể xem đây là quy luật 80/1 (xem mục “Nguyên lý 80/20 phân loại phim – gà ra gà, công ra công, trang...). Nguyên lý 80/20 không phải là một công thức huyền bí gì. Nhiều khi mối quan hệ giữa kết quả và nguyên nhân gần tỷ lệ 70/30 hơn là 80/20 hay 80/1. Nhưng có một thực tế là ít khi nào xảy ra trường hợp 50% các nguyên nhân dẫn đến 50% kết quả. Chúng ta có thể thấy được vũ trụ này không cân đối, không bằng cân. Một thiểu số lại đóng một vai trò quan yếu. Những con người và tổ chức thật sự có hiệu quả đều biết bám sát, tận dụng một số ít những động lực quan trọng có thể phát huy hiệu quả trong lĩnh vực, thế giới của họ và chuyển chúng thành những lợi thế của họ. Các bạn hãy tiếp tục đọc những trang sách sau đây để tìm hiểu xem các bạn cũng có thể học hỏi và làm như thế nào để cũng được như những người ấy... *** Trong một thời gian dài, định luật Pareto [Nguyên lý 80/20] cứ lừng lững tồn tại trong lĩnh vực kinh tế như một tảng đá bất trị không mời mà đến trên một khoảng sân đã ngăn nắp đâu vào đó, một định luật thực chứng không ai có thể giải thích nổi. Jose f Steind1 Nguyên lý 80/20 có thể và nên được áp dụng bởi mọi con người thông minh trong cuộc sống thường nhật của họ, bởi mọi tổ chức, đơn vị, và bởi mọi nhóm và hình thái xã hội. Nguyên lý này có thể giúp các cá nhân và tổ chức đạt được nhiều kết quả hơn nhiều với lượng công sức ít hơn nhiều. Nguyên lý 80/20 có thể làm cho con người ta hiệu quả hơn và hạnh phúc hơn. Nó có thể nhân lên gấp bội mức độ lợi nhuận của các công ty và tính hiệu quả của bất cứ tổ chức nào. Thậm chí nó còn đóng một vai trò quan yếu trong việc nâng cao chất lượng và số lượng những dịch vụ công ích trong khi cắt giảm chi phí. Cuốn sách này, công trình đầu tiên bàn về Nguyên lý 80/20,2được viết ra từ một niềm xác tín cháy bỏng, đã được kiểm nghiệm và thực chứng qua kinh nghiệm kinh doanh và cá nhân, rằng nguyên lý này là một trong những phương cách tốt nhất để giải quyết và vượt qua được những áp lực của cuộc sống hiện đại. Nguyên lý 80/20 là gì? Nguyên lý 80/20 khẳng định rằng một thiểu số nguyên nhân, “nguyên liệu đầu vào”, hoặc công sức thường dẫn đến một đa số những kết quả, “sản phẩm đầu ra”, hoặc những thành quả. Hiểu theo nghĩa đen, điều này có nghĩa là, chẳng hạn, 80% những gì các bạn đạt được trong công việc của mình là kết quả của 20% lượng thời gian các bạn đã bỏ ra. Như vậy, có thể nói 4/5 những nỗ lực mà các bạn đã bỏ ra – chiếm một tỷ lệ rất lớn – đều chủ yếu là không đem lại hiệu quả mong đợi. Thực tế này trái ngược với những gì người ta thường nghĩ. Như vậy Nguyên lý 80/20 khẳng định rằng tự trong nội tại quan hệ giữa nguyên nhân và kết quả, “nguyên liệu đầu vào” và “sản phẩm đầu ra”, và giữa công sức và thành quả thu được đã có một tình trạng mất cân đối. Một chuẩn mức rất rõ cho tình trạng mất cân đối này có thể thấy qua quan hệ 80/20: công thức điển hình sẽ cho thấy rằng 80% những “sản phẩm đầu ra” kết tựu từ 20% những “nguyên liệu đầu vào”; rằng 80% các kết quả xuất phát từ 20% các nguyên nhân; hoặc rằng 80% những thành quả có được từ 20% công sức đã đầu tư. Hình 1 minh họa cho mối quan hệ này. Trong kinh doanh, nhiều ví dụ minh họa cho Nguyên lý 80/20 đã được kiểm chứng. 20% các sản phẩm thường chiếm 80% doanh số tính theo đô-la Mỹ; và 20% các khách hàng cũng có một tầm quan trọng tương tự. 20% các sản phẩm hoặc khách hàng thường chiếm khoảng 80% lợi nhuận của đơn vị. Trong xã hội, 20% các tội phạm chiếm 80% giá trị của tất cả các tội phạm. 20% người lái xe gây ra 80% số tai nạn. 20% số người kết hôn cấu thành 80% số người ly dị (những kẻ cứ tái hôn rồi lại ly dị đã làm méo lệch các con số thống kê, gây ra một cảm giác bi quan sai lệch về mức độ chung thủy trong hôn nhân). 20% các học sinh sinh viên nắm giữ 80% những bằng cấp, chứng chỉ được phát ra. Trong cuộc sống gia đình, 20% những tấm thảm trải trong nhà thường xuyên có những bước chân giẫm lên. 20% số quần áo được đem ra mặc trong 80% lượng thời gian. Và nếu các bạn có gắn một chuông báo trộm, 80% những vụ báo trộm nhầm là do 20% những nguyên nhân khả hữu. Động cơ đốt trong là một minh họa tuyệt vời cho Nguyên lý 80/20. 80% lượng năng lượng bị bỏ phí trong quá trình đốt nhiên liệu và chỉ có 20% là được chuyển thành năng lượng đẩy cho bánh xe chạy; số 20% “nguyên liệu đầu vào” này tạo ra 100% “sản phẩm đầu ra”!3 Khám phá của Pareto: thiếu cân đối, một tình trạng xảy ra một cách có hệ thống và có thể đoán trước được Cơ sở nền tảng của Nguyên lý 80/20 được Vilfredo Pareto (1848-1923) – nhà kinh tế học người Ý – khám phá ra năm 1897, cách đây đúng 100 năm. Khám phá của ông cho đến nay đã có nhiều tên gọi khác nhau, như Nguyên lý Pareto (Pareto Principle), Định luật Pareto (Pareto Law), Qui tắc 80/20 (80/20 Rule), Nguyên lý thiểu công (Principle of Least Effort), và Nguyên lý bất cân bằng (Principle of Imbalance); trong bộ sách này chúng ta sẽ thống nhất gọi là Nguyên lý 80/20. Qua cả một quá trình ảnh hưởng ngấm ngầm đối với nhiều người thành đạt quan trọng, nhất là những người làm kinh doanh, những người say mê máy tính, và những kỹ sư phụ trách về chất lượng, Nguyên lý 80/20 đã góp phần tác động đến thế giới hiện đại. Tuy nhiên, nó hãy còn là một trong những bí ẩn lớn nhất trong thời đại chúng ta – và ngay cả một số ít người biết và sử dụng Nguyên lý 80/20 cũng chỉ khai thác được một phần nhỏ nhoi sức mạnh của nó. Như vậy Vildredo Pareto đã khám phá ra cái gì? Ông đã tình cờ nghiên cứu những quy luật về của cải và thu nhập ở nướcAnh thế kỷ XIX. Ông nhận thấy rằng, theo mẫu nghiên cứu của ông, hầu hết lượng thu nhập và của cải về tay một nhóm người thiểu số. Có lẽ chuyện này cũng không có gì đáng ngạc nhiên cho lắm. Nhưng ông cũng khám phá ra hai điều khác mà ông cho là rất có ý nghĩa. Một là, có một mối quan hệ nhất quán, có tính toán học giữa tỷ lệ người (lượng phần trăm trong tổng số đối tượng nghiên cứu đang xét) và lượng thu nhập hoặc của cải mà nhóm này được hưởng.4Nói đơn giản hơn, nếu 20% của nhóm đối tượng nghiên cứu hưởng 80% lượng của cải,5thì các bạn có thể đoán chắc rằng 10% sẽ hưởng, chẳng hạn như, 65% lượng của cải, và 5% sẽ hưởng 50%. Điểm mấu chốt không phải ở chỗ các con số phần trăm, mà là ở chỗ việc phân bố của cải trong một nhóm đối tượng có thể tiên đoán là không cân đối. ... Mời các bạn đón đọc Nguyên lý 80/20 - Bí quyết làm ít được nhiều của tác giả Richard Koch.
Chinh Phục Mục Tiêu - Brian Tracy
Chinh Phục Mục Tiêu với 21 ý tưởng và chiến lược quan trọng sẽ giúp bạn hiện thực hóa mọi điều mong ước. Hàng trăm ngàn người, thậm chí là hàng triệu người, khởi nghiệp với hai bàn tay trắng và đạt được thành công vang dội nhờ những nguyên tắc này. Những gì người khác làm được thì bạn cũng có thể làm được, miễn là bạn thực sự bắt tay thực hiện! “Tiềm năng của con người cũng giống như một đại dương chưa được khám phá, một lục địa mới hãy còn tinh khôi, một thế giới của những khả năng chờ được cởi trói để hướng đến những điều vĩ đại.” - Brian Tracy. Sự phát triển của khoa học kỹ thuật với các phương tiện hiện đại đã nâng tầm tri thức của con người lên một bước vượt bậc so với các thời kỳ trước đây. Ở thời đại này, con người quyết định cuộc sống và tương lai của chính mình thông qua những hoạch định để phát triển bản thân và trí tuệ của mình. Với sự tin tưởng rằng bất kỳ cá nhân nào cũng có những năng lực tiềm ẩn to lớn chưa được khám phá. Tác giả cuốn sách Chinh phục mục tiêu - Brian Tracy cho rằng mọi người đều có thể tiến xa hơn nữa và nhanh chóng tiếp cận mục tiêu của mình, chỉ cần họ biết học hỏi và rèn luyện những phương pháp, kỹ năng và chiến lược mà những người thành đạt đi trước đã từng áp dụng. Phương pháp xác lập mục tiêu đã giúp tác giả cũng như hàng ngàn người khác kiểm soát cuộc sống tốt hơn và đạt được sự thành công như chính họ mong đợi. Và chắc chắn rằng phương pháp này cũng sẽ mang đến cho bạn những điều tương tự. Điều mà tác giả nhấn mạnh là việc lên kế hoạch cho tương lai rất quan trọng, dù cho kế hoạch ấy có kém cỏi thế nào đi chăng nữa thì vẫn tốt hơn là không có kế hoạch nào cả. Hàng trăm ngàn người, thậm chí là hàng triệu người, khởi nghiệp với hai bàn tay trắng và đạt được thành công vang dội nhờ những nguyên tắc này. Những gì người khác làm được thì bạn cũng có thể làm được, miễn là bạn thực sự bắt tay thực hiện. Được xem là cẩm nang hướng dẫn những cách nhanh nhất để đạt được thành công mình mong muốn, cuốn sách tóm tắt 21 ý tưởng và chiến lược quan trọng nhất để xác lập và hoàn thành mục tiêu để bạn sống một cuộc đời tuyệt vời. *** 1. PHÁT HUY TIỀM NĂNG CÁ NHÂN 2. CHỊU TRÁCH NHIỆM VỚI CUỘC ĐỜI MÌNH 3. KIẾN TẠO TƯƠNG LAI 4. XÁC ĐỊNH GIÁ TRỊ BẢN THÂN 5. XÁC LẬP MỤC TIÊU ĐÍCH THỰC 6. XÁC ĐỊNH MỤC ĐÍCH LỚN LAO VÀ CỤ THỂ 7. PHÂN TÍCH NIỀM TIN 8. HÀNH ĐỘNG NGAY TỪ ĐẦU 9. ĐO LƯỜNG SỰ TIẾN BỘ CỦA BẢN THÂN 10. LOẠI BỎ TRỞ NGẠI 11. TRỞ THÀNH CHUYÊN GIA TRONG LĨNH VỰC CỦA MÌNH 12. KẾT GIAO VỚI NHỮNG NGƯỜI PHÙ HỢP 13. LẬP KẾ HOẠCH HÀNH ĐỘNG 14. QUẢN LÝ THỜI GIAN HIỆU QUẢ 15. RÀ SOÁT MỤC TIÊU HÀNG NGÀY 16. LIÊN TỤC HÌNH DUNG VỀ CÁC MỤC TIÊU 17. KÍCH HOẠT TIỀM NĂNG TRÍ TUỆ 18. LUÔN LUÔN LINH HOẠT 19. PHÁT HUY TÍNH SÁNG TẠO BẨM SINH 20. HÀNH ĐỘNG MỖI NGÀY 21. KIÊN TRÌ ĐẾN LÚC THÀNH CÔNG *** Brian Tracy là một nhà hùng biện, diễn thuyết, tư vấn chuyên nghiệp và là Chủ tịch Tập đoàn quản lý nguồn nhân lực Brian Tracy International, có trụ sở tại Solana Beach, San Diego. Ông đại diện cho hình ảnh những con người biết vượt qua những khắc nghiệt của cuộc sống để đạt đến thành công đỉnh cao. Để có thể đúc kết được những bài học kinh nghiệm cho mình và cho người khác, Brian đã phải trải qua vô vàn khó khăn. Vì mưu sinh, ông phải rời trường trung học khi chưa tốt nghiệp và bắt đầu bươn chải với những công việc lao động phổ thông trong nhiều năm liền. Ông rửa chén bát, bốc xếp gỗ, đào giếng khoan, làm công nhân trong nhà máy và phụ khuân vác cỏ khô đến các nông trường và trang trại chăn nuôi gia súc. Vài năm sau, ông bước chân vào nghề bán hàng và dần thành danh trong giới kinh doanh. Ba mươi tuổi, ông mới bắt kịp nền học vấn đã phải bỏ dở trước kia khi theo học chương trình MBA tại một trường đại học lớn. Với kinh nghiệm nhiều năm trong nghề, cộng với kiến thức từ quá trình học tập và ý thức nỗ lực phấn đấu không ngừng, ông đã thăng tiến qua nhiều vị trí khác nhau ở 22 công ty thuộc nhiều lĩnh vực. Năm 1981, ông bắt đầu nói chuyện và truyền đạt những nguyên tắc thành công của mình tại các cuộc hội thảo chuyên đề trên khắp nước Mỹ. Đến nay, các chương trình này đã được đưa vào giáo trình giảng dạy cho các doanh nghiệp toàn Hoa Kỳ và trên thế giới, với 20 ngôn ngữ và tại 38 quốc gia. Ông còn là nhà tư vấn và giảng viên cho hơn 500 tập đoàn trên thế giới. Ông cũng là tác giả của nhiều cuốn sách bán chạy nhất như The 100 Absolutely Unbreakable Laws of Business Success (100 quy luật bất biến để thành công), Eat That Frog! (Để hiệu quả trong công việc), Hire and Keep The Best People (Tuyển dụng và đãi ngộ người tài), Getting Rich Your Own Way, Create Your Own Future, Be a Sales Superstar, Advanced Selling Strategies, The 21 Success Secrets of Self-Made Millionaires,... Brian cho rằng bất cứ cá nhân nào cũng có những năng lực tiềm ẩn to lớn chưa được khám phá. Do đó, ông tin tưởng mọi người đều có thể tiến xa hơn nữa và nhanh chóng tiếp cận mục tiêu của mình, chỉ cần họ biết học hỏi và rèn luyện những phương pháp, kỹ năng và chiến lược mà những người thành đạt đi trước đã từng áp dụng. Qua những buổi diễn thuyết, thảo luận, ông luôn tập trung vào việc xóa bỏ trạng thái thất vọng, bi quan và cảm giác kém tự tin ẩn sâu trong mọi người để hướng đến một tương lai tươi sáng với nhiều thành công rực rỡ. Brian Tracy thường xem mình là một "độc giả chiết trung", nghĩa là không bị bó hẹp vào một tín ngưỡng, một dòng tư tưởng đặc biệt nào cả. Ông không nghĩ bản thân mình là một nhà nghiên cứu khoa học, mà chỉ là một người đi thu thập thông tin từ nhiều nguồn khác nhau sau đó tổng hợp đúc kết chúng lại thành những bí quyết, kinh nghiệm hữu ích dành cho thế hệ theo sau ông. Brian hiện đang sống hạnh phúc cùng với vợ và 4 người con tại thành phố San Diego, California. Mỗi năm, ông tổ chức thuyết trình khoảng hơn 100 lần cho hơn 300 ngàn thính giả đồng thời tham gia hoạt động kinh doanh tại 17 nước.   Mời các bạn đón đọc Chinh Phục Mục Tiêu của tác giả Brian Tracy.
Một Nửa của 13 là 8 - Jack Foster
Chưa bao giờ trong lịch sử, ý tưởng lại có giá trị và cần thiết như bây giờ. Đó là bởi, ý tưởng mới cũng như những bánh xe của sự vận động. Không có ý tưởng, sự trì trệ sẽ thống trị. Hơn nữa, hệ thống máy tính thông minh đã làm thay bạn đa phần những công việc thường nhật, nhờ vậy, bạn được rảnh tay, và thực tế là bạn được yêu cầu làm công việc sáng tạo mà các hệ thống đó không thể làm. Mặt khác, thời đại của chúng ta tràn ngập thông tin đến mức nhiều khi ta cảm thấy bội thực. Thế giới luôn đòi hỏi những luồng ý tưởng mới để có thể vươn lên xứng với tầm cỡ và vận mệnh của mình. Bởi thế, thật hoài phí nếu bạn không biết cách sử dụng nguồn tài sản thông tin này để sáng tạo ra những ý tưởng như vậy. *** “Albert Einstein nói ý tưởng tuyệt vời nhất đến khi ông đang cạo râu,” Jack Foster đã viết như vậy trong cuốn sách Một nửa của 13 là 8. Đọc đến đây, bạn sẽ làm gì? Rất có thể, bạn sẽ đặt cuốn sách xuống và đi cạo râu để thử xem liệu có ý tưởng nào nảy sinh không. Nhưng bạn sẽ không muốn đặt cuốn sách xuống thêm lần nào nữa. Bởi những gì Jack Foster viết trong cuốn sách này hết sức thú vị và lôi cuốn.  Ít nhất một lần trong đời, bạn từng băn khoăn: tại sao có người nghĩ được rất nhiều ý tưởng, trong khi mình không thể nghĩ được gì; và liệu có phải có những bí kíp bí truyền, độc nhất để có được tư duy sáng tạo hay không. Cuốn sách của Jack Foster trả lời những câu hỏi đó. Jack Foster cho rằng, lý do để trí sáng tạo của ta ngày càng hao mòn là do hầu hết chúng ta đều làm theo cách thức cũ và suy nghĩ theo lối mòn. Thực chất, bất kỳ ai, bất kể tuổi tác hay màu da nào, bất kể làm công việc gì, đều có thể sáng tạo nhiều ý tưởng hơn, nhanh hơn, dễ dàng hơn. Điều cốt yếu là ta phải nhận ra những lối tư duy, những phong cách sống vô ích cho sự sáng tạo, để rồi phá bỏ chúng bằng các mẹo nhỏ dễ thực hiện và những bài tập đầy hứng thú.  Thông qua cách viết ngắn gọn, dễ hiểu và dí dỏm của Jack Foster, bạn sẽ biết cách đánh thức đứa trẻ trong tâm hồn bạn, trở nên hài hước, vui vẻ hơn; xem lại cách tư duy, học cách hòa trộn các ý tưởng khác nhau, và chiến thắng nỗi sợ bị từ chối.  Chỉ mất một hoặc hai tiếng để đọc xong cuốn sách, nhưng bạn sẽ được lợi từ các lời khuyên của Foster cho đến hết cuộc đời.  Chúng tôi xin trân trọng giới thiệu tới bạn cuốn sách nhỏ hữu ích này.  Hà Nội, tháng 1 năm 2012 *** Trong bảy năm, tôi tham gia giảng dạy một khóa học 16 tuần về quảng cáo tại trường Đại học Nam California. Khóa học được Hiệp hội quảng cáo Hoa Kỳ (American Association of Advertising Agencies ‒ AAAA) tài trợ với mục đích đem lại cho lớp trẻ trong lĩnh vực quảng cáo cái nhìn tổng quan về nghề nghiệp họ đã lựa chọn. Trong khóa học có một người giảng về quản trị khách hàng, một người giảng về truyền thông và nghiên cứu thị trường, còn tôi giảng về quảng cáo. Tôi giảng về quảng cáo báo in và quảng cáo truyền hình, về thư chào hàng và quảng cáo ngoài trời, về cách tạo một tiêu đề hấp dẫn và một nội dung quảng cáo thuyết phục, cách sử dụng nhạc và giai điệu quảng cáo, về quảng cáo hướng dẫn sử dụng sản phẩm và quảng cáo người thực việc thực, những lợi ích và lựa chọn loại hình quảng cáo cũng như khách hàng mục tiêu, thăm dò chất lượng quảng cáo, tiểu đề mục, chiến thuật và mồi nhử, phiếu giảm giá và tờ bướm, cả về phân đoạn thị trường và nhiều chuyên mục khác. Vào cuối năm đầu tiên, tôi hỏi những người tốt nghiệp xem mình có bỏ qua điều gì trong quá trình giảng dạy không.  “Ý tưởng,” họ trả lời. “Thầy đã dạy rằng quảng cáo báo in hay quảng cáo truyền hình đều nên xuất phát từ ý tưởng,” một người nói, “nhưng thầy chưa từng nói ý tưởng là gì và làm sao để có ý tưởng.” Ra vậy. Thế là trong sáu năm sau đó, tôi cố gắng giảng về ý tưởng và làm sao để tìm ra ý tưởng. Không chỉ ý tưởng quảng cáo mà tất cả các loại ý tưởng. Xét cho cùng, chỉ có một số ít học viên tôi dạy phụ trách việc tìm kiếm ý tưởng quảng cáo báo in và truyền hình; đa số là phụ trách khách hàng, tổ chức sự kiện, và nghiên cứu thị trường, chứ không phải người viết quảng cáo hay đạo diễn nghệ thuật. Nhưng tất cả bọn họ, cũng như bạn và tất thảy những người làm kinh doanh, viên chức nhà nước, người dạy học hay nội trợ, dù mới vỡ lòng hay dày dạn kinh nghiệm đều cần biết cách tìm ra ý tưởng.  Tại sao vậy? Trước hết, ý tưởng mới cũng như những bánh xe của sự vận động. Không có ý tưởng, sự trì trệ sẽ thống trị. Dù bạn là nhà thiết kế mơ ước về một thế giới khác, một kỹ sư miệt mài với công trình mới, một giám đốc phụ trách phát triển mô hình kinh doanh mới, một nhà quảng cáo tìm bước đột phá để tiêu thụ sản phẩm, một giáo viên lớp Một tìm cách chuẩn bị chương trình hội trường thật đặc sắc, hay một tình nguyện viên tìm cách bán vé số thì để thành công, khả năng sáng tạo ý tưởng hay là vô cùng quan trọng. Hơn nữa, hệ thống máy tính đã làm thay bạn đa phần những công việc thường nhật, nhờ đó (ít nhất là về mặt lý thuyết) bạn được rảnh tay, và thực tế là bạn được yêu cầu làm công việc sáng tạo mà các hệ thống đó không thể làm. Thứ ba, thời đại của chúng ta tràn ngập thông tin đến mức nhiều khi ta cảm thấy bội thực. Thế giới luôn đòi hỏi những luồng ý tưởng mới để có thể vươn lên xứng với tầm cỡ và vận mệnh của mình. Đó là vì giá trị thực của thông tin, ngoài việc giúp bạn hiểu vấn đề rõ hơn, chỉ được biết đến khi nó được kết hợp với những thông tin khác, hình thành nên những ý tưởng mới để giải quyết các vấn đề và giúp đỡ con người, giúp tiết kiệm, sửa chữa hay sáng tạo ra đồ vật, những ý tưởng khiến mọi thứ tốt hơn, rẻ và hữu ích hơn, những ý tưởng giúp khai sáng, tiếp sức, truyền cảm hứng, đem lại sự táo bạo cho con người. Thật phí hoài nếu bạn không sử dụng nguồn tài sản thông tin này để sáng tạo ra những ý tưởng như vậy.  Tóm lại, chưa bao giờ trong lịch sử, ý tưởng lại có giá trị và cần thiết như bây giờ. Trong lần xuất bản đầu tiên, cuốn sách này có hầu hết những gì tôi giảng cho sinh viên về ý tưởng.   Mời các bạn đón đọc Một Nửa của 13 là 8 của tác giả Jack Foster.
Con Đường Tuổi Trẻ - Daisaku Ikeda
Con đường tuổi trẻ là tập hợp những bài viết ở dạng tâm sự - hướng dẫn của một người đã góp phần giáo dục nên một thế hệ trẻ của Nhật Bản ngày hôm nay, được chia làm tám mục ở tám lĩnh vực với tám mươi lăm câu hỏi đáp về gia đình, bạn bè, tình yêu, học tập, hướng nghiệp, lòng nhân ái. Tất cả những lời hướng dẫn của ông đều nhắm tới một cuộc sống có ích cho xã hội, cho tha nhân và toàn môi trường này. *** Trong những trang sau đây, bạn sẽ đọc một loạt những câu hỏi được đặt ra cho Daisaku Ikeda, và những mối quan tâm của những người trẻ, được bày tỏ ra với ông. Mặc dù một vài trong số những vấn đề được nêu lên có thể dường như đơn giản, có những ý tưởng rất sâu xa ẩn chứa bên trong những câu trả lời thẳng thắn của Daisaku Ikeda. Đó là những lời khuyên từ ái, có sức thuyết phục mạnh mẽ. Theo những lời khuyên đó, ta đi tới chỗ nhận ra khả năng của ta trong việc kiểm soát vận mệnh cá nhân của mình. Riêng với bản thân tôi, tôi thấy rằng, ông đã đưa ra những lời khuyên sâu sắc liên quan đến tình yêu và những mối quan hệ, mà 10 năm về trước, nếu đã nghe thấy nó, chắc hẳn tôi đã tránh được nhiều phiền muộn. May thay, những lời khuyên mà tôi đã thực sự nghe theo, đã củng cố quyết tâm của tôi trong việc thay đổi những điều về chính mình, những điều mà đã kìm hãm, ngăn cản tôi thành tựu những mục đích có tính sáng tạo của bản thân tôi. Trước khi tôi được đọc những lời khuyên của Daisaku Ikeda, tôi không chịu được việc hát nơi công chúng – tôi không thích âm thanh giọng hát của chính mình và ngượng ngùng một cách khổ sở trên sân khấu. Không phải là chuyện tình cờ ngẫu nhiên,  mà 7 năm sau,  album đầu tiên của tôi đoạt huy chương vàng, và tôi được giải Grammy về Giọng Nam Hay Nhất; tôi cũng đã đi lưu diễn vòng quanh thế giới, trình diễn trước hằng triệu người. Gần đây, tôi đọc nhiều về computer, về tầm quan trọng ngày càng tăng của nó trong thế giới của chúng ta. Chỉ cần nói rằng, theo mọi nguồn thông tin có thẩm quyền, thì trong những thập niên sắp tới, sẽ có những thay đổi mà thậm chí chúng ta không thể nào tưởng tượng nỗi – những thay đổi mà sẽ hoàn toàn biến đổi bộ mặt xã hội chúng ta – về mặt xã hội, văn hóa, và chính trị. Dĩ nhiên, sự sống chính nó được đặt nền tảng trên sự thay đổi liên tục. Như nhiều người đã chỉ ra, cái thường hằng duy nhất là sự thay đổi. Đây là lý do tại sao cấp thiết phải tìm thấy một triết lý có thể đưa ta đi qua những giai đoạn lịch sử này, để đón nhận những thay đổi tích cực và xử trí với những thay đổi tiêu cực. Điểm thực sự quan trọng mà Ikeda thường xuyên nhấn mạnh,  là việc định hướng cho những thay đổi này và tạo ra thế giới mới này – việc ấy tùy thuộc vào chúng ta, thế hệ trẻ. Tất cả chúng ta không chỉ có cái khả năng bản hữu (vốn có) để tạo ra những thay đổi này, mà chúng ta còn có trách nhiệm làm như thế, trong một cách thức từ ái, khôn ngoan. Và tôi nghĩ, đây là mục đích của cuộc sống: Hạnh phúc, sáng tạo và trân quý sự sống trong mọi biểu hiện kỳ diệu của nó. — DUNCAN SHEIK *** “Tôi có một giấc mơ!”, đó là lời của Tiến sĩ Martin Luther King Jr.[1] Những giấc mơ của bạn là gì? Những hy vọng của bạn là gì? Không có gì mạnh mẽ hơn một cuộc sống đầy hy vọng. Hằng ngày, tôi nhận được những lá thư từ những người trẻ khắp thế giới, và tôi nói chuyện với những chàng trai và những cô gái trẻ bất cứ khi nào tôi có dịp. Tôi thấy có nhiều người trẻ tràn đầy hy vọng và nhiệt huyết, song những người khác mà tôi tình cờ gặp, thì lại có vẻ như trĩu nặng những ưu phiền thuộc loại này hay loại khác. Tuổi trẻ là một thời cho sự phát triển và thay đổi, nhưng nó cũng có thể là một thời của những lo âu to lớn.[2] Những người trẻ nhiều khi cảm thấy bất an trong xã hội, như thể là họ bị bỏ rơi một mình trong một vùng hoang dã hay một bãi chiến trường nào đó. Họ có thể cảm thấy không có ai mà họ có thể tin cậy;  rằng không ai quan tâm đến  họ; rằng họ không có mục đích nào trong đời. Nhưng hãy đợi! Bạn hiểu chính mình như vậy là có đúng không? Bạn có nên đánh giá quá thấp những khả năng của bạn? Không có ai mà lại không có sứ mệnh nào đó, mục đích nào đó trên thế gian này. Và cảm thức này về sứ mệnh và mục đích là cái đem lại ý nghĩa và sự thoả mãn chân thực cho đời người. Khi tôi 19 tuổi, tôi gặp Josei Toda, người đã trở thành vị ân sư suốt đời của tôi. Ngay cả bây giờ tôi vẫn chưa thể quên, và sẽ không bao giờ quên,  những lời nói từ ái mà ông đã nói với tôi cách đây hơn 40 năm, khi tôi đang trải qua một giai đoạn rất khó khăn. “Daisaku,” ông nói, “những người trẻ phải có những rắc rối của họ. Những rắc rối là cái biến ta thành một con người hạng nhất!” Mỗi buổi sáng, ngay cả vào Chủ Nhật, ông Toda đóng vai như là gia sư của tôi, dạy tôi về mọi loại đề tài. Và theo cách tương tự, tôi đã cố gắng nói chuyện với những người trẻ bất cứ khi nào tôi có cơ hội. Từ những cuộc thảo luận đó mà có ra chất liệu trong cuốn sách sau đây. Phần lớn những cuộc thảo luận này, dĩ nhiên, là với những người trẻ Nhật Bản. Song những đề tài mà chúng tôi thảo luận – gia đình, bạn bè, những ước mơ, những mục đích trong đời – tôi chắc rằng, đó là những mối quan tâm chung của những người trẻ khắp mọi nơi trên thế giới. Nicheren[3] đã dạy rằng, một đời người có một tiềm năng vô hạn, và ông đã phát hiện ra một con đường có thể tiếp cận dễ dàng; theo con đường đó, mọi người có thể nuôi dưỡng tiềm năng này và tìm thấy hạnh phúc thực thụ trong đời. Triết lý này, được dạy bởi Nicheren, đặt nền tảng trên việc tuyệt đối kính trọng sự sống và giá trị của mỗi cá nhân. Và bởi vì tôi hy vọng chia sẻ triết lý có giá trị phổ quát này với những bạn đọc bình thường tại Mỹ, và tại những nước nói tiếng Anh khác, nên tôi đã yêu cầu những nhà biên tập của ấn quán Middle Way Press giúp tôi sắp xếp lại cuốn sách này, và dịch ra Anh ngữ, dựa trên một loạt những buổi nói chuyện mà tôi đã có với những học sinh trung học. Đương nhiên là một vài trong những câu hỏi được nêu ra trong những cuộc thảo luận này tỏ ra rất khó trả lời – bởi vì tôi không phải là một chuyên gia trong những lãnh vực mà họ đề cập. Ước chi tôi đã có thể trực tiếp nói chuyện với mỗi người trẻ và thấu hiểu cái đang gây khó khăn cho họ; rồi sau đó, có lẽ tôi sẽ có thể hiến tặng một câu trả lời triệt để hơn cho mỗi câu hỏi. Nhưng tôi hy vọng rằng, những ý tưởng của tôi trên những vấn đề được nêu ra, sẽ giúp mang đến cho bạn đọc một cái nhìn mới mẻ trên từng vấn đề, một cách nghĩ mới mẻ về nó. Và nơi nào liên quan đến những vấn đề có tính chất đặc biệt, tôi động viên những người trẻ tìm kiếm lời khuyên của những người lớn tuổi hơn mà họ có thể tin cậy. Những thiên tài và những người có tài năng xuất chúng chỉ là một thiểu số nhỏ; đại đa số của xã hội, là những người bình thường, mộc mạc. Tôi là một người bình thường, với một hoàn cảnh không có gì đặc biệt. Trong tuổi trẻ, tôi đã đối mặt với cùng những vấn đề mà phần lớn những người trẻ đối mặt – mặc dù, bởi vì thuở đó tôi đang sống tại Nhật trong giai đoạn ngay sau Thế Chiến II, tôi đã trưởng thành trong một môi trường bị chiến tranh tàn phá. Cuốn sách này được viết ra với hy vọng rằng, những người trẻ có thể thu được lợi lạc từ lời khuyên của một ai đó giống như tôi, có một chút kinh nghiệm nhiều hơn họ. Thay vì là những bài giảng đạo, được thuyết giảng bởi một người tự cho rằng mình có sự hiểu biết nào đó ưu việt hơn, tôi hy vọng bạn đọc sẽ chấp nhận những điều tôi đã viết như là lời khuyên từ một kẻ mà đã đi xa hơn họ một chút trên đường đời. Một trong những mục đích của tôi trong đời, là giúp những người trẻ tìm thấy niềm hy vọng và lòng tự tin vào tương lai của họ. Chính bản thân tôi có niềm tin tưởng vô hạn vào thế hệ trẻ, và do vậy tôi nói với họ: “Bạn là niềm hy vọng của nhân loại! Mỗi người trong các bạn có một tương lai tươi sáng ở phía trước. Mỗi người trong các bạn có một tiềm năng quý giá đang chờ đợi được phát triển. Thành công của bạn, sự chiến thắng của bạn sẽ là sự chiến thắng của tất cả mọi chúng ta. Chiến thắng của bạn sẽ dẫn đường trong thế kỷ này,[4] thế kỷ của hòa bình và nhân ái, thế kỷ quan trọng nhất cho toàn nhân loại". Xin gởi đến bạn lời chúc chân thành nhất của tôi: Chúc bạn mạnh khỏe, tiến bước vững vàng, và luôn thành công trong mọi nỗ lực của bạn. — DAISAKU IKEDA Mời các bạn đón đọc Con Đường Tuổi Trẻ của tác giả Daisaku Ikeda.