Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Vinh Quang Và Quyền Năng - Graham Greene

Graham Greene, nhà văn Anh nổi tiếng được công chúng Việt Nam biết đến với tiểu thuyết The quiet American (Người Mỹ trầm lặng) đã được dựng phim hai lần, ông được coi là người viết về chiến tranh Việt Nam ấn tượng nhất. Là người sống cuộc đời đầy phiêu lưu và mạo hiểm nên, Greene thích đưa các nhân vật người Anh dè dặt của mình vào những tình huống khắc nghiệt, ở những nơi chốn khác lạ. Trong thế kỷ 20, không nhà văn nào có được những nhìn nhận tinh tế hơn Graham Greene khi đưa ra sự so sánh giữa con người với con người. Khi mà ngày càng có ít các nhà văn cố gắng phân tích những đức tính tốt đẹp của con người rơi vào sự sa ngã, thì Greene là bậc thầy trong sự phân minh đầy tính phức tạp này. Nhân vật của ông tồn tại trong hệ thống phẩm hạnh được xác định rõ ràng… Với thành công đó, nhà văn nào cũng thèm muốn có được sức tưởng tượng chứa đầy sự đột phá vô cùng hấp dẫn như Greene - người không bao giờ thiếu chuyện để viết mà ngược lại, luôn ngập trong những áng văn không ngừng tuôn chảy trong mình. Greene từng nói rằng, thời niên thiếu không hạnh phúc là sự cân bằng vô cùng bổ ích cho ông. Tuổi thơ của ông là sự khổ cực ở trường học, những cuộc vật lộn với thầy hiệu trưởng lại là chính người cha của mình; tìm cách tự vẫn ở tuổi vị thành niên và rồi lại si tình đến mê muội người vợ của chuyên gia tâm thần học chữa bệnh cho mình; không đam mê thể thao và thường bỏ học để dành thời giờ đọc tiểu thuyết phiêu lưu của các nhà văn như Rider Haggard và R. M. Ballantyne… Chính những câu chuyện đó đã có ảnh hưởng sâu đậm tới Greene và giúp ông tạo được phong cách văn chương của mình. Graham Greene là người trầm lặng, kín đáo nhưng cuộc sống riêng tư của ông lại rối như tơ vò. Ông tự nhận mình là “một người chồng tồi và người yêu không kiên định” bởi có quan hệ với nhiều phụ nữ, chưa kể thú đam mê rượu đến mức trở thành huyền thoại. Năm 1925, khi mới 21 tuổi, Graham Greene phải lòng Vivienne Dayrell-Browning – một cô gái xinh đẹp theo đạo Công giáo. Nhà văn tương lai mất hai năm ròng với hàng trăm lá thư tình mùi mẫn mới chinh phục được người đẹp. Chưa hết, trước khi được Vivienne mở lời nói câu đồng ý trước bàn thờ Chúa, Greene còn phải cải đạo để vừa lòng ý trung nhân. Hai người kết hôn năm 1927. Họ đã có một thời gian khá mặn nồng, nhưng càng ngày, bất đồng giữa hai người càng lớn. Vivienne khá khắt khe và có cái nhìn cao đạo với vấn đề tình dục. Trong khi chồng cô lại là một người rất trần tục và luôn thẳng thắn thể hiện các nhu cầu bản năng. Họ có hai người con Lucy Caroline và Francis. Cuộc hôn nhân tan vỡ từ năm 1939 nhưng đến năm 1947, hai người mới chính thức chia tay. Cuốn “Vinh quang và quyền năng” có lẽ là một lời biện hộ muộn màng cho hôn nhân tan vỡ của mình. *** Là tài năng hiếm có trong thế giới văn chương ngày càng mang tính bản địa, một người theo chủ nghĩa quốc tế tài năng có nhận thức chính trị sắc bén, nhưng Graham Greene lại từ chối nhìn nhận mình là một nhà văn chính trị. Nhân kỷ niệm 100 năm Ngày sinh của ông, Thư viện Anh tổ chức một cuộc triển lãm các kỷ vật của Green; còn tại thành phố Berkhamstead quê bương ông thuộc Tây Bắc London diễn ra hội nghị kéo dài một tuần, trong đó bàn đến những đóng góp của Greene cho nền điện ảnh, món nợ văn chương của ông với Joseph Conrad và mối quan hệ với Vua hề Charlie Chaplin... Nếu còn sống, chắc chắn Graham Greene sẽ là người phản đối quyết liệt cuộc chiến của Mỹ ở Iraq, bởi ông từng lớn tiếng lên án cuộc chiến tranh của Mỹ ở VN: "Đây không chỉ là việc làm xấu xa mà là cuộc chiến xuẩn ngốc nhất...", Greene nói như vậy trong một cuộc phỏng vấn năm 1967. Ông còn chỉ trích về chính sách đối ngoại của Tổng thống Mỹ Ronald Reagan. Greene từng nói rằng, nhiệm vụ của ông là mô tả "nỗi cam go của sự việc theo tâm lý, và đôi khi theo quan điểm chính trị". Đọc sách , độc giả nhận thấy phần lớn trong hơn hai chục tiểu thuyết của ông bộc lộ sự xung đột giữa lòng trung thành và khát vọng, sự giao thoa đầy khó khăn giữa chính trị và đạo đức. *** Tác phẩm của một tiểu thuyết gia công giáo người Anh, một người Anh giáo trở lại, như cuốn “Vinh Quang và Quyền Năng” trước hết mang lại cho tôi cảm giác bỡ ngỡ. Chắc chắn là tôi tìm được trong đó môi trường tâm linh quen thuộc, chính trong sâu thẳm của màu nhiệm quen thuộc mà Graham Greene đã đưa tôi vào. Nhưng mọi việc diễn ra cứ như thể tôi đi vào một khu nhà cổ qua một cánh cửa bị che khuất sau những dây leo, cành cây, mà tôi không biết, và bỗng chốc tôi nhận ra cái lối đi lớn trong vườn nơi ngày xưa tôi thường nô đùa, và tôi nhẩm đọc những chữ viết tắt mà tôi đã khắc lên thân cây sồi trong những kỳ nghỉ hè năm nào. Một người công giáo Pháp chỉ đi vào giáo hội qua cổng chính; họ bị chi phối bởi lịch sử chính thức của giáo hội Pháp; họ dự phần vào những cuộc tranh luận đã từng phân hoá giáo hội Pháp trong nhiều thế kỷ, người ta khám phá ra người nào đó thuộc phe Port Royal hay Dòng tên, họ về phe Bossuet chống lại Fenelon hay họ về phe với Lamenais và Lacordaire hay với Louis Veuillot. Không thể không liên tưởng đến tác phẩm của Bernanos khi đọc “Vinh quang và Quyền năng”. Những tranh luận của giới công giáo trong suốt bốn thế kỷ qua như được phác hoạ lại nơi đây. Sau cha xứ Donissan trong “Dưới ánh mặt trời của Satan” xuất hiện cha sở xứ Ars. Những vị thánh của Bernanos, những linh mục có khuynh hướng tự do, những giáo dân ngoan đạo mà ông mô tả với giọng điệu cay cú nói ngược lại sự tôn kính và sự gớm ghiếc của ông. Phần mình, Graham Greene đã lén lút đi vào vương quốc bí nhiệm, trong vương quốc của thiên nhiên và ân sủng. Không có thiên kiến nào làm vẩn đục cái nhìn của ông. Không có luồng tư tưởng nào làm ông rời xa phát hiện của ông, cái bí quyết mà ông đã đột nhiên tìm thấy. Ông không có một định kiến nào về cái mà chúng ta gọi là “linh mục tội lỗi”. Có thể nói rằng, ông không có trong đầu óc một mô hình đạo đức nào cả. Có bản tính tự nhiên hay hư nát và có Ân sủng quyền năng; có con người khốn khổ, không đáng giá gì sất, ngay cả để làm điều tội lỗi và cái tình yêu nhiệm màu bao trùm con người trong cái khốn nạn cũng như trong cái hổ nhục để biến họ thành thánh, một vị tử đạo. Vinh quang và quyền năng của Chúa Cha toả rạng nơi bản thân một linh mục Mexico nghiện rượu và đã có con với một nữ giáo dân của mình. Mô típ lố bịch, tầm thường và tội trọng của ông chỉ làm cho người ta cười nhạo hay nhún vai và ông linh mục tội lỗi nhận biết điều đó. Cái mà cuốn sách này muốn chứng minh cho chúng ta là, nếu tôi nói không quá, là việc thánh hoá tội lỗi nhờ ân sủng. Vị linh mục phản động, bị chính quyền kết án tử hình, đầu ông bị treo giá (cuốn truyện mượn khung cảnh một nước Mexico bị thao túng bởi những người cầm đầu chống đạo) đã tìm cách đi trốn, như những linh mục khác đã làm, ngay cả những vị thánh thiện nhất. Ông chạy trốn, đã vượt được qua biên giới, nhưng lại quay về khi có người hấp hối cần đến ông hay cả khi ông biết sự hiện diện của ông không mang lại gì hay cả khi ông biết đó là một cái bẫy, rằng người đến kêu cứu ông là người chỉ điểm. Vị linh mục nghiện rượu, tội lỗi, run sợ trước cái chết, đã hiến dâng mạng sống mình nhưng không bao giờ quên cái cảm giác hèn hạ, nhục nhã của mình. Ông ta sẽ cho là chuyện tiếu lâm nếu ai đó nói ông là Thánh. Ông được bảo vệ cách lạ lùng chống lại thói kiêu ngạo, sự tự mãn. Ông đi tử đạo nhưng luôn mang trong mình ý thức về sự sa đoạ, phạm thánh của một linh mục đang trong tình trạng tội trọng, đến nỗi ông hy sinh thân mình nhưng qui chiếu tất cả cho Thiên Chúa, cho quyền lực và vinh quang của Ngài nơi con người khốn nạn nhất trong những con người: chính bản thân ông ta. Và càng đi đến hồi kết, chúng ta càng thấy con người tội lỗi tầm thường này càng hoá thân nên giống Chúa Kitô để nên giống Ngài, nhưng chưa đủ: đến mức đồng hoá mình với Chúa của mình. Mầu nhiệm Thương khó tái hiện nơi tội nhân này, tội nhân được lựa chọn trong cặn bã của nhân loại và đã lặp lại điều Đức Kitô đã làm, không phải ở trên bàn thờ dưới hình bánh hình rượu và mình thì chẳng mất gì, nhưng là hiến tế chính máu và thịt mình trên Thánh giá. Ở nơi con người vị “linh mục tội lỗi” này, không phải là những nhân đức đã tỏ rạng để đối lập với tội lỗi, nhưng chính là đức tin - đức tin vào cái dấu ấn vô hình ông đã lãnh nhận ngày thụ phong, vào cái kho tàng mà chỉ có mình ông (bởi vì những linh mục khác đã bỏ trốn hay đã bị sát hại) còn mang trên đôi tay bất xứng nhưng đã được Thánh hiến. Vị linh mục cuối cùng còn lại trong vùng, ông không thể tin được rằng sau ông sẽ còn linh mục để cử hành thánh lễ, để giải tội, để giúp kẻ liệt trước ngưỡng cửa đời sống vĩnh cửu. Và dù sao đức tin của ông đã không lay chuyển dù ông không biết rằng, ngay khi ông vừa gục ngã dưới làn đạn, một linh mục khác đã đột ngột xuất hiện. Qua đó, chúng ta cảm nhận sự hiện diện bí ẩn của Thiên Chúa trong một xã hội vô thần, cái giòng chảy ngầm của ân sủng đã làm Graham Greene choáng ngợp hơn là cái mặt tiền hoành tráng mà giáo hội trần thế trình ra trước mặt các dân tộc. Nếu có một ki tô hữu nào đó mà sự sụp đổ của giáo hội hữu hình không làm cho xao xuyến, chính là Graham Greene mà tôi nghe nói ở Bruxelles, trước mặt hàng ngàn tín hữu và sứ thần toà thánh, đã gợi lên hình ảnh vị giáo hoàng cuối cùng trong một Âu châu hoàn toàn mất đức tin, đứng xếp hàng trước quầy vé, mặc chiếc quần tây xoàng xĩnh, cầm trên tay, còn lấp lánh chiếc nhẫn của “người đánh cá”, cái cặp giấy carton. Có thể nói rằng, cuốn sách này là một thông điệp gởi đến thế hệ trong đó mọi cái đều bị xem là phi lý. Những người trẻ thời đại Jean Paul Sartre, Camus, những con mồi tuyệt vọng của cái tự do phù phiếm. Graham Greene hé lộ rằng, có thể, sự phi lý này thực ra chỉ là một tình yêu không bờ bến. Ông cũng gởi thông điệp cho những người ngoan đạo, những người chưa bao giờ nghi ngờ về những giá trị của chính mình và luôn mang trong đầu những mô thức thánh thiện, với những phương thế chuyên biệt để đạt được những mức độ đạo đức khác nhau. Ông đặc biệt nhắm tới những kitô hữu, linh mục và giáo dân, các tiểu thuyết gia đang rao giảng con đường thập giá nhưng phải nói là họ chưa chịu “đóng đinh” đủ. Bài học lớn cho những người bị ám ảnh bởi sự toàn thiện, những con người khốn khổ săm soi những khiếm khuyết của mình mà quên rằng ngày phán xét sau cùng, theo thánh Gioan Thánh giá, chính tiêu chuẩn tình yêu là tiêu chí phán xét. Cái đất nước ông mô tả truy lùng các linh mục và giết hại các ngài, đúng là cái đất nước mà chúng ta đang thấy hình thành trước mắt. Đây là giờ của “hoàng tử thế gian”, nhưng ông mô tả họ không chút hận thù: ngay với tên đao phủ, ông cảnh sát trưởng đều mang dấu ấn của lòng thương xót. Họ tìm kiếm chân lý; họ tin đã tìm thấy chân lý và đang phục vụ chân lý, cái chân lý đòi phải hy sinh một số đồng loại. Bóng tối bao trùm vùng đất mà ông mô tả, nhưng có một tia sáng nào đó đang xuyên qua. Dù gì đi nữa, chúng ta không nên sợ hãi, tác giả đã nhắc cho chúng ta rằng điều bí ẩn sẽ được nhận biết, cũng còn những giá trị cho thế giới phi lý này. Cái tự do mà Sartre đề nghị cho con người có những giới hạn: chúng ta biết rằng, những tạo vật được yêu thương như chúng ta không có tự do nào khác ngoài cái tự do từ chối tình yêu đó… Francois Mauriac. Mời các bạn đón đọc Vinh Quang Và Quyền Năng của tác giả Graham Greene.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Trong Rừng Nho - Ngô Tất Tố
Là tiểu thuyết dã sử về nữ sĩ Hồ Xuân Hương, lần đầu được nhà in Mai Lĩnh xuất bản, đúng vào thời kỳ có những biến động lớn của lịch sử dân tộc. Bản thảo chưa kịp phổ biến rộng, đã phải "khiêm nhường" nằm ẩn khuất trong im lặng, nên được ít người biết đến, không như các tác phẩm khác của họ Ngô, chúng ta sẽ bắt gặp ở đây một ngòi bút hư cấu tài hoa, phóng túng, làm rõ những nét đặc sắc trong cuộc đời Bà Chuá thơ Nôm, cả đời tư và những bài thơ "tương truyền" mà chỉ bà mới làm được. Những sinh hoạt văn hóa, khoa cử của kinh thành Thăng Long, vào những năm cuối thế kỷ 19; cũng được Ngô Tất Tô tái hiện một cách chân xác, sinh động. Chúng ta thấy hiện rõ trong tác phẩm hình ảnh Hồ Xuân Hương, một nữ sĩ đang thử phá hết những cái đạo đức giả, chấp nhận cuộc chơi " với ông hiền, ông thánh"; vạch rõ những thứ lễ nghi chế độ của các ông đặt ra cho đàn bà, con gái... rặt là những cái xiềng xích trói buộc. Trong lần in này, chúng tôi xin trân trọng giới thiệu toàn vẹn tiểu thuyết dã sử "Trong rừng nho" cùng bạn đọc, hoàn toàn tôn trọng những gì mà Ngô Tất Tố đã thể hiện về nữ sĩ họ Hồ. *** Đêm ấy không có trăng. Phố phường Hà Nội đã theo cảnh tượng trời đất, biến thành một vật đen xì. Vũ trụ thu lại vùng ánh sáng của mấy cây đình liệu. Gió bấc ào ào thổi. Chín, mười ngọn lửa lớn bằng chín mười cái bịch, hết thảy điên cuồng lồng phách như muốn lìa những bó đuốc nứa, nhẩy vọt lên tầng mịt mù. Quang cảnh trường thi hôm nay càng rộn ràng hơn mấy hôm trước. Dưới lớp ngói ống của nhà "thập đạo", xiêm áo xen với cờ quạt, thấp thoáng hiện trước bóng đèn lồng. Trong những gian chòi canh lơ lửng gác ở lưng trời, hiệu trống cái đi đôi với hiệu thanh la, thong thả đưa những giọng oai hùng trịnh trọng. Ngoài dãy phên nứa hùng vĩ như bức tường thành quây kín bốn "vi" nền trường, đội lính trú phòng rầm rập theo vó ngựa của viên giám trường đề điệu, tiếng nhong nhóng của nhạc ngựa hóa lộn tiếng dình dình của trống quân. Trên nếp cửa tiền, một bức hoành biển dài dằng dặc như chiếc thuyền thoi, nghênh ngang nằm gối đầu vào đôi đồng trụ. Với bông hoa sen chỉnh chọe kết ở chính giữa và đôi trái găng lủng lẳng treo ở đôi đầu, làm "diềm" phủ trên mép biển dường muốn phô vẻ thắm của tấm nhiễu điều. Với màu sơn son lóng lánh in ánh lửa sáng choang: cái khung chữ nhật, như có ý khoe nét vàng của bốn chữ "Tân hưng thịnh điển." Từ mặt tiền qua phía tả đến mặt hậu, cũng như từ mặt hậu qua phía hữu đến mặt tiền, bốn cửa ở bốn góc đều ngỏ thênh thang. Mấy cái khung bảng chứa hàng mấy nghìn tên người cùng ngảnh cái mặt "rán giấy" ra đường, như đương ngóng các thầy sĩ tử. Mấy chiếc ghế tréo cao chín mười bậc cùng duỗi bốn chân đứng cạnh các cửa, như đương đợi mấy ông khảo quan. Hai cửa của vi tả vi hữu ở đằng sau, cũng như hai cửa của vi giáp vi ất ở đằng trước, toán lính kiểm soát đã chực ngoài cửa bằng dáng bộ nghiêm trang. Tấm áo nẹp xanh thân đỏ gọn gàng nấp dưới chiếc nón dấu sơn quang dầu. Những sợi dây tòng của tay thước khảm trai, bông bênh rủ trên miếng ban kiên sạc sỡ. Khoảng đầu canh ba, tiếng ồn ào tự nẻo xa xa đưa lại, học trò các nơi tới tấp kéo đến cửa trường. Gió bấc thổi càng dữ. Những cây đình liệu cháy càng nỏ. Trên miếng đất giá lạnh của trời đông, bóng người đông như đám hội. Có người đến bảy tám mươi tuổi, mái tóc bạc phất phơ xòa dưới nón sơn. Cũng có người mới độ mười bốn, mười ba, hồng mao còn ngất nghểu ngóng trên vành khăn nhiễu. Có người mặt non mơn mởn chỉ vào trạc mười tám đôi mươi. Cũng có người râu dài lê thê, ít ra phải năm sáu chục tuổi. Có người ra tuồng kiết xác, cái thân gầy guộc co ro sưởi trong mảnh áo đơn. Cũng có người rất mực phong lưu, áo bông quấn sù sù, hàm răng vẫn run cầm cập. Có người hai vai nặng trĩu, khuỷu tay còn đủ sức thích bên kia, gạt bên nọ, len từ ngoài tít vào trong cùng. Cũng có người cất cổ không lên, lều, chiếu đều bị lôi xềnh xệch ở mặt đất. Vênh cái mặt dương dương tự đắc, đó là người mới thi lần đầu. Dúm trên trán những nét lo âu, ấy là người lao đao trường ốc. Đủ các nhân vật. Đủ các bộ dạng. Đêm càng khuya, học trò kéo ra càng nhiều. Ai vào vi nào, lật đật tìm đến cửa vi ấy. Dưới hàng vạn nón chóp lố nhố đứng ở bốn cửa, hàng vạn con người trang thức cùng một lối như nhau: sườn này cái chõng tre và bộ gọng lều, sườn kia thì bó áo tơi và cuộn áo lều hoặc một đôi chiếu cói, trên ngực quả bầu be và chiếc ống quyển, dưới bụng thì cái yên mộc hay cái tráp sơn. Bấy nhiêu đồ vật nặng có, nhẹ có, lớn có, bé có, dài có, ngắn có, hết thẩy xúm lại và đu lên cổ các ông thư sinh. Hình như trời bắt bao nhiêu ông cống, ông đồ, trước khi bước lên đường công danh, đều phải tập làm anh phu tải. Kẻ chen vào, người đẩy ra, kẻ du đi, người kéo lại, dưới bóng lửa sáng, đám người bị dồn dập, bị xô đẩy, cồn cộn như lớp sóng nước triều. Tiếng gọi nhau, tiếng hỏi nhau, tiếng mắng nhau, tiếng cãi nhau, tiếng lầm rầm, nói chuyện với nhau, các thứ tiếng ấy hợp lại, thành một cái vọng ầm ầm, bốn khu cửa trường giống như bốn cái chợ lớn. Sang đầu canh tư, các cây đình liệu đều cháy già một nửa. Tàn nứa đỏ ối theo ngọn gió bấc tản mác bay khắp giữa trời. Rồi từ từ, nó rơi xuống đám đầu người, xuống quãng đất không, xuống những nơi xa tít, nếu nó không bị tắt ở bóng tối. Trong nhà thập đạo, trống khẩu gióng, kiểng đồng, nện đủ ba hồi chín tiếng, các bóng đèn đều bị lay động, các ông quan trường cắt nhau mỗi người xuống mỗi vi. Bốn ông ngự sử đem hết chức trách đàn hặc lên bốn chòi canh. Hai ông phân khảo tiến ra cửa hai vi tả hữu với cái quyền "nửa nội nửa ngoại. Ông phó chủ khảo theo biển "phụng chỉ" đến cửa vi ất. Còn cửa vi giáp, vẫn là phần ông chánh chủ khảo trông nom. Hai hàng đèn lồng lấp ló soi hai bên đường, một đôi lọng vàng nghiêm chỉnh rước lá cờ "khâm sai" đi đằng trước đường, ông chủ trường thi và cái mũ cánh chuồn, cái hốt ngà voi, cái đai kim tuyến, cái áo thủy ba, cái hia rát con bướm vàng bằng bạc, khúm núm núp dưới bốn chiếc lọng xanh chóp bạc, thong thả đi từ nhà thập đạo ra cửa trường. Cũng như mấy ông phó khảo phân khảo ở các cửa kia. Ông chánh chủ khảo vâng mệnh lệnh tôn nghiêm của lá cờ vua ban, khoan thai bước lên mặt ghế tréo và ngồi chỉnh choẹ vợi một chồng quyển thi của học trò. Lọng vàng lọng xanh lại lần lượt làm theo phận sự. Nghĩa là bốn cái lọng xanh cùng che vào ông chủ khảo, hai cái lọng vàng thì che cho lá cờ "khâm sai". Tiếng ầm ầm ở khu đất của trường tự nhiên im bặt, mấy nghìn con mắt đều đổ dồn vào viên đại thần đứng đầu khảo quan. Bỗng như phá bầu yên lặng: "Báo oán giả tiền nhập! Báo ân giả thứ nhập! Sĩ từ thứ thứ nhập!" - Dứt mấy tiếng loa chiếu lệ, ậm ọc ở trên chòi canh. Người lính đứng cạnh ghế tréo của ông chủ khảo theo miệng người lại phòng cầm sổ cũng đứng chỗ ấy, bắc loa đọc tên họ học trò. Một tiếng dạ bật lên trong đám đông. Một người thiếu niên liều mạng lách qua "vòng vây, đệ các đồ đạc kềnh càng đến khu đất trước ông chủ khảo. Toán lính kiểm soát bắt đầu làm việc. Họ giở bỏ áo tơi và cuốn áo lều, họ dòm những cái chõng, chân chõng, họ ghé vào ống đựng quyển và quả bầu be đựng nước, họ lần giải lưng và vuốt các gấu áo gấu quần, họ cởi tung cả bộ gọng lều, rồi họ lục soát đến cái tráp sơn. Ngoài một thoi mực, một cái nghiên, vài cái bút, một cái dùi vở, một tập giấy bản và mấy cái bánh giò, mấy cái bánh dầy, vài cái chả trâu, vài miếng cơm nắm, vài miếng thịt rang, trong tráp không có vật gì khả nghi. Người thiếu niên ấy được phép lĩnh quyển thi của người lại phòng, và tung tăng đi vào trong trường với các đồ đạc lúc lích, vấn quanh vai quanh cổ. Đến lượt người khác theo tiếng loa gọi tiến vào. Người này cũng không có sách thạch bản hay văn cũ chữ kiện chi hết, nhưng các đồ lặt vặt không đựng bằng tráp mà đựng bằng yên, và trong cái yên lại thêm một bộ bàn đèn thuốc phiện. Thuốc phiện không phải vật bị cấm, người ấy cũng được lĩnh quyển vào trường. Người lính cầm loa lại gọi đến tên người nữa. Cũng không có thứ gì gian lậu, nhưng ở trong tráp người ấy lại có một dầm con. Thì ra ông có chứng đi kiết, phải dùng thứ khí giới ấy để vùi cái bã văn chương xuống nền lều, nếu khi làm văn chẳng may bệnh phát. Mang dầm vào trường không có tội gì. Người ấy được qua cứa trường như hai người kia, sau khi đã nhận quyển thi bỏ vào ống quyển. Tên người khác nữa được nhắc lại trong miệng loa đồng. Các vật cần dùng của người này không khác gì của mấy người trước. Riêng có thứ đồ đựng nước không phải là quả bầu be mà là một cái lọ sành rộng miệng. Ngạc nhiên, người lính kiểm soát thò que khoắng dưới trôn lọ, tức thì ở trên mặt nước có vật tròn tròn nổi lên. Càng lấy làm lạ, người lính kia vội vớt vật ấy ra bửa ra xem. Té ra một mớ giấy bản viết chữ nhỏ hơn con kiến, người ta đã vo tròn lại và trát một lượt sáp ong ở khắp chung quanh. Của phi pháp liền bị tịch thu, và cái tội "mang sách vào trường" tức khắc đưa học trò gian ngoan ra khỏi nơi thi cử. Người lại phòng, người lính cầm loa và bọn lính kiểm soát lại tiếp tục làm việc như thường. Chừng nửa canh năm, sương mù ở các cây đình liệu đã lui xuống gần mặt đất, ánh sáng cũng biến ra sắc úa vàng. Đám người và đám lều chõng đã chuyển hết ba phần tư vào trường, khu đất ngoài trường chỉ còn lơ thơ vài trăm học trò, tiếng ồn ào dần dần êm dịu. Mặt trời mọc, các cây đình liệu cũng vừa cháy hết, vũ trụ đã khôi phục cảnh tượng xinh đẹp và mông mênh của ban ngày. Trong miếng đất giáp với cửa trường, một chàng trai trẻ thơ thẩn đợi sự - khám xét của bọn lính kiểm soát. Bộ mặt tuấn tú cố chọi vẻ kiều diễm với ánh nắng buổi mai. Đôi mắt long lanh như muốn hút cả sơn hà thành quách. Quần áo đồ đạc chàng ấy không có thứ gì phạm cấm, chỉ duy cái ngực sao lại nở nang mẩy lớn, hơi khác với ngực người thường. Lục hết cái món linh tinh, cố nhiên bọn hạnh kiểm soát không quên soát cái chỗ mà họ đã nghi ngờ đó. Vừa thục tay vào lần trong áo chàng ta, thì người lính ấy lập tức rút luôn tay ra, dáng bộ giẫy nẩy giống như đụng phải nước nóng. Những người gần đó hau háu nhìn chàng tuổi trẻ bằng đôi mắt ngờ vực, có kẻ bảo chàng ấy giắt nhiều sách vở giấy má trong mình, có kẻ lại đổ trong mình chàng ta hẳn có hung khí hoặc phù chú chi đó. - Bẩm quan lớn, người này không phải đàn ông. Sau tiếng trình giật giọng của người lính kiểm soát, ông chủ khảo trọ trẹ gắt gỏng: - Sao mi hay Bẩm quan lớn, con thấy... Rồi ngập ngừng, người lính như không dám nói nốt. - Mi thấy cái chi? Người lính lại ngập ngừng: - Bẩm con thấy... Sự thông minh của chủ khảo đã do sự ngập ngừng đó mà biết được cái người lính đã thấy, ngó mặt người trẻ tuổi, ông ấy hỏi một cách nghiêm nghị: - Có thật mi là đàn bà không? Đích thực đàn bà, người ấy không dám chối cãi. Lệnh nghiêm từ trên ghế tréo đưa xuống. Người đàn bà ấy phải bỏ chiếu, lều, chõng, tráp ở cửa trường, theo luôn sợi thừng của lính kiểm soát để đi ra dinh tổng đốc. Trong đám đông, những ông sĩ tử còn đợi tiếng gọi, xôn xao người nọ hỏi người kia: - Cô ả nào mà to gan thế - Quê quán chị ta ở đâu, có ai biết không? - Cô ta ở phường Khán Xuân, chứ đâu. - A! Cái cô ái nam ấy ư? - Phải, chính cô ái nam ấy đấy! - Hoài của nhỉ! người thế mà ái nam! - Cô ả học hành khá lắm phải không? - Chẳng khá lại dám giả trai đi thi? Giỏi lắm đấy chứ, kém gì nàng Văn Tú Tài? - Các ông dám khen nó giỏi, tôi thì tôi cho là đồ đ...,"Nữ ngôn bất xuất", chữ sách để đâu? Một người con gái đã có đọc sách mà dám len lỏi vào thi với đám con trai, thì còn biết danh giá là cái gì nữa. Dầu hay! "Tám vạn ngậm tư" cũng là đồ bỏ. - Chẳng những đồ bỏ mà thôi, lại còn cái tội "khi quân" nữa chứ. Giả làm con trai đi thi đó là khi quân chứ gì! Rồi các ông xem, chị ta được "giảo giam hậu là nhẹ, nếu tội ấy vào người đàn ông thì phải "trảm quyết". Cứ thế, người ta cứ chĩa vào mặt người con gái mà cãi vã với nhau mãi như thế. Mặc cho những tiếng mỉa mai, những lời khen ngợi bay ngoài lỗ tai, cô gái lạ đời cứ việc đi qua trước mặt mọi người bằng dáng bộ thản nhiên. Mặt trời lên cao. Ánh nắng đã làm tan bớt giá rét. Khu đất ngoài trường dần dần vắng teo. Câu chuyện "thi gian" của cô ả ái nam, nửa theo các ông học trò vào trong vi giáp, nửa đi với bọn hàng quà hàng bánh ra các phố phường. ... Mời các bạn đón đọc Trong Rừng Nho của tác giả Ngô Tất Tố.
Sô Cô La Chạy Trốn - Dorothy Koomson
Sô-cô-la chạy trốn không phải là một câu chuyện cổ tích, nữ chính gặp nam chính rồi yêu nhau say đắm mà ở đó có sự đấu tranh, giằng xé trong tư tưởng một thời gian để đến với nhau. Tác giả đã xây dựng các nhân vật rất thực, có ưu, khuyết điểm, chẳng ai hoàn hảo cả, họ có thể mắc những sai lầm lớn vì không vượt qua được nỗi sợ hãi của mình cũng như chính bản thân mình.  Đôi khi, bạn đọc bắt gặp hình ảnh của mình trong câu chuyện, bởi chúng ta từng chạy trốn trong hành trình của cuộc đời. Bởi chạy trốn bao giờ cũng dễ dàng hơn nhiều so với việc chạm đến và cảm nhận. Nhiều lúc bạn không dám yêu vì sợ bị phản bội, không dám thử bay lên cao vì sợ cảm giác rơi xuống đất, không dám nói vì sợ bị từ chối…  Đọc xong cuốn sách, chúng ta nhận ra rằng chạy trốn không bao giờ là giải pháp cho mọi chuyện. Chạy trốn chỉ giúp bạn an toàn trong nhất thời nhưng bạn sẽ không bao giờ biết được cảm giác khi được làm một điều gì đó trọn vẹn. Mà chúng ta “hãy chấp nhận nỗi đau và xem mọi thứ có thể lấp lánh đến thế nào khi em nhìn nó từ phía khác!” như lời khuyên của anh trai Amber dành cho cô. *** Mày đang trôi trên một biển sô-cô-la. Sô-cô-la ấm, ngọt, đầy khoái cảm... sô-cô-la êm ái, mượt mà, dìu dịu. Biển sô-cô-la vỗ lên thân thể mệt mỏi, trần truồng của ta. Trùm phủ. Vuốt ve. Mang đi mọi đau đớn và âu lo. Mọi thứ, thế giới, thực tại, con người, đều đã được xô hết đi bằng biển sô-cô-la dập dìu trên da thịt. Yên bình, nhẹ... “Anh... ờ, đi nhé.” Nghe chẳng giống miền cực lạc sô-cô-la của mình tí nào. Tôi hé mở một bên mắt ngái ngủ, kiểm tra xung quanh. Ồ. Hóa ra không phải tôi đang trôi trên một đại dương kem sữa gốc ca cao nào cả. Mà sự thật là tôi đang gập người trên sofa, chân co tận ngực, trán tựa đầu gối, chiếc áo choàng tắm màu trắng sữa quấn quanh mình trần. Chẳng cần gương cũng biết mặt tôi đang dúm dó vì thiếu ngủ; đôi mắt đen nâu còn đầy vết ngủ nghê; và mái tóc đen dài tới cằm vốn gọn gàng giờ bù xù trông như gai với tua, chẳng khác gì một tượng sắt kiểu Gothic. Không, có cố cũng không thể xa thiên đường hơn thế này được nữa đâu. Nhất là khi có một tên đàn ông đang đứng trong phòng khách của tôi và lèm bèm chuyện đi với ở. Như một ả đang tiến gần giá treo cổ, tôi nhỏm đầu dậy và quay sang nhìn hắn. Greg đã quần áo chỉnh tề: áo chui đầu xanh sẫm, rộng thùng thình bên dưới một áo khoác dài tới gối. Quần jeans xanh. Túi màu đen đeo trên người. Đã mặc quần áo. Đầy đủ. Ngạc nhiên gì chứ? Nếu hắn sắp đi, chả lẽ lại mặc quần lót đứng đó? Greg cũng nhìn tôi, rõ ràng đang đợi tôi mở miệng. Đáp lại tuyên bố ở đi của hắn. Tôi câu giờ bằng cách hạ chân xuống, cẩn thận không thể hở thứ gì dưới lớp áo choàng, rồi tôi bắt đầu nghịch một cái gai tóc trên đầu, xoắn nó quanh ngón trỏ trong lúc cố tiếp xúc bằng mắt mà không phải nhìn vào Greg. Tôi phải xử lý sao đây? Lâu lắm tôi mới phải làm việc này, tôi quên xừ mất phải làm sao rồi? Nên tỏ ra tự nhiên chăng? Hay chán chường? Quan tâm? Nghiêm túc? Tuyệt vọng? Rồi còn màn phát biểu nữa. Tôi phải nói gì? “Chào nha, cảm ơn đã ngủ với em?” hay “Biến đi và đừng bao giờ bén mảng đến phòng ngủ của tôi nữa?” Rồi còn bữa sáng thì sao? Tôi khá chắc chắn là nên mời ăn sáng. Nhưng mà thế thì phải mất thêm cả tiếng đồng hồ nữa. Chắc hắn chẳng muốn kéo dài thêm vụ này bằng bữa sáng đâu nhỉ. Hay là có? Nhưng nếu hắn bỏ đi bây giờ thì đến thứ Hai tôi biết phải làm sao? Bọn tôi sẽ xử sự ra sao nếu cứ để mọi thứ lửng lơ trong không khí thế này? Quá nhiều câu hỏi cần trả lời đến nỗi tôi nghĩ nhẽ phải có người viết một quyển sách hướng dẫn cách hành xử trong những trường hợp thế này ấy chứ, nhờ? Một quyển Hướng dẫn nhỏ cho Những Sai lầm lớn hay gì đó. Đảm bảo kiếm bộn tiền. Có lẽ tôi nên thỏa hiệp. Không ăn sáng, cũng không chỉ ra cửa... Taxi! Tôi sẽ “đãi” hắn taxi về nhà. Nếu tôi làm thế, hắn sẽ còn lẩn quẩn ở đây đủ lâu để một trong hai đứa bật ra câu “Chuyện này chưa bao giờ xảy ra, OK?” Rồi chúng tôi sẽ cũng đồng ý không bao giờ nhắc lại nữa. Không bao giờ. Và rồi hắn sẽ cư xử đúng mực và bỏ về. Tôi hắng giọng, cố buộc mình phải nhìn vào mắt Greg. Lọn tóc quấn quanh ngón trỏ của tôi chặt đến đau tức. “Anh có muốn em gọi anh một cái taxi?” Tôi hỏi, giọng nhẹ nhàng và bình thản. Chẳng ai biết thật ra tôi đang khó thở, và sẽ còn tiếp tục khó thở cả sau khi hắn đi. “Không, anh cứ thế đi thôi. Đi khỏi đây thôi,” Greg trả lời nhưng không rục rịch. “Anh chắc chứ?” tôi khăng khăng. Hắn gật đầu và vẫn không cử động, rõ là không biết phải cử động làm sao. “Thật đấy, chả ngại gì đâu,” tôi nói. “Anh cứ đứng đó, em chỉ vào anh và bảo ‘Anh là một cái taxi.’ Dễ mà. Em làm vậy suốt.” Hắn chỉ đứng đó nhìn tôi chằm chằm. Tôi cũng nhìn hắn chằm chằm. Ừ thì ăn sáng vậy! ... Mời các bạn đón đọc Sô Cô La Chạy Trốn của tác giả Dorothy Koomson.
Những Ngày Thứ Ba Với Thầy Morrie - Mitch Albom
Đây là một quyển sách nhỏ rất cảm động đã được in lần đầu vào tháng 10, năm 2002. Quyển sách nói về một ông thầy già nua có thật ngòai đời, một cậu sinh viên cũ của người thầy khả kính đó, và những bài học cuối quí giá nhất trên đời. Văn phong của Mitch Albom rất giản dị, kể chuyện một cách rất nhẹ nhàng tâm tình, về những kỹ niệm với ông thầy khả kính và rất ư có cá tính ấy. Sau những ngày thăm viếng thứ ba kết thúc, chúng ta cũng sẽ rất ngậm ngùi thương tiếc cho những kỹ niệm đẹp tuyệt vời mà ông Mitch Albom ghi lại cho chúng ta cùng nhón chân nhìn vào những bài học tuyệt vời đầy tình người với người của cặp thầy trò này. *** Mitch Albom là một nhà báo, giữ mục thể thao cho tờ Detroit Free Press. Liên tiếp mười năm, lúc chỉ vào lứa tuổi trên 30, anh chàng  ký  mục  gia  thể  thao  này,  được  Hội  Ký  Giả  Thể  Thao (Associated Press Sports Editors) vinh danh là người ký muc gia thể Thao hay nhất. Thế rồi một ngày nọ, vì một sự đình công, anh đã tạm ngưng viết mục ký Thể Thao, để hoàn thành quyển sách, sau này là quyển sách bán chạy nhất trong năm 1977 - Quyển sách không liên quan gì tới thể thao. Một quyển sách viết về kinh nghiệm cuộc đời của một giáo sư đại học già đang chết dần mòn vì bệnh Lou Gehrig. Một tối nọ, Mitch Albom đang đổi từ  đài này qua đài khác không mục đích, và anh bỗng chú ý tới chương trình "Nightline" của Ted Koppel. Kìa người ta đang nói về ông Thầy yêu quý của anh! Từ lâu khi ra khỏi đại học, anh không còn liên lạc với ông Thầy Xã Hội Học, mà anh rất thân từ thuở bận quần jeans, áo thun, và đầu óc đầy lý tưởng. Giờ đây Mitch Albom là ký mục gia ăn khách, người ta cần anh viết về các trận banh, bóng rỗ, túc cầu, baseball, quần vợt nóng bỏng. Thêm vào đó anh còn làm cho đài radio, xuất hiện trên đài truyền hình, anh bận rộn với các các buổi phỏng vấn về các tay thể thao gia nổi tiếng đương thời. Anh chạy theo từng mùa của thể thao và quên mất ông Thầy yêu quý đã từng có những buổi nói chuyện đời lý thú với.... Sau buổi truyền hình, Mitch Albom gọi điện thoại hỏi thăm người thầy già, rồi bay về lại thành phố đại học cũ để thăm thầy. Và từ đó mỗi ngày thứ Ba cho đến khi Thầy Morrie Schwartz qua đời, hai thầy trò gặp nhau. Một thầy giảng về cuộc đời, và một trò ghi chép bài học và cảm nghĩ đã thay đổi đời sống của anh. Dù Thầy đang chết dần mòn nhưng thế giới thầy đầy tình yêu và hy vọng. "Tình Yêu là sự hiện diện của ta trên cuộc đời, dù rằng thể xác ta đã ra đi (Love is how you stay alive, even after you are gone).  Mitch Albom đã ghi lại kinh nghiệm của một người đang chết dần mòn, nhưng tư tưởng của ông vẫn còn mãi mãi. Đó là quyển "Những Ngày Thứ Ba Với Thầy Morrie" (Tuesdays with Morrie) của Mitch Albom. *** Khoá học cuối đời của vị giáo sư già của tôi diễn ra mỗi tuần một buổi tại nhà ông bên cạnh cửa sổ phòng đọc sách, nơi ông có thể nhìn ngắm một cây dâm-bụt, rụng lá đỏ hồng. Lớp nhóm vào mỗi ngày thứ ba. Bắt đầu sau bữa ăn sáng. Môn học là Ý Nghĩa Cuộc Đời. Dạy theo kinh nghiệm. Không có điểm sắp hạng nhưng có thi vấn đáp mỗi tuần. Sinh viên phải trả lời câu hỏi và phải tự đặt câu hỏi của mình. Cũng phải làm một vài công việc tay chân như nâng đầu giáo sư lên để vào một tư thế thoải mái, hoặc đeo cặp kiếng của ông vào sống mũi. Hôn ông từ giã cũng được thêm điểm. Không cần sách nhưng bàn nhiều về đề tài, bao gồm lòng nhân ái, làm việc cộng đồng, gia đình, tuổi già, tha thứ và cuối cùng là cái chết. Bài giảng cuối cùng rất vắn tắt chỉ có vài chữ. Đám tang diễn ra thay cho lễ tốt nghiệp. Mặc dầu không thi cuối khoá nhưng sinh viên phải viết một bài dài về những gì đã học được. Bài ấy được trình bày ở đây. Khoá học cuối cùng của vị thầy già chỉ có một sinh viên. Sinh viên đó là tôi. Khoảng cuối mùa Xuân năm 1979, vào một buổi chiều Chủ Nhật nóng bức, nhễ nhại. Tụi tôi cả trăm đứa ngồi với nhau, bên cạnh nhau, trên nhiều dãy ghế xếp đế trên nền cỏ trong khu trung tâm đại học. Chúng tôi mặc áo thụng nylon màu xanh dương và nghe bài diễn văn dài đến sốt ruột. Khi cuộc lễ chấm dứt, chúng tôi ném mũ lên trời và thế là chúng tôi chính thức tốt nghiệp, hoàn thành  năm  chót  của  đại  học  Brandeis,  nằm  trong  thành  phố Waltham, Massachussetts. Đối với nhiều đứa chúng tôi, tuổi thơ vừa mới hạ màn. Sau buổi lễ, tôi gặp Thầy Morrie Schwartz, ông thầy mà tôi quý mến nhất và giới thiệu Thầy với ba má tôi. Ông là người nhỏ bé, bước đi là những bước ngắn như thể là gió mạnh lúc nào cũng có thể bốc ông lên tới mây. Trong bộ lễ phục ngày tốt nghiệp, trông ông giống như một cây thánh giá dựng giữa ông tiên tri trong Kinh Thánh và một thiên thần tí hon vào dịp Giáng Sinh. Mắt ông long lanh hai màu xanh dương lục, tóc thưa mỏng màu bạch kim xoà xuống trán, đôi tai lớn, sóng mũi hình tam giác và hai chùm lông mày hơi ngả màu. Mặc dầu răng ông không đều đặn và hàm răng dưới thụt vào trong -- giống như có ai đấm xô vào trong -- khi ông cười lại giống như khi bạn vừa nói một câu khôi hài chưa ai từng nói trên trái đất này. Ông bảo ba má tôi là tôi đã chọn tất cả những giảng khoá mà ông dạy. Ông bảo ba má: "Ông bà có một cậu con đặc biệt lắm đấy. " Tôi bối rối nhìn xuống đôi chân. Trước khi chia tay, tôi trao tặng ông thày một gói quà là chiếc cặp da màu xám với tên tắt của phía trước chiếc cặp. Tôi đã mua chiếc cặp này ngày hôm trước tại một thương xá. Tôi không muốn quên ông. Có lẽ tôi không muốn ông quên tôi thì đúng hơn. "Mitch, cậu là một trong những sinh viên giỏi. " Ông vừa nói vừa ngắm chiếc cặp. Rồi ông ôm tôi. Tôi cảm thấy hai cẳng tay gầy gò ôm quanh lưng. Tôi cao hơn ông nên khi ông ôm tôi, tôi cảm thấy ngượng ngùng như tôi là một phụ huynh và ông là một thằng nhỏ. Ông hỏi rồi đây tôi sẽ còn liên lạc với ông nữa không, tôi không do dự trả lời: "Dĩ nhiên còn chứ, Thầy". Khi ông lùi ra, tôi thấy ông khóc. ... Mời các bạn đón đọc Những Ngày Thứ Ba Với Thầy Morrie của tác giả Mitch Albom.
Người Tình Kỳ Ảo - Sherrilyn Kenyon
MONG MUỐN CỦA EM LÀ MỆNH LỆNH ĐỐI VỚI TÔI (Thay cho lời giới thiệu sách) Grace lùi lại. Tim cô đập thình thịch. Điều này không phải thật. Không thể là thật. Cô chỉ say rượu và bị ảo giác thôi. Hay cũng có thể cô bị ngã dập đầu vào thành bàn và đang nằm bất tỉnh, chảy máu đến chết. Đúng thế rồi! Thế nghe còn có lý. Ít nhất thì điều đó còn có lý hơn trái tim đang đập thình thịch dồn máu hâm nóng khắp cơ thể cô. Trái tim đang van vỉ cô hãy lao vào người đàn ông này. Và than hình anh ta mới đẹp làm sao. Khi cô gặp ảo giác, cô gái, chắc chắn do cô đã quá mệt mỏi. Thời gian gần đây chắc hẳn cô đã làm việc quá vất vả. Cô đang bắt đầu mang những giấc mơ của bệnh nhân về nhà. Anh đưa tay về phía cô và ôm đôi má cô trong đôi tay mạnh mẽ ấy. Grace không thể nhúc nhích. Tất cả những gì cô có thể làm là để mặc anh từ từ nâng khuôn mặt cô lên đến khi cô có thể nhìn sâu vào đôi mắt ấy, đôi mắt mà cô chắc chắn đang xuyên thấu tâm hồn cô. Chúng thôi miên cô như thể một con thú săn mồi nguy hiểm đang thôi mien con mồi. Cô run rẩy trong vòng tay anh. Rồi đôi môi nóng bỏng đầy ham muốn áp vào môi cô. Grace rên lên đáp lại. Cô đã nghe nói rất nhiều về những nụ hôn khiến phụ nữ xúc động đến bủn rủn, nhưng đây là lần đầu tiên cô trải nghiệm điều đó. Ôi, nhưng cô cảm thấy mùi vị của nó thật ngọt ngào, và mùi vị của anh còn tuyệt vời hơn... MỘT HUYỀN THOẠI HY LẠP CỔ Sở hữu một sức mạnh vô song và lòng dũng cảm phi thường, anh là người được các vị thần che chở, khiến những kẻ phàm trần sợ hãi và là niềm khao khát của tất cả những người phụ nữ nhìn thấy anh. Anh là người không biết đến luật lệ, không để tâm tới sự khoan dung với kẻ thù. Chiến thuật của anh trên chiến trường cùng với tài cầm quân xuất chúng có thể sánh ngang với những cái tên như Asin, Ô đi xê và Héc Quyn, lịch sử còn ghi lại rằng ngay cả Thần Chiến tranh Ares hùng mạnh cũng không thể đánh bại anh. Như thể là món quà của Thần Chiến tranh vẫn còn chưa đủ, người ta còn kể rằng ngay khi anh lọt lòng, Nữ thần Tình yêu Aphrodite đã hôn lên má anh và đảm bảo vị trí vĩnh viễn của anh trong ký ức của nhân loại. Được Aphrodite ban phước, anh đã trở thành một người đàn ông mà không một người phụ nữ nào có thể chối từ. Về Nghệ thuật Yêu thì anh không có đối thủ - không một người phàm trần nào có thể bì kịp sự dẻo dai của anh. Dục vọng trong anh nóng bỏng và hoang dã, không ai có thể thuần phục được anh hay có thể từ chối anh. Với ánh vàng của làn da và mái tóc, và ánh mắt của một chiến binh, chỉ riêng sự hiện diện của anh cũng đủ khiến phụ nữ mê mệt, một khi đã được bàn tay anh chạm vào họ sẽ trở nên mù quáng vì sung sướng. Không ai có thể cưỡng lại sức quyến rũ của anh. Và anh đã phải hứng chịu một lời nguyền xuất phát từ sự ghen tị. Lời nguyền không bao giờ có thể hóa giải. Giống như Tantalus[1] khốn khổ, lời nguyền đã bắt anh phải vĩnh viễn đi tìm kiếm sự thỏa mãn mà không bao giờ đạt được. Mong mỏi và khao khát từng cái đụng chạm của những người gọi anh đến và có nghĩa vụ phải đưa họ lên đến đỉnh cao khoái lạc. Từ ngày rằm tháng này cho đến ngày rằm tháng sau, anh phải sống với cô ta, làm tình với cô ta, cho đến khi anh lại bị biến khỏi thế giới này. Nhưng hãy cẩn thận, vì một khi đã được anh chạm vào, hình bóng anh sẽ mãi mãi được ghi dấu trong tâm trí người tình. Sẽ không một người đàn ông nào có thể làm cô ta thỏa mãn được nữa. Bởi vì không một người phàm trần nào có thể sánh được với một vẻ đẹp như thế. Sự cuồng nhiệt như thế. Sự ham muốn nhục dục mãnh liệt như thế. Người mang lời nguyền. Julian xứ Macedon[2] Hãy ôm anh vào ngực và gọi tên anh ba lần vào đúng nửa đêm trăng tròn. Anh sẽ tới với bạn và cho đến ngày trăng tròn của tháng tiếp theo, thân thể anh ta sẽ thuộc quyền điều khiển của bạn. Mục đích duy nhất của anh sẽ là làm bạn hài lòng, phục vụ bạn. Làm cho bạn mãn nguyện. Trong vòng tay của anh, bạn sẽ được biết thiên đường thực sự. [1] Tantalus là con trai Thần Dớt, phạm tội bị đày xuống địa ngục chịu hình phạt đứng trong nước mà không thể uống vì mối khi chạm vào nước sẽ biến mất, đứng dưới cây đầy quả chín mà không thể ăn vì khi đưa tay ra quả cũng sẽ biến mất (ND). [2] Macedon: Một vương quốc thời Hy Lạp cổ đại (ND). *** "Cưng à, cậu cần phải nằm nghỉ." Grace Alexander phát ngại trước giọng nói quá to của Selena khi họ ngồi trong một quán cà phê New Orlean nhỏ ăn nốt bữa trưa có cơm với đậu đỏ. Thật không may cho cô là Selena lại sở hữu một giọng nói có âm vực đáng yêu có thể nghe rõ cả trong giông bão. Và theo sau đó là sự im lặng đột ngột của cả căn phòng đông đúc. Liếc nhìn sang các bàn bên cạnh, Grace nhận thấy những người đàn ông đã dừng nói chuyện và quay sang nhìn họ chằm chằm với sự chú ý quá mức cô mong muốn. Ôi trời! Selena không bao giờ có thể nói nhỏ một chút được sao? Và tệ hơn là không biết cô ấy định làm gì tiếp theo đây? Thoát y và nhảy múa trên bàn? Vẫn thế. Đây là lần thứ một triệu kể từ khi họ quen nhau, Grace đã ao ước giá như Selena có thể cảm thấy xấu hổ. Nhưng cô bạn khoa trương và thường là quá khích của cô không hề biết đến nghĩa của từ xấu hổ. Grace lấy tay che mặt và cố gắng hết sức để có thể lờ đi những cái nhìn tò mò xung quanh. Cô những muốn chui xuống gầm bàn và hơn thế nữa là đá cho cô bạn mấy cái. "Tại sao cậu không nói to thêm chút nữa đi Lanie?" cô thì thầm. "Mình sợ rằng đàn ông bên Canada họ chưa nghe thấy cậu nói gì đâu." "Ồ, tôi cũng không biết nữa," người bồi bàn lanh lợi có mái tóc nâu nói khi dừng lại tại bàn của họ. "Họ thường quay đầu về hướng nam ngay cả khi nghe chúng tôi nói" Hơi nóng dồn lên má Grace khi cậu bồi bàn rõ ràng chỉ tầm tuổi học sinh cấp 3 nhìn cô cười tinh quái. "Tôi còn có thể giúp gì không thưa các quí cô?" cậu ta hỏi rồi nhìn chằm chằm vào Grace. "Hay chính xác hơn là tôi có thể làm gì giúp bà không thưa bà?" Có cái túi nào để tôi chui đầu vào hay cái gậy nào để nện Lanie không? "Tôi nghĩ là có đấy," Grace trả lời trong khi mặt nòng bừng. Chắc chắn cô sẽ giết chết Selena vì chuyện này. "Chúng tôi chỉ cần hoá đơn thanh toán thôi." "Vâng, có ngay," cậu ta nói rồi lôi hoá đơn thanh toán ra và viết vội vàng lên đầu trang. Cậu ta đặt nó trước mặt Grace. "Xin cứ gọi cho tôi nếu bà cần thêm bất kỳ dịch vụ nào." Sau khi cậu ta rời đi, Grace mới nhìn thấy tên và số điện thoại của cậu ta trên đầu tờ hoá đơn. Selena nhìn vào tờ hoá đơn và cất tiếng cười lớn. "Cậu cứ đợi đấy," Grace nói, cố nén cười khi cô tính toán phần của mình trông tổng hoá đơn trên chiếc máy tính Palm Pilot. "Tớ sẽ cho cậu biết tay vì chuyện này." Selena phớt lờ lời đe doạ, vừa cho tay vào cái túi hạt cườm lấy tiền cô vừa nói, "này, này cậu cứ nói đi. Nếu tớ là cậu, tớ sẽ giữ số điện thoại đó. Cậu ta là một cậu chàng xinh trai đấy chứ." "Trẻ con," Grace đính chính. "Tớ nghĩ là tớ sẽ bỏ qua thôi. Bị còng tay vì tội có quan hệ với một đứa trẻ vị thành niên là điều cuối cùng mà tớ mong muốn." Selena liếc nhìn cậu bồi bàn đang đứng tựa một bên hông vào quầy bar, nói: "Ừ, nhưng cậu chàng có vẻ ngoài giống Brad Pitt kia đáng để mạo hiểm đấy. Không biết cậu ta có anh trai không nhỉ?" "Tớ đang tự hỏi không biết Bill sẽ trả bao nhiêu để biết vợ mình đã dành toàn bộ thời gian ăn trưa hau háu nhìn một thằng bé con?" Selena vừa đặt tiền lên mặt bàn vừa khịt mũi. "Tớ không hau háu nhìn cậu ta cho bản thân mình. Tớ nhìn hộ cho cậu. Mà nói cho cùng thì cái chúng ta đang bàn đến chính là đời sống tình dục của cậu." "À, đời sống tình dục của tớ rất tuyệt và chắc chắn nó không có liên quan gì đến những người ngồi trong quán này."Quẳng tiền của mình xuống bàn, Grace vơ nốt miếng pho mát còn lại và đi thẳng ra cửa." "Đừng có cáu kỉnh thế," Selena nói và đi theo cô ra ngoài hoà lẫn vào đám đông khách du lịch và khách bộ hành đang chen chúc nhau trên quảng trường Jackson. Một nhạc công saxophone đang chơi một bản nhạc jazz trên nền tạp âm lẫn lộn của tiếng người nói, tiếng ngựa hí, tiếng động cơ ô tô tất cả đang ào lên như một đợt sóng của hơi nóng hầm hập dội vào đầu cô. Cố gắng hết sức để không để ý đến bầu không khí ngột ngạt đến mức khó thở, Grace đi len qua đám đông và những sạp hàng rong bày bán ngay cạnh hàng rào sắt vây quanh quảng trường Jackson. "Cậu hiểu điều đó mà," Selena nói khi bắt kịp cô. "Ý mình là, ôi chúa ơi, Grace, đã bao lâu rồi? Hai năm?" "Bốn năm," cô lơ đãng nói. "Nhưng ai thèm đếm cơ chứ?" "Bốn năm không làm tình?" Selena thảng thốt nhắc lại vẻ không tin. Một số người đi dạo dừng lại tò mò nhìn hết Selena lại đến Grace. Và như thường lệ sau khi thu hút sự chú ý của mọi người, Selena vẫn thản nhiên nói tiếp. "Đừng nói với mình cậu đã quên rằng bây giờ là thời đại điện tử rồi nhé? Ý mình là, thật ra thì có bệnh nhân nào của cậu biết đã bao lâu rồi cậu chưa làm tình không?" Grace nuốt miếng pho mát và ném cho Selena một cái nhìn nảy lửa. Không biết Selena có định hét lên cho tất cả mọi người và toàn thể lũ ngựa ở quận Vieux Carre này nghe thấy không? "Cậu nói nhỏ thôi," cô nói, rồi nói thêm với giọng khô khốc, "tớ thấy bệnh nhân của tớ chả có liên quan gì đến việc tớ tái sinh lại thành một trinh nữ cả. Nhân tiện nói về thời đại điện tử, tớ thực sự không muốn chuyện riêng tư của mình lại gắn với những thứ dán nhãn lưu ý nguy hiểm và lại có cả pin nữa." ... Mời các bạn đón đọc Người Tình Kỳ Ảo của tác giả Sherrilyn Kenyon.