Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Chuyến Tàu Định Mệnh

Tình yêu và chiến tranh: một chủ đề kinh điển, bởi vì dường như trong chiến tranh, tình yêu có thể hé lộ hết chiều sâu của nó. Và với Chuyến tàu định mệnh Georges Simenon nổi bật bằng một chuyện tình trong chiến tranh chân thực hiếm có. Sự chân thực ấy, vốn dĩ gắn bó với cả cuộc đời viết văn đồ sộ của Simenon, đã hết sức tự nhiên mà chọn lấy một tông giọng đẹp và chuẩn xác để kể câu chuyện về Marcel và Anna trên chuyến tàu hỏa huyền ảo, vào thời điểm chiến sự bắt đầu bùng nổ tại châu Âu, mùa hè năm 1940. Và hơn thế nữa, không ít chi tiết thuộc tiểu sử của Simenon cũng đi vào Chuyến tàu định mệnh theo một cách tự nhiên như bản thân cuốn tiểu thuyết lớn với vẻ ngoài rất giản dị này. *** Nhà văn Georges Simenon sinh ngày 13.2.1903 mất ngày 4.9.1989. Năm 16 tuổi, Simenon là chàng phóng viên trẻ viết tin vắn cho tờ La Gazette de Liège. Mỗi ngày, ông đạp xe đến các bót cảnh sát, nhà băng, sở cứu hỏa, những cuộc thi thể thao để lấy tin cho báo. Năm 1922, ông tới Paris hoa lệ. Tiểu thuyết đầu tay Trên Chiếc Cầu Vòm Cung được xuất bản tại Liège (Bỉ) với bút danh Georges Sun. Nhưng sự thành công chưa vội đến với cây bút trẻ có hàng chục bút danh khác nhau này (Jean du Perry, Gom Gut, Christian Brull...). Mười năm miệt mài viết như người lao động khổ sai giúp ông thành thạo trong “tốc độ” sáng tác. Đây chính là thế mạnh của tác giả “bậc thầy trinh thám” sau này. “Suốt thời kỳ 1928-1931, ông chỉ viết những tác phẩm về Maigret, trung bình mỗi tháng một cuốn”, ông nổi tiếng như cồn khi tiểu thuyết trinh thám Con Chó Vàng (Le chien jaune, 1931) được xuất bản, với tên thật Georges Simenon. 11 tác phẩm in năm đó thì 10 cuốn là tiểu thuyết với nhân vật sáng tạo Thanh tra Maigret. Một đời văn với hơn 300 tác phẩm viết bằng tiếng Pháp đã được xuất bản, người ta không khỏi thán phục năng lực sáng tác bền bỉ và trí tưởng tượng phong phú của nhà văn Georges Simenon. Bậc thầy tiểu thuyết trình thám thật sự chinh phục hàng triệu người đọc tại nhiều nước trên thế giới. Hơn 80 tiểu thuyết Thanh tra Maigret không nằm trong thể loại truyện hình sự tầm thường. Giá trị văn học của tác phẩm đã được các nhà phê bình nhìn nhận. Sau ngày ông mất, Đại học Liège ở Bỉ đã thành lập Trung tâm nghiên cứu Georges Simenon và đã xuất bản các tác phẩm nghiên cứu về ông. *** Khi tôi thức giấc, lớp rèm bằng vải mộc để lọt vào phòng thứ ánh sáng vàng nhạt mà tôi vốn quen thuộc từ lâu. Những khuôn cửa sổ phòng chúng tôi, ở lầu một, không có cánh chớp. Không cửa sổ nhà nào trên phố có cánh chớp. Trên bàn đầu giường, tôi nghe thấy tiếng đồng hồ báo thức kêu tích tắc và, bên cạnh tôi, tiếng thở đều đặn của vợ tôi, to gần bằng tiếng thở của những bệnh nhân, trong một cuộc giải phẫu, trên phim ảnh. Vợ tôi lúc đó có mang được bảy tháng rưỡi. Cũng như lần mang thai Sophie trước, cái bụng vĩ đại của nàng buộc nàng phải nằm ngửa. Không nhìn đồng hồ báo thức, tôi thò một cẳng ra khỏi giường. Jeanne cựa quậy và nói ấp úng, giọng xa vắng: - Mấy giờ rồi anh? - Năm rưỡi. Cả đời tôi, tôi quen dậy sớm, nhất là sau những năm ở liệu dưỡng viện, nơi mùa hè người ta mang hàn thử biểu cho chúng tôi từ lúc sáu giờ sáng. Vợ tôi đã không còn để ý đến những gì xảy ra quanh nàng và một cánh tay nàng duỗi ra chỗ tôi vừa rời khỏi. Tôi lặng lẽ mặc quần áo, cử hành, theo thứ tự, nghi thức của mỗi buổi mai, thỉnh thoảng đưa mắt nhìn con gái, hồi đó, giường nó còn kê trong phòng chúng tôi. Tuy chúng tôi đã sắp đặt cho nó căn phòng đẹp nhất trong nhà, phía mặt tiền, thông sang phòng chúng tôi. Nó không chịu ngủ ở đó. Tôi rời phòng, tay cầm giày đi trong nhà và chỉ xỏ vào khi xuống tới chân cầu thang. Chính lúc đó tôi nghe thấy những hồi còi thứ nhất của tàu bè, gần cửa cống Uf, cách gần hai cây số. Theo quy định, các cửa cống phải mở cho sà lan qua lại ngay từ lúc mặt trời mọc và sáng nào cũng có cuộc hòa nhạc đó. Trong bếp, tôi nhóm ga, đặt ấm đun nước. Ngày mới, thêm một lần nữa, lại báo hiệu nắng ấm. Trong suốt thời kỳ này, ngày nào cũng thắm tươi rực rỡ, và hẳn tôi vẫn còn có thể, mỗi giờ, chỉ chỗ các dấu mặt trời tại những gian phòng khác nhau trong nhà. Tôi mở cửa thông ra khoảng sân đã được chúng tôi lợp mái kính để vợ tôi có thể giặt giũ bất cứ lúc nào, mưa cũng như nắng, và con gái tôi có thể chơi đùa ở đó. Giờ, tôi vẫn nhìn thấy chiếc xe của búp bê và xa hơn chút nữa là con búp bê đang nằm lăn lóc trên những phiến gạch lát hình vuông màu vàng. Tôi tránh không vào xưởng ngay vì tôi đã nhất quyết theo đúng các nguyên tắc, như cách tôi gọi thời khóa biểu của tôi hồi ấy. Một cái thời khóa biểu tự nó thiết định lấy, dần dần từng chút một, do những thói quen tạo ra hơn là do nhu cầu. Trong khi chờ nước sôi, tôi đổ đầy bắp vào cái chậu cũ men xanh, lòng gỉ sét, chẳng dùng được cho việc gì khác và tôi băng qua sân đi cho gà ăn. Chúng tôi có sáu con gà mái trắng và một con gà trống. Sương lóng lánh trên những lá rau, trên cây tử đinh hương độc nhất của chúng tôi mà những bông hoa tím, năm nay nở sớm, đã bắt đầu úa héo, và tôi vẫn nghe thấy, không chỉ tiếng còi tàu bè trên sông Meuse, mà còn cả tiếng thở hổn hển của những tàu chạy dầu cặn. Tôi tha thiết muốn tuyên bố ngay rằng tôi không phải là một người đàn ông bất hạnh, cũng không phải một người buồn rầu. Ở tuổi ba mươi hai, tôi thấy mình thẳng tiến trong mọi kế hoạch mà tôi có thể lập ra, trong mọi niềm hy vọng của tôi. Tôi có một vợ, một nhà, một đứa con gái bốn tuổi hơi dễ kích động nhưng bác sĩ Wilhems cả quyết rằng nó sẽ hết thôi. Tôi đã tự tay dựng cơ nghiệp và khách hàng của tôi mỗi ngày mỗi đông thêm, nhất là mấy tháng gần đây, dĩ nhiên. Tất cả mọi người, vì nhiều biến cố, đều muốn có máy radio. Tôi không ngừng bán máy mới, sửa chữa máy cũ và, vì chúng tôi ở cách bến tàu có vài bước, tàu bè nghỉ đêm ở đó, tôi còn có cả khách hàng trong đám thủy thủ nữa. Tôi nhớ đã nghe thấy tiếng cửa mở tại nhà hàng xóm bên trái của chúng tôi, gia đình Matray, một cặp vợ chồng già rất lặng lẽ. Lão Matray, từng làm thủ quỹ ở Pháp quốc Ngân hàng trong suốt ba lăm hay bốn mươi năm gì đó, cũng là một người dậy sớm và bắt đầu mỗi ngày bằng cách đi lại thở hít không khí trong lành nơi vườn nhà. Mọi mảnh vườn trên phố đều y như nhau, mỗi mảnh rộng bằng bề ngang căn nhà, cách nhau bằng bức tường cao đúng tầm để người ta chỉ nhìn thấy chỏm đầu hàng xóm. Từ ít lâu nay, lão Marray có thói quen rình rập tôi, vì lẽ những chiếc máy của tôi cho phép bắt các loại sóng ngắn. - Sáng nay không có tin tức gì sao, ông Féron? Buổi sáng hôm đó, tôi trở vào nhà trước khi lão kịp hỏi tôi và chế nước sôi lên cà phê. Những đồ vật quen thuộc đều ở đúng chỗ của chúng, chỗ mà Jeanne và tôi đã định hoặc cuối cùng, theo thời gian, chúng đã tự chiếm lấy. Nếu vợ tôi không có bầu thì hẳn tôi đã bắt đầu nghe thấy tiếng bước chân nàng trên lầu một bởi vì, vào lúc bình thường, nàng vẫn dậy liền sau tôi. Tuy nhiên, theo thói quen, tôi thích tự sửa soạn cho mình ly cà phê đầu tiên trước khi vô xưởng. Cứ thế chúng tôi tuân thủ một số nghi thức nhất định và tôi cho rằng chắc gia đình nào cũng vậy. Lần mang bầu thứ nhất cực nhọc, sinh nở khó khăn. Jeanne đổ tính nóng nảy của Sophie cho cái gắp sắt mà người ta đã phải dùng đến và gây tổn hại cho đầu của đứa nhỏ. Từ khi có bầu trở lại, nàng sợ lại khó đẻ và bị ám ảnh sẽ cho ra đời một đứa trẻ bất thường. Bác sĩ Wilhems, người được nàng rất tin cậy, cũng không trấn an nổi nàng, giỏi lắm thì cũng chỉ được vài tiếng đồng hồ, và buổi tối, nàng thao thức không dỗ được giấc ngủ. Rất lâu sau khi chúng tôi vào giường, tôi còn nghe thấy nàng trăn trở tìm một thế nằm thoải mái và gần như bao giờ cuối cùng nàng cũng thì thào hỏi: - Anh ngủ chưa, Marcel? - Chưa. - Em tự hỏi không biết cơ thể em có thiếu chất sắt không. Em đã đọc thấy trong một bài báo... Nàng cố ngủ nhưng thường phải quá hai giờ sáng mới chợp mắt nổi và sau đó, cũng chẳng phải hiếm khi, nàng bỗng vùng dậy thét lên. - Em lại bị ác mộng nữa, Marcel. - Kể anh nghe. - Không. Em thích đừng nghĩ đến điều đó nữa thì hơn. Khủng khiếp lắm. Em xin lỗi đã làm anh mất giấc ngủ, anh phải làm việc nhiều biết bao nhiêu... Hồi gần đây, nàng thức dậy vào khoảng bảy giờ và sau đó xuống sửa soạn bữa sáng. Ly cà phê trên tay, tôi bước vào xưởng và mở cánh cửa lắp kiếng ngó xuống sân cùng mảnh vườn. Vào lúc này đây, tôi được tận hưởng tia nắng đầu tiên của ngày, xế bên trái cửa ra vào một chút, và tôi biết chính xác lúc nào nó sẽ lần tới cái bàn thợ của tôi. Thật ra đó không phải là một cái bàn thợ đúng nghĩa mà chỉ là cái bàn lớn rất nặng, từ một tu viện thải ra, tôi đã mua nó trong cuộc phát mãi. Luôn luôn trên bàn bao giờ cũng có dăm cái máy đang sửa. Dụng cụ của tôi được xếp vào giá treo trên tường, ngay trong tầm tay tôi. Khắp xung quanh phòng, hàng đống máy chồng chất ngổn ngang trên các tủ nhiều ngăn bằng gỗ trắng mà tôi đã kê, và được dán nhãn ghi tên khách hàng. Rốt cuộc tôi cũng vặn các nút, dĩ nhiên. Trì hoãn giây phút này hầu như là một trò chơi. Tôi thường tự nhủ, trái với mọi lý lẽ: “Nếu mình chờ một chút xíu nữa, có thể sẽ là ngày hôm nay.” Ngay sau đó, ngày hôm ấy, tôi hiểu cuối cùng có chuyện gì đó đã xảy ra. Tôi chưa hề thấy không khí bị bó rọ như thế bao giờ. Dù tôi chọn tần số nào thì các chương trình phát thanh cũng chằng chịt chồng lên nhau, những tiếng nói, những tiếng rít, những câu tiếng Đức, tiếng Hòa Lan, tiếng Anh, tiếng Pháp và người ta cảm thấy trong không gian như thể có một sự dao động đầy kịch tính. - Đêm nay, các toán quân Quốc xã đã tấn công quy mô lớn vào... Chưa đến lượt nước Pháp - dù sao người ta cũng không nhắc đến nó - mà là Hòa Lan, nó vừa bị xâm chiếm. Đài tôi vừa nghe, là một đài Bỉ. Tôi kiếm Ba Lê, nhưng Ba Lê vẫn nín lặng. Vệt nắng rung rinh chập chờn trên sàn nhà xám và ở cuối vườn, sáu con gà mái trắng của chúng tôi xao xác xung quanh con gà trống mà Sophie gọi là Nestor. Tại sao đột nhiên tôi lại tự hỏi cái chuồng gà bé nhỏ của chúng tôi sẽ ra sao? Lòng tôi hầu như se lại trước số phận của nó. Tôi vặn các nút khác, tìm kiếm trong dải tần số ngắn nơi mà dường như tất cả mọi người đều nói cùng một lúc. Và thế là tôi bắt được, trong giây lát ngắn ngủi, một điệu quân nhạc mà tôi mất dấu ngay lập tức, đến nỗi tôi không thể biết điệu nhạc đó thuộc quân đội nào. Một người Anh vừa đọc một bản tin vừa nhắc đi nhắc lại mỗi câu mà tôi không hiểu, như thể hắn đọc chính tả cho một thông tín viên chép lại, và ngay sau đó tôi lạc vào một máy phát mà tôi chưa hề nghe bao giờ, một máy phát dã chiến. Máy phát đó chắc phải ở gần lắm, thuộc về một trong các trung đoàn từ hồi tháng Mười, hồi đầu của cuộc chiến kỳ quặc*, đã đóng quân trong vùng. Mời các bạn đón đọc Chuyến Tàu Định Mệnh của tác giả Georges Simenon.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Cô Gái Có Vết Bầm Trên Mắt - Erle Stanley Gardner
Luật sư Perry Mason tiếp một cô gái tóc vàng tên là Diana Regis với một bên mắt bị đánh bầm tím, cô ta nhờ luật sư bảo vệ quyền lợi cho mình vì cô bị người khác đánh và bị vu cho là ăn cắp... Từ đây, nhiều vụ rắc rối xảy ra, có một án mạng mà nạn nhân là bạn của Diana Regis. Cảnh sát nghi ngờ Diana Regis là thủ phạm vì có rất nhiều chứng cứ buộc tội cô ta. Một lần nữa, luật sư lại ra tay giúp cô gái và ông đã phát hiện ra nhiều bí ẩn đằng sau vụ án mạng này. Cô gái có vết bầm trên mắt sẽ mang đến cho bạn nhiều bất ngờ, hồi hộp và thú vị với kẻ sát nhân không thể đoán trước cho đến khi đọc tới những trang cuối cùng. *** Một số tác phẩm đã được xuất bản tại Việt Nam:   1. Móng vuốt bọc nhung (Đôi tất nhung) [Perry Mason #1 - The Case of the Velvet Claws] (1933) 2. Cháu gái người mộng du [Perry Mason #8 - The Case of the Sleepwalker's Niece] (1936) 3. Vị giám mục nói lắp [Perry Mason #9 - The Case of the Stuttering Bishop] (1936) 4. Kẻ hùn vốn [Perry Mason #17 - The Case of the Silent Partner] (1940) 5. Con vịt chết chìm (Mười tám năm sau) [Perry Mason #20 - The Case of the Drowning Duck (Le Canard Qui Se Noie)] (1942) 6. Cô gái có vết bầm trên mặt [Perry Mason #25 - The Case of the Black-Eyed Blonde (La Blonde au Coquard)] (1944) 7. Lá thư buộc tội [Perry Mason # 44 - The Case of the Runaway Corpse] (1954) 8. Viên đạn thứ hai [Perry Mason #45 - The Case of the Restless Redhead] (1954) 9. Con mồi táo bạo [Perry Mason #54 - The Case of the Daring Decoy] (1957) 10. Kẻ mạo danh [Perry Mason #64 - The Case of the Spurious Spinster] (1961) 11. Người đàn bà đáng ngờ [Perry Mason #69 - The Case of the Mischievous Doll] (1963) 12. Vụ Án Hoa Hậu Áo Tắm [The Case of the Queenly Contestant] 13. Kẻ Giết Người Đội Lốt [Perry Mason #40 - The Case of the Grinning Gorilla] (1952)   *** Perry Mason ra hiệu cho cô thư ký lại gần và nói sẽ: - Della, một cô tóc vàng với bên mắt tím bầm lúc nào cũng là một hình ảnh bất thường, trừ phi cô ta thuộc loại ‘quậy’. Cô ta có dáng như vậy không? - Tôi không nghĩ thế, - Della Street đáp – rõ ràng cô ta có mối lo sợ ghê gớm về một chuyện gì đó… Cô ta có giọng nói thật hay, hình như là được sửa giọng. - Đang ở phòng đọc sách à? - Vâng. - Ăn bận ra sao? - Giày đen, chân không tất, áo măng tô lông thú. Gấu áo ngủ lòi ra ngoài. Thế thôi, không còn gì trên người nữa. - Còn vết bầm? - Trông mà phát ghê. - Mắt phải hay trái? - Mắt phải. Cô ta có mớ tóc vàng nhạt, mắt xanh to, mi dài. Chịu khó trang điểm, có thể rất xinh gái nếu mắt không có vết bầm. Theo mắt ông nhìn thì ông đoán cô ta 22 tuổi nhưng theo tôi ít ra cũng 26. - Cô ta tên gì? - Diana Regia. - Cái tên thật kỳ quặc - Cô ta bảo tên cô ta đúng như thế. Dầu sao cô ta cũng đang ở tình trạng quá xúc động và hốt hoảng. - Mắt có đỏ không? - Tôi không để ý. Cô ta có dáng bồn chồn, lo lắng nhưng không phải loại phụ nữ mau nước mắt. Gặp trường hợp gay go, cô ta sử dụng trí óc nhiều hơn là nước mắt. - Thôi được. Tôi sẽ gặp để hỏi lý do gì cô ta tìm đến tôi. Ông mở cửa phòng đọc sách ... Mời các bạn đón đọc Perry Mason #25 Cô Gái Có Vết Bầm Trên Mắt của tác giả Erle Stanley Gardner.
Băng Cướp Thụy Điển
221 khẩu súng máy biến mất khỏi kho vũ khí quân sự quốc gia. Mười vụ cướp tàn bạo. Một quả bom phát nổ ở Nhà ga Trung tâm Stockholm. Không nhân chứng nào tường tận chuyện đã xảy ra, giới cảnh sát như bị bịt mắt, cả đất nước chìm trong hoảng loạn… Đó không chỉ là những tình tiết trong Băng cướp Thụy Điển mà chính là chuỗi sự kiện gây chấn động đất nước này hồi đầu thập niên 1990, và giờ đây tất cả được thuật lại sống động dưới ngòi bút người anh em trai của ba tên cướp lừng danh. Khắc họa rõ nét và chân thực từng vụ cướp khét tiếng, đồng thời cũng đi sâu vào mối quan hệ gia đình phức tạp nhưng khăng khít, Băng cướp Thụy Điển là một trong những tiểu thuyết tội phạm đáng đọc nhất năm nay.  “Hoàn toàn điên rồ, hoàn toàn liều lĩnh, và hoàn toàn xuất sắc...” - Nordjyske Stiftstidende  “Độc nhất và choáng ngợp. Một trong những tiểu thuyết lôi cuốn nhất của năm.” - Nhà văn Stephen Booth  “Một cuốn sách sâu sắc... miêu tả và phân tích tâm lý tội phạm vô cùng khéo léo và thuyết phục.” - Diversioni “Sự hòa hợp hoàn hảo của thực tế và hư cấu.” - Skanska Dagladet *** Từ xưa đến nay, bạo lực và giận dữ chẳng bao giờ giải quyết được vấn đề. Mahatma Gandhi từng nói “An eye for an eye only ends up making the whole world blind” (tạm diễn dịch: Nếu ai cũng báo thù bằng cách 1 mắt trả 1 mắt thì thế giới sẽ toàn là người mù). Bạo lực có thể nào xuất phát từ tình thương và sự che chở không? Nếu dựa vào thứ gọi là “tình cảm gia đình” mà tự cho mình cái quyền đối xử bạo lực với người thân thì Biển nghĩ hành động đó thật sai lầm, vừa hại mình vừa hại người, và chỉ đẩy mọi người vào cảnh chỉ còn thân thể tồn tại nhưng tâm hồn đã hoàn toàn mất đi. Đã lâu rồi mới có 1 quyển sách đem đến cho Biển nhiều cung bậc cảm xúc như thế. Tuy mới vài tuần trước, quyển “Trảng đất trống” của Robert Dugoni đã khiến Biển khóc 3 lần, nhưng chính quyển “Băng cướp Thụy Điển” này mới khiến Biển từ bất mãn, giận dữ chuyển sang thỏa mãn, rồi lại hoang mang suy tư đủ điều. Qủa thật, những quyển sách được viết bởi 2 tác giả có những nét rất đặc sắc so với những quyển được viết bởi 1 tác giả. Nếu như ở quyển “Dị chủng”, từng dòng chữ bình thường cũng đem lại cảm giác bất an bồn chồn, thì ở quyển “Băng cướp Thụy Điển”, từng chương sách đều khiến Biển cảm thấy 1 sự giận dữ ngấm ngầm. Tính ra thì Biển đọc quyển này suốt 3 tháng, từ tháng 3~5/2018, vì những đoạn đầu khiến Biển rất bất mãn & không muốn đọc tiếp. 1 người vợ bị chồng bạo hành, 1 người phụ nữ khác thì chấp nhận lìa xa con mình để sống chung / để yêu 1 người đàn ông, người mà đem đến cho cô nhiều ngày giờ căng thẳng hơn là những giây phút yêu thương và an toàn. Nhưng rốt cuộc Biển đã lướt qua cảm giác bất mãn ban đầu để theo dõi tiếp quyển sách, càng về sau câu chuyện càng lôi cuốn. Tuy đầu sách có 2 dòng mang tính chất rất đánh đố như sau “Điều này cũng chẳng lấy gì làm quan trọng. Nhưng cuốn sách này được viết dựa trên một câu chuyện có thật” thì Biển cũng không hoàn toàn tin là nó có thật. Nhưng dù có thật hay không thì đây vẫn là 1 câu chuyện rất ấn tượng. Tưởng như bạo lực tràn ngập các vụ cướp, nhưng cá nhân Biển lại tập trung vào những tình tiết mà tính nhân văn được hé mở, tập trung vào những khoảnh khắc mà sự thiện lương còn nguyên vẹn chưa bị đánh mất. Chính những khoảnh khắc ấy đã lôi kéo Biển tiếp tục đọc. Những câu chữ miêu tả tâm lý tuyệt vời, cứ như người đọc đang được ở cạnh và chứng kiến trực tiếp từng khung hình. Đọc xong quyển này và những quyển khác của các nhà văn Thụy Điển, Biển chợt tự hỏi : chẳng lẽ ở 1 đất nước thuộc Châu Âu văn minh lại có tỷ lệ tội phạm và bạo lực cao như vậy sao, hay đó chỉ là tiểu thuyết? Sách khá to, dày, đúng kiểu Biển thích. Bìa có màu sắc đẹp, thiết kế sáng tạo. Trình bày hoàn hảo, chữ in to rõ, dịch thuật rất tốt, không có lỗi chính tả hay lỗi đánh máy. Nhã Nam đã thành công rực rỡ khi xuất bản quyển sách này. Biển không thuộc loại thích khen 1 cách quá mức như thế này, nhưng Biển buộc phải khen quyển “Băng cướp Thụy Điển” này vì không có chỗ nào để chê. Biển cho điểm 10/10 vì đây là 1 siêu phẩm xứng đáng với mức điểm đó, nhưng nếu kết cuộc của nó lạc quan hơn thì Biển sẽ cho điểm cao hơn, khoảng 14/10. Đây là 1 quyển sách xứng đáng có trên kệ của các mọt sách nói chung và các mọt trinh thám nói riêng. *** Bà Ariadne Oliver đi với người bạn ở cùng, bà Judith Butler, giúp chuẩn bị một bữa tiệc cho các trẻ em trong vùng, diễn ra vào buổi tối hôm ấy. Khung cảnh hoạt động chuẩn bị lúc này hết sức rộn rịp. Các bà các cô hăng hái đi ra đi vào, người kê bàn, người giúp chuyển những chiếc ghế nhỏ, bê lọ hoa, và rất nhiều quả bí ngô đặt vào những chỗ được định sẵn một cách có chủ ý. Hôm nay là tiệc Hallowéen cho các vị khách độ tuổi từ mười đến mười bảy. Tách ra khỏi đám người hối hả trong phòng, bà Oliver đứng dựa vào bức tường trống, săm soi nhìn trái bí ngô khổng lồ trên tay. “Lần gần đây nhất tôi nhìn thấy bí ngô,” bà nói, tay khẽ vuốt những sợi tóc muối tiêu vương trên vầng trán cao, “là ở Mỹ hồi năm ngoái - cả trăm trái ấy. Bày khắp trong nhà. Đời tôi chưa thấy nhiều bí ngô thế bao giờ. Mà kỳ thực,” bà nói thêm, vẻ trầm ngâm, “tôi chẳng phân biệt nổi đâu là bí ngô và đâu là bí đao. Đây là loại nào nhỉ?” “Xin lỗi, bồ,” bà Butler vội nói khi vấp phải chân bà bạn. Bà Oliver càng nép sát vào tường. “Là lỗi của tôi,” bà nói. “Tại tôi cứ đứng quẩn chân, chắn lối mọi người đi lại. Nhưng hồi đó họ tổ chức cũng hoành tráng lắm, bao nhiêu là bí ngô, hay bí đao gì đó. Đi đâu cũng thấy, trong cửa hàng cửa hiệu, rồi thì từ nhà ra ngõ, khắp mọi nơi, người ta còn thắp nến hoặc đèn bên trong trái bí, hoặc buộc dây treo chúng lên. Hết sức vui mắt. Nhưng dịp ấy lại không phải trang trí cho tiệc Hallowéen, mà là Lễ Tạ ơn. Tôi thì cứ thấy bí ngô là lại nghĩ đến Hallowéen, tức là cuối tháng 10. Lễ Tạ ơn muộn hơn nhiều chứ nhỉ? Có phải tháng 11 không? Tầm tuần thứ ba của tháng 11 gì đấy? Dẫu sao thì, lại nói, Hallowéen là ngày 31 tháng 10 phải không? Đầu tiên là Hallowéen, rồi sau đó là gì nhỉ? Lễ Các đẳng linh hồn à? Ngày ấy ở Paris người ta đến nghĩa trang và đặt hoa viếng mộ. Cũng không phải ngày lễ buồn thảm gì đâu. Ý là, cả trẻ con cũng đi viếng nữa, và chúng thích thú lắm. Đầu tiên mọi người phải ra chợ hoa và mua thật nhiều nhiều hoa đẹp. Chẳng hoa ở đâu trông đẹp mắt bằng hoa ở Paris bán ở chợ ấy cả.” Các bà các cô hối hả qua lại, thi thoảng lại vấp phải bà Oliver, nhưng chẳng ai nghe bà nói. Ai cũng quá bận với công việc đang làm. Đa số họ là các bà mẹ, có một vài bà cô chưa chồng tháo vát; cũng có những cậu trai mười sáu mười bảy trèo thang hoặc đứng lên ghế để treo đồ trang trí, bí ngô hoặc bí đao, hoặc treo những quả cầu màu sắc sặc sỡ ở ngang tầm mắt; còn các cô bé mười một mười lăm tuổi túm tụm thành nhóm cười khúc khích. “Rồi sau ngày Các đằng và viếng mộ ấy,” bà Oliver lại tiếp tục, khẽ tựa người xuống tay vịn ghế sofa nhỏ, “là đến Lễ Các thánh. Tôi nói có đúng không nhỉ?” Không ai trả lời bà. Bà Drake, một phụ nữ trung niên quý phái, cũng là gia chủ tổ chức bữa tiệc, cất tiếng tuyên bố: “Tôi không định gọi đây là tiệc Hallowéen gì cả, dù tất nhiên, nó đúng là như thế. Tôi sẽ gọi đây là bữa tiệc Trên Mười Một Tuổi. Để chỉ độ tuổi người tham dự, hầu hết là những người sắp học hết trường Elms* và tiếp tục học lên các trường khác.” Elms là trường nội trú nam nữ ở Colwall, Herefordshire, Anh, dành cho trẻ em từ 2,5 đến 13 tuổi. “Nhưng gọi thế không chính xác lắm, có đúng không, Rowena?” cô Whittaker nói, tay chỉnh cặp kính không gọng trên mũi, ra vẻ không tán thành. Cô Whittaker vốn là giáo viên trường làng, rất kỹ tính về chuyện đúng sai trong lời ăn tiếng nói. “Vì chúng ta đã bãi bỏ chế độ trên mười một tuổi từ lâu rồi mà.” Bà Oliver đang ngồi tựa vào tay ghế vội đứng dậy, tỏ vẻ hối lỗi. “Nãy giờ tôi chẳng giúp được gì cả, toàn ngồi đây nói chuyện linh tinh về bí ngô với bí đao.” Và cho phép chân mình ngơi nghỉ một lúc, bà nghĩ thầm, lương tâm hơi có chút bứt rứt, nhưng lại chẳng đủ cảm giác tội lỗi để nói to suy nghĩ ấy ra. “Tiếp theo tôi có thể giúp gì đây?” bà hỏi, rồi chợt thốt lên: “Mấy quả táo này đẹp quá đi mất!” Ai đó mới bưng một tô lớn đựng táo vào đặt trong phòng. Bà Oliver vốn rất mê táo. “Táo đỏ đẹp quá,” bà tấm tắc khen. “Ăn không ngon lắm đâu,” bà Rowenda Drake tiếp lời. “Nhưng được cái trông đẹp mắt và hợp với buổi tiệc. Chỗ táo này là để cho bọn trẻ chơi trò dùng miệng lấy táo trong thau nước. Chúng khá mềm nên dễ cắn hơn. Bưng tô này vào trong phòng đọc sách được không, Beatrice? Trò cắn táo này lúc nào cũng làm nước bắn tung tóe khắp sàn, nhưng thôi kệ, thảm phòng đọc sách đằng nào cũng cũ rồi. Ôi! Cảm ơn cháu nhé Joyce.” Joyce, cô bé mười ba tuổi người rắn rỏi, hăng hái bưng tô đựng táo lên. Hai quả bị rơi xuống sàn và lăn tới chân bà Oliver thì ngừng lại, như thể có ai vẩy đũa phép điều khiển chúng vậy. “Bà thích táo mà, phải không,” Joyce nói. “Cháu có đọc được là bà thích táo, hoặc có khi cháu nghe trên tivi người ta nói thế cũng nên. Bà chính là người hay viết truyện trinh thám đúng không ạ?” “Đúng vậy,” bà Oliver đáp. “Chắc phải mời bà làm gì đó liên quan đến mấy vụ án mạng mới được. Bà dựng một vụ án mạng trong buổi tiệc tối nay và cho mọi người phá án đi.” “Không, cảm ơn cháu,” bà Oliver nói. “Đủ lắm rồi.” “Là sao ạ? Sao lại đủ lắm rồi?” “Ờ thì, ta từng làm thế một lần, và kết quả không thành công chút nào,” bà Oliver nói. “Nhưng bà đã viết rất nhiều sách,” Joyce hào hứng, “bà kiếm được rất nhiều tiền nhờ đó phải không ạ?” “Ở một chừng mực nào đó,” bà Oliver đáp, tâm trí lang thang trở về Inland Revenue. “Và bà có một thám tử là người Phần Lan nữa.” Bà Oliver thừa nhận. Một cậu bé khác trông có vẻ lãnh đạm, bà Oliver đoán hẳn phải hơn mười một tuổi, nói với vẻ nghiêm nghị: “Sao lại là Phần Lan?” “Ta cũng thường tự hỏi như thế,” bà Oliver thành thực trả lời. Bà Hargreaves, vợ người đánh đàn ống ở nhà thờ thở hổn hển bước vào phòng, tay bê một xô nhựa lớn màu xanh lá cây. “Cái này thì sao,” bà nói, “để chơi trò cắn táo ấy? Có vẻ màu mè rực rỡ đấy, tôi nghĩ thế.” Cô Lee, người bán thuốc theo toa bác sĩ, đáp: “Xô mạ kẽm thì tốt hơn. Thế mới khó lật. Bà định đặt cái này ở đâu đây, bà Drake?” “Tôi đã nghĩ trò cắn táo nên tổ chức trong phòng đọc sách. Tấm thảm phòng ấy cũng đã cũ rồi, và thể nào cũng có nước vương vãi cho xem.” “Được rồi. Vậy để chúng tôi bưng xô này theo luôn. Rowena, đây thêm một giỏ táo nữa này.” “Để tôi giúp,” bà Oliver xăng xái. Bà nhặt hai quả táo dưới chân lên. Gần như quên bẵng mất mình đang làm gì, bà đưa một quả lên miệng cắn và bắt đầu nhai rau ráu. Bà Drake đưa tay giật lại quả táo thứ hai và đặt trở vào giỏ. Cả phòng dậy lên tiếng nói chuyện ồn ào. “Vâng, nhưng giờ biết tìm đâu ra hoa mõm sói?” “Bà phải có hoa mõm sói đặt trong phòng đọc sách chứ, đấy chắc là phòng tối nhất nhà rồi.” “Không, chúng ta phải đặt hoa trong phòng ăn.” “Ta phải phủ cái gì lên bàn trước đã.” “Bàn đã bọc một lớp vải len tuyết dài, rồi lại phủ một tấm cao su lên nữa.” “Thế còn các tấm gương? Chúng ta sẽ nhìn được các ông chồng trong đó chứ?” Len lén cởi giày và vẫn khẽ nhai miếng táo trong miệng, bà Oliver lại thả người trở xuống chiếc sofa nhỏ và chăm chú quan sát căn phòng đầy người qua lại. Lúc này bà bắt đầu dùng đầu óc nữ tác giả của mình để suy nghĩ: “Giờ thì, nếu mình định viết một cuốn sách về tất cả những người này, mình nên viết gì nhỉ? Họ đều là những người tử tế, mình nghĩ là vậy, nhưng ai mà biết được?” Một mặt, bà cảm thấy thật thú vị khi không biết gì về họ. Tất cả đều sống ở Woodleigh Common, vài người bà có biết đôi chút qua lời kể của Judith. Cô Johnson - hình như có liên quan nhà thờ, nhưng không phải là em gái của mục sư. À không, cô ấy là em người đánh đàn ống mới phải, đúng rồi. Rowena Drake, hình như chuyên chỉ đạo các hoạt động chung trong vùng Woodleigh Common này. Và cả người phụ nữ đang thở hổn hển sau khi bưng cái xô nhựa lúc nãy, một cái xô xấu đến phát gớm. Bản thân bà Oliver vốn chẳng bao giờ ưa nổi đồ nhựa. Rồi bọn trẻ con và các cô cậu tuổi choai. Đến bây giờ tất cả chỉ mới là những cái tên trong đầu bà Oliver. Cô bé Nan này, Beatrice này, Cathie, Diana này và Joyce, một cô bé khoác lác và hay hỏi lung tung. Mình không thích cô bé Joyce này lắm, bà Oliver thầm nghĩ. Cô bé kia tên là Ann, trông cao ráo và kẻ cả. Rồi hai cậu thiếu niên, hình như thích thử các kiểu tóc khác lạ, chỉ có điều kết quả không được tốt đẹp lắm. Một cậu bé người nhỏ nhắn rụt rè bước vào phòng. “Mẹ bảo cháu đem những tấm gương này đến xem có dùng được không,” cậu nói, giọng như hụt hơi. Bà Drake đón lấy các tấm gương: “Cảm ơn cháu nhiều nhé, Eddy.” “Chỉ là gương cầm tay bình thường thôi mà,” cô gái tên Ann lên tiếng. “Có thật bọn cháu sẽ nhìn thấy mặt chồng tương lai trong đó không?” “Có đứa sẽ thấy, có đứa không,” Judith Butler đáp, vẻ bí hiểm. “Bà đã bao giờ thấy mặt chồng mình khi đến một bữa tiệc chưa ạ - ý cháu là những bữa tiệc như thế này này?” “Tất nhiên là chưa rồi,” Joyce đáp thay. “Có lẽ bà ấy đã thấy rồi,” Beatrice lên giọng kẻ cả. “Cái đó người ta gọi là giác quan thứ sáu,” cô bé nói thêm, giọng hài lòng vì mình thông thạo những từ ngữ hợp thời. “Cháu đã đọc truyện của bà,” Ann nói với bà Oliver, “The Dying Goldfish. Cuốn đó hay đấy ạ.” cô bé lịch sự tán dương. “Cháu lại không thích cuốn đó,” Joyce lên tiếng. “Không đủ máu me. Cháu thích những vụ án đổ máu thật nhiều ấy.” “Thế thì hơi bẩn,” bà Oliver nói, “cháu không thấy vậy sao?” “Nhưng rất ly kỳ,” Joyce đáp. “Cũng không hẳn,” bà Oliver nói. “Cháu đã chứng kiến một vụ án mạng đấy,” Joyce la lên. “Đừng có ăn nói hàm hồ vậy chứ, Joyce,” cô giáo Whittaker lên tiếng. Mời các bạn đón đọc Băng Cướp Thụy Điển của tác giả Anders Rosluno & Stefan Thunberg.
Án Mạng Tiệc Hallowe'en
Trong lúc mọi người chuẩn bị buổi tiệc Hallowe'en dành cho những đứa trẻ từ 11-17 tuổi trong vùng tại Biệt thự Vườn Táo của bà Rowena Drake - một phụ nữ vừa giàu có vừa thích những hoạt động cộng đồng, có tài tổ chức lẫn thích chỉ huy người khác - thì cô bé Joyce 13 tuổi huênh hoang rằng mình từng chứng kiến một vụ giết người. Chẳng ai tin vì cô bé Joyce này nổi tiếng "nổ" và dựng chuyện. Tuy nhiên, sau khi buổi tiệc diễn ra hết sức vui vẻ thành công, người ta phát hiện Joyce bị dìm đầu vào một xô nước chết. Hercule Poirot được mời tới truy tìm hung thủ. Với lập luận phá án: có phải đúng vì Joyce từng chứng kiến và kẻ giết người có mặt trong số khách khứa nghe được nên ra tay giết cô bé diệt khẩu không? Thế thì chắc chắn trước đó phải có án mạng từng xảy ra trong vùng. Poirot lần lại quá khứ, hóa ra một cộng đồng vùng quê nhỏ những tưởng là yên bình như thế lại từng có rất nhiều vụ giết người, mất tích, âm mưu chiếm đoạt thừa kế... đều chưa tìm ra thủ phạm. Những tội ác đã xảy ra đó liên quan thế nào đến cái chết của Joyce? Trong lúc Poirot đang lần dò trong mớ rối rắm những tình tiết kỳ lạ, bí ẩn thêu dệt thì một cái chết nữa xảy ra: lần này là đứa em trai 11 tuổi của Joyce.  Ngay khi vị thám tử tài ba bắt đầu lóe ra tia sáng đầu tiên về [những] kẻ đứng đằng sau tất cả vụ việc thì cũng là lúc nạn nhân mục tiêu thực sự - một đứa trẻ khác nữa - rơi vào tầm ngắm của kẻ giết người. Poirot có cứu được đứa trẻ này không, hay phải mất thêm một mạng sống nữa mới đưa được thủ phạm ra ánh sáng?  Trong một cái kết thực sự hấp dẫn và bất ngờ, không chỉ sát nhân bị lật mặt mà những tội ác từng xảy ra liền lạc lại do một dã tâm không hề có nhân tính. Mời các bạn đón đọc Án Mạng Tiệc Hallowe'en của tác giả Agatha Christie.
Những Vụ Án Nổi Tiếng Thế Giới: Món Nợ Truyền Kiếp - Ed McBain
Evan Hunter lúc chưa lấy tên Ed Mc Bain, đã viết nhiều tiểu thuyết và truyện ngắn dưới nhiều tên khác nhau, được một nhà xuất bản đề nghị viết một loạt truyện về vụ án. Ông chọn nhân vật chính trong loạt truyện đó là cả một đơn vị cảnh sát. Ông nói: “Tôi muốn nói về những người khám phá ra án mạng trong thực tế. Tôi cố gắng thể hiện công việc hàng ngày của những nhân viên cảnh sát ở một thành phố lớn, muốn xây dựng một lớp người hình dạng và tính cách khác nhau nhưng tập hợp lại cùng tạo ra một người anh hùng: đội Cảnh sát Quận 87. Việc đó chưa từng được làm và quan niệm này cho phép tôi đưa những nhân vật mới vào tập thể đã có. Toàn đội là người anh hùng trong truyện và không người nào trong đội buộc phải có hoặc không thể thay thế được. Trong đời sống thực tế, một cảnh sát có thể bị giết hay bị thương.” Trong các thanh tra cảnh sát ở Quận 87 Steve Carella được nói đến nhiều nhất, cả về tiểu sử. Gốc Ý, sinh ở Jsola, anh tham gia mặt trận Ý trong thế chiến thứ hai và vào ngành Cảnh sát 21 tuổi. Steve Carella là một cảnh sát liêm khiết, nhân hậu, có trách nhiệm cao trong công việc. Anh cũng là còn người bình tĩnh, không tha thứ đầu óc phân biệt chủng tộc, không thờ ơ với cái chết và có khả năng thông cảm với tất cả những ai anh phải tiếp xúc vì nghề nghiệp. Trực giác nhạy cảm, minh mẫn, ngoan cường, anh có khả năng cảm thụ rất cao: điều này được Mc Bain nói lên một cách hình ảnh bằng gán cho anh một người vợ câm điếc: Teddy. Gia đình sống hạnh phúc - họ có hai con sinh đôi - Carella không ngừng suy nghĩ về cuộc đời mỗi khi có dịp nghề nghiệp đưa lại. Chính tiềm năng nhân đạo, cái nhìn nhiệt tình đối với mọi người và cuộc sống làm anh trở thành hấp dẫn, được trìu mến. Xung quanh Carella, Quận 87 như là cả một gia đình: cảnh sát trưởng Peter Byrnes lãnh đạo đơn vị, như một người cha; Meyer Meyer là anh cả có đức tính kiên nhẫn nổi bật. Là người Do thái nhưng không cố chấp về giáo lý, anh đặt ra nhiều vấn đề về tính cách Do Thái và vị trí của người Do Thái hiện đại. Bert Kling là em út, rất gắn bó với Carella, trải qua hai cuộc thực tập khó khăn trong quá trình trưởng thành: nghiệp vụ cảnh sát nhiều khi rất nguy hiểm và lĩnh vực tình cảm riêng tư. Và những người khác: Cotton Hawes tóc hung, con của một mục sư, rất nhiều quan hệ với phái nữ; Arthur Brown, người da đen duy nhất trong đội; Hal Willis người nhỏ bé nhưng không kém nổi danh; Rogeru Havilland, anh cảnh sát hung bạo và thoái hóa; Grossman, người phụ trách phòng xét nghiệm. Tất cả đều có vai trò; quan trọng trong bối cảnh xuất hiện, len lỏi khắp nơi và có vẻ trở về hậu trường Quận 87. Còn một lớp người khác không là thành phần của Quận 87 nhưng đóng vai trò những kẻ điên khùng, lúc này lúc khác làm cho các thanh tra cảnh sát “điên người”: Những hung thủ, những kẻ vô lại gian ngoan luôn xuất hiện từ hư không, chơi trò trốn tìm với cảnh sát. Ed Mc Bain diễn tả những vụ việc trong một thành phố tưởng tượng, thành phố lớn Isola với những khu vực xen kẽ rất khác nhau: có những khu dinh cơ tầng lớp trên, những khu trung lưu, những khu Do Thái và những căn nhà lụp xụp, rác bẩn. Thành phố tập trung mọi tầng lớp xã hội và tiếp nhận dân cư của mọi bộ tộc thiểu số. Việc điều tra những vụ án tiến hành trực diện hoặc theo bước nhảy trong cùng một việc như diễn biến ở một đơn vị mà cảnh sát viên phải giải quyết nhiều vụ cùng một lúc. Như vậy, sự việc này có thể đối chiếu với sự việc khác, phối hợp giữa chúng với nhau, gây ra những bất ngờ, nhận rõ được nhiều mặt của sự việc. Tác giả biết thay đổi kết cấu, nhiều khi dựa vào tính chất xảo quyệt của tội phạm, thay đổi phương pháp kể, phân tích diễn biến tâm lý phá án, phong cách xã hội trong suốt ba mươi năm tại của Quận Cảnh sát 87 sử dụng lối ghi chép việc để dõi theo số phận các nhân vật. *** Nhà văn trinh thám Mỹ Salvadore Lombino sinh năm 1926 tại một xóm người Italia ở New York. Sau khi tốt nghiệp trung học phổ thông, ông vào học Trường cao đẳng Mỹ thuật. Trong những năm chiến tranh, Lambino phục vụ tại binh chủng Hải quân và bắt đầu viết truyện ngắn. Sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai, ông tốt nghiệp Trường cao đẳng Hunter. Năm 1952 Lombino chính thức đổi tên thành Evan Hunter, theo tên của ngôi trường phổ thông và cao đẳng nơi ông đã học. Ông từng làm nhân viên bán tôm hùm, chơi piano trong một giàn nhạc jazz, dạy học ở trường phổ thông, làm nhân viên quảng cáo. Một lần, với tư cách là đại lý văn học, Salvadore Lambino đã mang tới nhà xuất bản những tập bản thảo của Evan Hunter, nghĩa là của chính mình.  Evan Hunter rất nổi tiếng trong giới những người hâm mộ thể loại trinh thám với bút danh Ed McBain độc nhất vô nhị, tác giả của những cuốn tiểu thuyết về đồn cảnh sát 87 - một chùm tiểu thuyết trinh thám dài, đa dạng và rất nổi tiếng. Theo ý đồ của tác giả, đồn 87 nằm ở một “thành phố tưởng tượng” nào đó, tuy nhiên độc giả tinh ý dễ dàng nhận ra trong đó New York, mặc dù tên gọi các đường phố, đại lộ và các địa danh khác đã được thay đổi. “Thành phố” chia thành 5 quận: Isola (Manhattan), nơi đồn 87 đóng, Riverhad (Bronks), Magesta (Quins), Calm-Point (Brooklin) và Bestawn (Steiten-Ireland). Ai đó có thể lấy làm ngạc nhiên rằng hai con sông xuyên qua “thành phố” - Hurb và Dike (Goojon và East-River), chảy về phía tây, trong khi “thành phố” lại nằm bên bờ phía đông. Theo chủ ý của Ed McBain, New York “quay” xung quanh trục của nó, vì vậy phía bắc trở thành phía đông, phía đông trở thành phía nam... phù hợp hoàn toàn với cực từ của trái đất. Đồn 87 nằm ở một vị trí khiến các nhân viên của nó buộc phải trình diễn tài năng trinh thám của mình khi khám phá các vụ tội phạm xảy ra trong các tầng lớp trên, cũng như ở dưới “đáy” xã hội của nước Mỹ. Phạm vi của đồn bao quát cả những khu sang trọng, vùng ngoại vi trù phú, phần lãnh thổ, nơi sinh sống của đại diện giai cấp trung lưu, lẫn các khu nhà ổ chuột, phố “đèn đỏ”, và thậm chí một số biệt thự kiến trúc kiểu gothique cổ kính. Các cuốn tiểu thuyết của Ed McBain đáp ứng tất cả những tiêu chuẩn của thể loại trinh thám. Hoạt động trong đó không chỉ là một người hùng đơn độc, mà còn cả một đội cảnh sát nhà nghề được phối hợp chặt chẽ. Thậm chí nếu một nhân vật nào đó của Ed McBain trở nên vượt trội (ví dụ, trong nhiều tiểu thuyết công lao khám phá tội phạm thuộc về Stev Carrele), hành động của anh ta cũng không thể mang lại những kết quả mong muốn, nếu như không có sự giúp đỡ và ủng hộ của các thám tử khác. Đồn 87 có cái gì đó giống như Con thuyền Noe, nơi tập hợp rất nhiều những con người khác nhau, được liên kết bởi một mục đích chung: quét sạch bọn tội phạm, xây dựng cuộc sống trong “thành phố” trở nên hạnh phúc và bình yên. Trong số đó có Trung úy Berne, Cảnh sát trưởng, được các nhân viên cấp dưới của mình, thậm chí cả bọn tội phạm nể trọng; Meier Meier, một thám tử cực kỳ chịu khó, xuất thân từ một gia đình gốc Do Thái, tuổi thơ của anh ta trôi qua trong sự đụng độ của những tín điều; Bert Kling trong cuộc sống và trong công việc không tìm kiếm những con đường dễ dãi, vì vậy anh đã phạm phải rất nhiều sai lầm mà lẽ ra có thể tránh được; Coton House, con trai của một linh mục đạo Tin Lành được phái đẹp hết sức hâm mộ, cũng như những chiến binh tận tụy khác đấu tranh vì sự bình yên của những người dân lương thiện. Một điều hết sức đặc trưng đối với Ed McBain là nhân vật của ông không phải là những con người xơ cứng, bất biến, không phải là những chiếc mặt nạ nào đó, ngược lại, họ biết tận hưởng cuộc sống, trưởng thành và hoàn thiện tài năng của mình. Nhân vật Stev Carelle là một ví dụ, một cảnh sát mẫu mực “đến tận xương tủy”. Thông thường, khi một nhà văn gặt hái được thành công ban đầu thì anh ta hay sản xuất ra những tác phẩm na ná nhau cho tới khi độc giả chán ngấy sự đơn điệu đó. Tuy nhiên, đối với Ed McBain, điều đó đã không xảy ra. Ông không bao giờ ngần ngại thử nghiệm. Trong tiểu thuyết “Cái nêm” có hai cốt truyện cùng phát triển song song, thoạt đầu không hề liên quan gì với nhau: một bên là câu chuyện khủng khiếp về một người phụ nữ mất trí vì quá đau khổ đã dọa đánh bom Đồn 87, và bên kia là một thủ pháp hơi lỗi mốt, khi một nhân vật xuất thân từ thành phần bất hảo đã trở thành kẻ sát nhân và chỉ bằng con đường suy diễn logique các thám tử mới vạch mặt được kẻ tội phạm. Hai cốt truyện này nối với nhau bằng một biểu tượng nào đó được tác giả gửi gắm trong tên gọi của tác phẩm. “Giá của sự ngờ vực” là câu chuyện về một “vụ giết người lý tưởng”, hơn nữa tác giả còn thử nhìn các sự kiện bằng con mắt của kẻ tội phạm, trong khi các thám tử thể hiện vai trò của mình một cách mờ nhạt. Tiểu thuyết “Công việc bình thường” đáng chú ý bởi trong đó có sự tham gia của hầu hết các thám tử thuộc Đồn 87 và họ buộc phải khám phá 14 vụ án. Tiểu thuyết “Sợi lông tơ” là một hài kịch, mặc dù luôn luôn tỏ ra làm việc căng thẳng, các nhân viên cảnh sát không thể vượt qua được bọn tội phạm. Không thể không nhắc tới nhân vật gã Điếc rất thành công của Ed McBain - đó là một kẻ bất khả chiến bại, may mắn thoát chết trong tiểu thuyết “Tên cướp”, lại xuất hiện trong tiểu thuyết “Sợi lông tơ” và muộn hơn trong “Hãy nghe gã điếc nói gì”. Mỗi một cảnh có sự tham gia của nhân vật này đều một pha mạo hiểm tiếp theo của y mà các thám tử tìm mọi cách ngăn chặn. Nhưng gã điếc đều thoát chết và lành lặn sau những hoàn cảnh hiểm nghèo, để rồi lại bất ngờ xuất hiện trong một cuốn tiểu thuyết tiếp theo nào đấy. Ed McBain được công nhận là một bậc thầy về văn xuôi trào phúng. Thực sự không một cuốn tiểu thuyết nào về Đồn 87 thiếu chất hài hước, điều này góp phần làm nên thành công của chùm tiểu thuyết nói trên. Chính chất hài hước đã “hồi sinh” các nhân vật, vì những nguyên nhân nào đó mà chân dung tâm lí của họ chỉ được tác giả phác qua một cách sơ sài. Tất nhiên, đôi khi trong các tác phẩm của Ed McBain bạn đọc cũng bắt gặp những hoàn cảnh và số phận bi kịch thực sự, nhưng chính chất hài hước đã trở thành một phẩm chất lành mạnh của toàn bộ chùm tiểu thuyết của ông Mời các bạn đón đọc Những Vụ Án Nổi Tiếng Thế Giới: Món Nợ Truyền Kiếp của tác giả Ed McBain.