Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Chuyện Ma Ám Ở Trang Viên Bly

“Tôi nhớ rằng mọi chuyện bắt đầu với một loạt thăng trầm trong cảm xúc, một chút bấp bênh của hồi hộp lo sợ” Một cô gái trẻ nhận được công việc đầu tiên trong đời là làm gia sư cho hai đứa trẻ xinh đẹp, trong sáng và lặng lẽ đến dị thường tại toà dinh thự Bly cô độc, bị bủa vây trong cái ác rình rập. Những bóng người ẩn hiện từ toà tháp tối tăm và ô cửa sổ bụi bặm, các bóng ma xấu xa lặng lẽ tiến đến ngày một gần. Với nỗi kinh hoàng lớn dần, cô gia sư bất lực nhận ra những sinh vật tàn ác đó nhắm đến bọn trẻ, rắp tâm xâm chiếm cơ thể, tâm trí và cả linh hồn các em… Nhưng không ai ngoài cô nhìn thấy những bóng ma ấy. Phải chăng những ám ảnh kia được gợi lên từ chính trí tưởng tượng của cô gia sư, hay sự thật còn chứa đựng nhiều hơn thế? HENRY JAME (1843 - 1916) Là nhà văn người Mỹ, một trong những người sáng lập và dẫn đầu trường phái hiện thực trong văn hư cấu. Ông sống phần lớn cuộc đời tại Anh và trở thành công dân Anh không lâu trước khi qua đời. Ông được biết tới chủ yếu nhờ một loạt tiểu thuyết đồ sộ miêu tả sự giao thoa giữa Mỹ và châu Âu. Truyện của ông xoay quanh mối quan hệ cá nhân, cách sử dụng quyền lực đúng mực trong các mối quan hệ đó, và nhiều vấn đề đạo đức khác. Phương pháp viết của ông lấy góc nhìn của một nhân vật trong truyện, cho phép ông khám phá các hiện tượng ý thức và nhận thức, phong cách viết trong các tác phẩm về sau của ông từng được so sánh với tranh trường phái ấn tượng. Henry James kiên định tin rằng các nhà văn ở Anh và Mỹ nên được tự do tối đa trong việc thể hiện thế giới quan của mình, giống như các nhà văn Pháp. Chất sáng tạo trong thủ pháp sử dụng góc nhìn, độc thoại nội tâm và người trần thuật không đáng tin cậy trong các câu chuyện và tiểu thuyết của ông mang lại chiều sâu và sự hấp dẫn mới cho thể loại hư cấu hiện thực, và báo hiệu sự đổi mới trong văn học của thế kỉ hai mươi. Là một nhà văn có bút lực phi phàm, bên cạnh số lượng tác phẩm hư cấu đồ sộ, ông còn xuất bản báo, sách du lịch, tiểu sử, tự truyện, phê bình văn học, và kịch. Một số vở kịch của ông được biểu diễn lúc sinh thời và đạt được thành công nhất định. Tác phẩm kịch của ông được cho là có ảnh hưởng sâu rộng tới truyện và tiểu thuyết của ông sau này. Henry James từng được đề cử giải Nobel Văn học vào các năm 1911, 1912, và 1916. Từ khi xuất hiện lần đầu vào năm 1898 đến nay, CHUYỆN MA ÁM Ở TRANG VIÊN BLY đã được mệnh danh là một trong những truyện ma nổi tiếng nhất thế giới, là nguyên tác và nguồn cảm hứng cho hàng loạt các tác phẩm chuyển thể cũng như sản phẩm làm lại thuộc nhiều loại hình khác nhau: phim điện ảnh, phim truyền hình, opera, kịch, balê “Một câu chuyện nhỏ độc hại đến sửng sốt, và cũng tuyệt diệu nhất.” – OSCAR WILDE - “CHUYỆN MA ÁM Ở TRANG VIÊN BLY là một trong những câu chuyện ma rùng rợn nhất từ trước đến nay, phần lớn là vì nó khó nắm bắt theo cách quá hấp dẫn.” – GILLIAN FLYNN - *** Chúng tôi quây quần quanh lò sưởi, nín thở lắng nghe câu chuyện, nhưng ngoài lời nhận xét hiển nhiên rằng nó rất ghê rợn, mà chuyện kinh dị vào đêm giáng sinh trong một ngôi nhà cũ thì tất phải ghê rợn, tôi nhớ rằng không ai lên tiếng bình luận gì cho đến khi có người tình cờ nói rằng anh ta từng gặp duy nhất một trường hợp tương tự, xảy đến với một đứa trẻ. Tôi xin nói thêm rằng trường hợp đó là về hồn ma trong một ngôi nhà cũ giống như ngôi nhà chúng tôi đang tụ tập vào dịp này - một vụ hiện hồn kinh khủng, xảy đến với một cậu bé đang ngủ trong phòng với mẹ. Cậu bé đã đánh thức người mẹ trong cơn khiếp hãi; nhưng trước khi người mẹ kịp xua tan cơn sợ và dỗ dành cậu ngủ tiếp, bản thân bà cũng chứng kiến cảnh tượng khiến cậu run rẩy. Nhận xét này đã khơi gợi lời hồi đáp từ Douglas - không phải ngay lúc đó, mà vào tối muộn - dẫn đến một kết quả thú vị khiến tôi chú ý. Câu chuyện người khác đang kể chẳng hấp dẫn lắm, và tôi nhận thấy anh không chú ý lắng nghe. Tôi cho đó là dấu hiệu thể hiện rằng bản thân anh có chuyện muốn kể và chúng tôi chỉ cần chờ đợi. Quả thực chúng tôi đã đợi đến hai đêm sau; nhưng vào tối hôm đó, trước khi chúng tôi giải tán, anh đã nói ra ý nghĩ trong đầu mình. “Tôi đồng ý - về hồn ma của Griffin, hay dù nó là gì đi nữa - rằng việc nó xuất hiện cho cậu bé nhìn thấy trước, ở cái tuổi dễ tổn thương như vậy, đã thêm điểm nhấn cho câu chuyện. Nhưng đây không phải lần đầu tôi nghe về kiểu chuyện hấp dẫn này liên quan đến trẻ con. Nếu một đứa trẻ đã thêm nhát búa chát chúa cho hiệu quả câu chuyện, thì các vị nói sao với haiđứa trẻ…?” “Tất nhiên chúng tôi sẽ bảo rằng chúng mang đến hai nhát búa! Và rằng chúng tôi muốn nghe chuyện về chúng,” có người thốt lên. Tôi vẫn còn có thể hình dung ra Douglas đứng quay lưng về phía ngọn lửa, hai tay đút túi, nhìn xuống những người đang trò chuyện với mình. “Cho đến giờ, chưa có ai ngoài tôi từng nghe chuyện này. Câu chuyện có phần quá kinh khủng.” Câu này đương nhiên là đã được vài người nói ra để tạo hiệu quả tối đa cho câu chuyện của mình, và người bạn của chúng tôi, với nghệ thuật kể chuyện tinh tế, chuẩn bị cho chiến thắng của mình bằng cách đưa mắt nhìn chúng tôi rồi nói tiếp: “Vượt ra ngoài tất cả. Tôi chưa từng biết đến thứ gì có thể chạm tới câu chuyện này.” “Về mặt đáng sợ ư?” Tôi nhớ mình đã hỏi như vậy. Dường như anh muốn đáp rằng không chỉ đơn giản như vậy; như thể anh thực sự không tìm được từ thích hợp để miêu tả. Anh đưa tay xoa mắt, khẽ nhăn mặt. “Về độ kinh hoàng!” “Ôi, hấp dẫn quá đi mất!” Một người trong cánh phụ nữ kêu lên. Anh không hề chú ý đến cô ta; anh nhìn tôi, nhưng như thể thay vì tôi, anh đang nhìn thấy thứ mình nói đến. “Về sự xấu xa dị hợm nói chung, về nỗi khiếp sợ và đau đớn.” “Chà,” tôi bảo, “thế thì hãy ngồi xuống và bắt đầu kể ngay đi.” Anh quay về phía ngọn lửa, đưa chân gẩy một khúc gỗ, ngắm nhìn chốc lát. Rồi anh quay lại đối mặt với chúng tôi: “Tôi chưa bắt đầu kể được. Tôi phải gửi thư vào thành phố đã.” Một loạt tiếng ca thán vang lên, kèm theo trách móc; sau đó anh liền giải thích, vẫn với vẻ lơ đãng: “Câu chuyện đã được ghi lại và cất giữ trong ngăn kéo suốt nhiều năm. Tôi có thể viết thư và gửi kèm chìa khóa cho người của mình; anh ta sẽ gửi bưu kiện tới đây khi tìm thấy nó.” Cá nhân tôi cảm thấy dường như anh chủ động đề xuất việc này - có vẻ anh gần như kêu gọi mọi người giúp anh thôi do dự. Anh đã phá vỡ một lớp băng dày tích tụ qua nhiều mùa đông; anh có những lí do riêng để giữ im lặng lâu như vậy. Những người khác bất mãn với sự trì hoãn, nhưng chính những trăn trở của anh đã hấp dẫn tôi. Tôi yêu cầu anh viết thư để gửi ngay chuyến bưu chính đầu tiên và anh đồng ý cho chúng tôi nghe chuyện sớm; rồi tôi hỏi anh trải nghiệm mà anh nói đến có phải của chính bản thân anh hay không. Với câu hỏi này, anh trả lời ngay tức khắc. “Ôi, ơn Chúa, không!” “Vậy còn bản ghi chép là của anh? Anh đã ghi lại câu chuyện đó?” “Tôi không ghi lại gì ngoài ấn tượng về nó. Tôi ghi khắc vào đây,” anh vỗ lên tim mình. “Tôi chưa từng quên.” “Vậy bản ghi chép…?” “Là một bản thảo cũ kĩ, đã phai màu mực, bằng bút tích đẹp nhất trên đời.” Anh lại quay về phía ngọn lửa. “Bút tích của một phụ nữ. Cô đã qua đời hai mươi năm rồi. Cô gửi cho tôi những trang giấy ấy trước khi chết.” Lúc này tất cả bọn họ đều đang lắng nghe, và tất nhiên có người tỏ ý trêu chọc, hay ít nhất là rút ra suy diễn. Nhưng anh bác bỏ suy diễn một cách nghiêm túc, dù cũng không tỏ vẻ bực bội. “Cô là một người hết sức duyên dáng, nhưng cô lớn hơn tôi mười tuổi. Cô là gia sư của em gái tôi,” anh lặng lẽ nói thêm. “Cô là người phụ nữ đáng mến nhất tôi từng biết ở địa vị đó; dù làm bất cứ nghề nghiệp gì, cô cũng sẽ là một người đáng kính, chuyện đã lâu lắm rồi, và câu chuyện kia còn lâu hơn nữa. Khi ấy tôi đang học ở trường Trinity, tôi gặp cô khi về nhà vào mùa hè năm thứ hai. Năm ấy tôi ở nhà khá nhiều - một mùa hè đẹp. Chúng tôi đã đi dạo và nói chuyện vài lần trong vườn vào giờ nghỉ của cô - những cuộc trò chuyện khiến tôi phát hiện cô cực kỳ thông minh và dễ mến. Ô đúng vậy; đừng cười: tôi yêu quý cô rất nhiều và đến tận hôm nay vẫn lấy làm vui mừng khi nghĩ cô cũng quý mến tôi. Nếu không thì cô đã không kể với tôi rồi. Cô chưa từng kể với bất cứ ai. Không chỉ vì cô nói vậy, mà tôi biết là thực sự cô chưa từng kể. Tôi không chỉ biết chắc; tôi thấy rõ như vậy. Các vị sẽ dễ dàng rút ra kết luận ngay khi nghe chuyện.” “Bởi vì câu chuyện ấy quá đáng sợ?” Anh tiếp tục nhìn chăm chú về phía tôi. “Các vị sẽ tự rút ra kết luận,” anh nhắc lại. “Anh sẽ tự rút ra kết luận.” Tôi cũng nhìn anh không chớp. “Tôi hiểu rồi. Cô ấy đang yêu.” Anh bật cười lần đầu tiên. “Anh nói đúng đấy. Phải, cô đang yêu. Đúng hơn là đã từng yêu. Điều đó thể hiện rõ ràng - cô không thể kể câu chuyện của mình mà không biểu lộ điều đó. Tôi đã thấy, và cô thấy rằng tôi đã thấy; nhưng không ai trong chúng tôi nhắc đến. Tôi nhớ như in thời gian và địa điểm - nơi góc thảm cỏ, dưới bóng râm của hàng sồi lớn và buổi chiều mùa hè dài nóng bức. Đó không phải khung cảnh thích hợp để nghe chuyện kinh dị; nhưng ối chao…!” Anh rời bỏ lò sưởi và thả mình lại ghế ngồi. “Anh sẽ nhận được bưu kiện vào sáng thứ Năm?” Tôi hỏi. “Chắc phải đến chuyến bưu chính thứ hai.” “Vậy thì, sau bữa tối…” “Các vị đều sẽ gặp tôi ở đây?” Anh lại nhìn khắp lượt chúng tôi. “Sẽ không có ai rời đi chứ?” Giọng điệu anh gần như mong đợi. “Tất cả mọi người đều sẽ ở lại!” “Tôi sẽ ở lại” và “Tôi sẽ ở lại!” là tiếng kêu của những quý cô đã định sẵn ngày rời đi. Tuy nhiên bà Griffin tỏ ý muốn biết thêm. “Cô ấy đang yêu ai?” “Câu chuyện sẽ nói rõ,” tôi tranh lời đáp. “Ôi, tôi nóng lòng nghe chuyện quá!” “Câu chuyện sẽ không nói rõ đâu,” Douglas nói; “không nói theo một cách lộ liễu, sỗ sàng.” “Thế thì thật đáng tiếc. Tôi chỉ hiểu được theo mỗi cách ấy.” “Anh cũng không nói ư, Douglas?” Một người khác hỏi. Anh lại đứng bật dậy. “Có - ngày mai. Giờ thì tôi phải đi ngủ thôi. Chúc ngủ ngon.” Rồi anh nhanh chóng vớ lấy một ngọn nến, và bỏ lại chúng tôi trong ngỡ ngàng. Từ đầu bên này của hành lang màu nâu rộng lớn chúng tôi nghe thấy tiếng chân anh bước lên cầu thang; khi đó bà Griffin nói: “Chà, nếu tôi không biết cô ấy đang yêu ai, thì tôi cũng biết anh ấy yêu ai.” “Cô ấy già hơn mười tuổi,” chồng bà đáp lại. “Càng thêm lí do… ở cái tuổi ấy! Nhưng anh ấy giữ kín lâu như vậy cũng khá là đáng quý.” “Bốn mươi năm!” Griffin nói thêm. “Rốt cuộc bảy giờ cũng vỡ oà ra.” “Sự vỡ oà này,” tôi đáp lại, “sẽ biến tối thứ Năm thành một dịp đặc biệt.” Và mọi người đều đồng ý với tôi rằng, trước tình huống này, chúng tôi đều đã mất hứng thú với mọi câu chuyện khác. Câu chuyện cuối cùng, dù không hoàn chỉnh và chỉ như mở đầu của một loạt truyện dài kì, đã được kể ra; chúng tôi bắt tay và “bắt nến”, như một người nói, rồi đi ngủ. Ngày hôm sau, tôi biết rằng một lá thư kèm theo chìa khoá đã được gửi đến căn hộ của Douglas ở London vào chuyến bưu chính đầu tiên. Nhưng dù tin đó đã bị lan truyền cho mọi người, hay phải chăng chính vì lẽ đó, chúng tôi để anh yên cho đến sau bữa tối, thực tế là tới tận khi đã khuya đến mức thích hợp với bầu không khí mà kỳ vọng của chúng tôi tạo lập nên. Khi đó anh trở nên cởi mở đúng như chúng tôi mong muốn và cho chúng tôi lí do chính đáng nhất về thái độ cởi mở đó. Một lần nữa chúng tôi tụ tập trước lò sưởi trong đại sảnh để nghe anh kể, giống như tối hôm trước, khi chúng tôi bị anh khơi gợi tâm trí. Có vẻ như bản tường thuật mà anh hứa sẽ đọc cho chúng tôi nghe thực sự cần một lời mở đầu thích đáng. Tôi xin được nói rõ rằng bản tường thuật mà tôi trình bày dưới đây được lấy từ bản chép nguyên văn do chính tôi ghi lại nhiều năm sau đó. Douglas tội nghiệp đã gửi bản thảo cho tôi trước khi chết - khi anh thấy rõ cái chết sắp đến gần. Bản thảo đến tay anh vào ngày thứ ba của cuộc tụ tập và vào đêm thứ tư, tại đúng chỗ hôm trước, với sự truyền cảm mạnh mẽ, anh bắt đầu đọc trước đám đông quây quần. May thay, các quý cô hôm trước hứa sẽ ở lại cuối cùng lại thất hứa: họ đã rời đi theo lịch trình định sẵn, mang theo lòng hiếu kì sôi sục mà anh đã gợi lên trong tất cả chúng tôi, theo như lời họ thừa nhận. Nhưng điều đó chỉ khiến đám đông thính giả cuối cùng của anh thêm thu gọn và có chọn lọc, chia sẻ một đam mê chung, vây quanh ngọn lửa. Những dòng đầu tiên cho biết rằng bản ghi chép này được thực hiện tại thời điểm sau khi câu chuyện đã bắt đầu. Theo đó, người bạn cũ của Douglas - cô con gái út của một mục sư nông thôn nghèo - ở tuổi hai mươi, đã đến London để nhận công việc dạy học đầu tiên. Lòng đầy hồi hộp, cô tới gặp mặt trực tiếp người đăng quảng cáo tuyển dụng mà trước đó cô đã trao đổi qua thư. Khi cô trình diện tại ngôi nhà đồ sộ và bề thế trên phố Harley, ông chủ tương lai thể hiện mình là một quý ông độc thân lịch thiệp đang tuổi tráng niên; hình tượng như vậy chưa từng xuất hiện, trừ trong mơ hay tiểu thuyết, trước một cô gái đầy xúc động, hồi hộp, đến từ một ngôi nhà của mục sư vùng Hampshire. Mẫu người như anh không bao giờ lỗi thời. Điển trai, bạo dạn và nhã nhặn, tự nhiên, vui vẻ và nhân từ. Tất nhiên anh gây cho cô ấn tượng lịch thiệp và phong nhã, nhưng điều chinh phục cô hơn cả và cho cô lòng dũng cảm mà cô thể hiện về sau là việc anh đã coi toàn bộ công việc của cô như một ân huệ, một trách nhiệm mà đáng lẽ anh phải vui lòng đảm đương. Cô nhận thấy anh giàu có, nhưng cũng xa hoa đến khiếp đảm - cô đã thấy anh trong trang phục đắt tiền hào nhoáng, trong diện mạo đẹp đẽ, trong những thói quen đắt đỏ, trong vẻ phong lưu trước mặt phụ nữ. Nơi ở tại thành phố của anh là một ngôi nhà rộng lớn chứa đầy chiến lợi phẩm và đồ lưu niệm từ du lịch và săn bắn; nhưng nơi anh muốn cô đến ngay lập tức là ngôi nhà ở quê, một biệt thự cổ của gia đình tại Essex. Anh bị trao quyền giám hộ hai đứa cháu một trai một gái, con của người anh trai trong quân ngũ, sau cái chết của cha mẹ chúng tại Ấn Độ vào hai năm trước. Với một người đàn ông ở địa vị của anh - độc thân, không có cả kinh nghiệm lẫn chút ít kiên nhẫn nào - bọn trẻ là gánh nặng rất lớn. Điều này gây ra nỗi lo lớn cùng một loạt sai lầm, hẳn nhiên là từ phía anh, nhưng anh vô cùng xót thương bọn trẻ tội nghiệp và đã làm tất cả những gì có thể. Cụ thể thì anh đã gửi chúng về ngôi nhà khác của mình ở nông thôn, là môi trường thích hợp dành cho chúng, và để chúng ở đó với những người tốt nhất mà anh tìm được để chăm nom chúng, anh thậm chí đã cử chính những người hầu của mình đi phục vụ chúng, và về thăm chúng mỗi khi có thể. Điều khó xử là chúng không còn người thân nào khác, mà việc riêng của anh đã chiếm dụng toàn bộ thời gian. Anh đã cho chúng sở hữu Bly, một nơi an toàn và lành mạnh, đồng thời cử bà Grose, một người phụ nữ xuất sắc, làm người đứng đầu tại dinh cơ nho nhỏ của chúng. Bà Grose từng là hầu gái cho mẹ của anh và anh tin chắc vị khách của mình sẽ quý mến bà. Hiện giờ bà là quản gia và cũng tạm thời đóng vai trò chăm nom bé gái; may mắn thay, bà cực kỳ yêu quý cô bé, vì bản thân bà không có con cái. Còn có nhiều người giúp việc khác, nhưng tất nhiên cô gái trẻ chuẩn bị đến đó làm gia sư sẽ nắm quyền hành tối cao. Vào các kỳ nghỉ, cô cũng sẽ phải trông nom bé trai, cậu bé đã đi học được một kì - dù tuổi hơi nhỏ, nhưng còn cách nào khác đâu? - và chuẩn bị về vì kỳ nghỉ sắp bắt đầu. Trước đó từng có một cô gái khác trông nom hai đứa trẻ nhưng cô ta không may đã mất. Cô ta làm việc khá xuất sắc - là một người hết sức đáng kính - cho đến khi qua đời, dẫn đến tình huống khó xử khiến cho Miles bé nhỏ không còn lựa chọn nào khác ngoài trường học. Kể từ đó, bà Grose đã phụ trách dạy dỗ Flora trong khả năng của mình, về mặt phép tắc và lễ nghi. Ngoài ra còn có một đầu bếp, hầu gái, người phụ nữ phụ trách việc bơ sữa, một con ngựa lùn già, cùng người giữ ngựa, và một người làm vườn già, tất cả đều vô cùng đáng kính. Sau khi Douglas trình bày bối cảnh đến đây, có người đặt câu hỏi. “Thế cô gia sư trước chết vì cái gì? Chết ngộp trong đáng kính chắc?” Bạn tôi trả lời ngay tức khắc. “Sau này sẽ nói. Tôi không báo trước.” “Xin lỗi, tôi nghĩ báo trước chính là việc anh đang làm.” “Đứng từ vị trí của người kế nhiệm cô ta,” tôi gợi ý, “tôi sẽ muốn được biết nếu công việc đi kèm với…” “Nguy hiểm đến tính mạng?” Douglas nói tiếp suy nghĩ của tôi. “Cô ấy quả thực muốn biết, và cô ấy đã biết. Ngày mai anh sẽ được nghe chuyện gì cô ấy đã biết. Còn trước mắt, tất nhiên, viễn cảnh đối với cô có vẻ ảm đạm. Cô còn trẻ, thiếu kinh nghiệm, đầy lo lắng: một viễn cảnh với nhiều trách nhiệm và ít bầu bạn, cùng nỗi cô đơn to lớn. Cô do dự - mất vài ngày đắn đo cân nhắc. Nhưng mức lương được trả cao hơn hẳn mức sống đạm bạc của cô. Cô đã nhận lời vào buổi phỏng vấn thứ hai.” Và đến đây, Douglas tạm dừng, khiến tôi góp lời thay mặt cho mọi người… “Mà cốt lõi của việc này tất nhiên là sức quyến rũ của chàng thanh niên phong nhã. Cô ấy đã bị chinh phục.” Anh đứng dậy và, như đã làm vào đêm hôm trước, bước về phía lò sưởi, dùng chân gẩy một thanh củi, rồi đứng quay lưng về phía chúng tôi trong chốc lát. “Cô chỉ gặp anh ta hai lần.” “Đúng vậy, nhưng điều đó càng nói lên tình cảm của cô ấy.” Tôi hơi ngạc nhiên khi Douglas nghe vậy và quay về phía tôi. “Chính là như thế. Có những người khác,” anh nói tiếp, “không bị chinh phục. Anh ta đã nói thành thật với cô mọi khó khăn của mình - rằng một số ứng viên khác cho rằng điều kiện công việc quá khắt khe. Vì lẽ nào đó họ thực sự e ngại. Công việc này nghe có vẻ tẻ nhạt - có vẻ kỳ quặc; và hơn hết là do điều kiện chính anh ta đặt ra.” “Đó là…?” “Là cô không bao giờ được làm phiền anh ta - tuyệt đối không bao giờ: dù là để yêu cầu, than phiền, hay vì bất kể lý do gì; cô chỉ có thể tự mình giải quyết mọi vấn để, nhận mọi khoản tiền từ luật sư của anh ta, đảm nhận toàn bộ trách nhiệm và để anh ta yên. Cô hứa sẽ làm như vậy, và cô kể với tôi rằng cô đã cảm thấy được đền đáp khi anh ta nắm lấy tay cô trong giây lát, vui mừng vì thoát khỏi gánh nặng, cảm ơn cô vì sự hi sinh.” “Nhưng cô ấy chỉ được đền đáp có như vậy thôi ư?” Một người trong cánh phụ nữ hỏi. “Cô ấy không bao giờ gặp anh ta nữa.” “Ôi!” Người phụ nữ nọ đáp. Và đó là từ duy nhất góp thêm vào chủ đề này, khi bạn chúng tôi lại một lần nữa lập tức bỏ chúng tôi mà đi, cho đến đêm hôm sau, bên góc lò sưởi, trong chiếc ghế thoải mái nhất, anh mở tấm bìa đỏ phai màu của một cuốn sổ mỏng viền vàng cũ kĩ. Cả câu chuyện mất hơn một đêm để kể, nhưng ngay khi có cơ hội, vẫn người phụ nữ hôm trước đặt một câu hỏi nữa. “Đầu đề anh đặt cho câu chuyện là gì?” “Tôi chưa đặt.” “Ôi, tôi thì có!” Tôi thốt lên. Nhưng Douglas không để ý đến tôi và bắt đầu đọc bằng giọng rành rọt như thể biểu đạt với tai người nghe vẻ đẹp của bút tích tác giả. Mời các bạn đón đọc Chuyện Ma Ám Ở Trang Viên Bly của tác giả Henry James & Nguyên Hương (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Thằng Khờ
Sau khám phá về tập san bí ẩn của trường Kamiyama cách đây ba mươi ba năm, một cuộc phiêu lưu mới lại mở ra với bốn thành viên của Câu lạc bộ Cổ Điển: truy tìm hung thủ giết người trong một bộ phim đang quay dở. Nhưng thử thách lần này gai góc vượt xa những gì họ hình dung, bởi: không thể tiếp cận tác giả kịch bản, hiện trường quay phim lại quá xa, các dữ kiện xuất hiện trên phim rất chặt chẽ, khó tìm ra sơ hở… *** Kem đá là một tiểu thuyết thuộc thể loại kỳ bí, học đường sáng tác bởi nhà văn Yonezawa Honobu xuất bản năm 2001. Đây là tập sách đầu tiên trong seri "Câu lạc bộ Cổ Điển"  gồm tổng cộng 6 tập tính đến năm 2016.  Kem Đá Thằng Khờ Trình tự Kudryavka Búp bê Hina đi đường vòng Khoảng cách xấp xỉ giữa hai người  Dù được ban đôi cánh *** Số đăng nhập 00205 Hãy nhập tên: Có thật là, không còn cách nào khác không? Mayuko: Tớ xin lỗi! Hãy nhập tên: Cứ thế này thì cậu sẽ thành kẻ tội đồ đấy. Kể cả như vậy? Mayuko: Tớ sẽ xin lỗi mọi người Mayuko: Tớ nghĩ chỉ còn cách đó Hãy nhập tên: Không phải chuyện cứ xin lỗi là xong đâu Hãy nhập tên: Không phải tớ trách cậu Hãy nhập tên: Mà ý tớ đang nói là phải giải quyết bằng được Mayuko: Tớ hiểu Mayuko: Tớ Mayuko: Xin lỗi Hãy nhập tên: Vậy à? Tớ hiểu rồi Hãy nhập tên: Quả thật ngay từ đầu đã không đúng người đúng việc Hãy nhập tên: Cậu đã rất cố gắng đến tận bây giờ rồi Mayuko: Tớ xin lỗi Hãy nhập tên: Thôi được rồi! Cậu không phải xin lỗi nữa Hãy nhập tên: Phần còn lại cứ để tớ xử lý Mayuko: Cậu làm giúp tớ ư? Hãy nhập tên: Nếu có thể thì tớ đã làm ngay từ đầu rồi Hãy nhập tên: Tớ thì không thể. Nhưng tớ sẽ tìm cách Mayuko: ? Hãy nhập tên: Có điều, cho dù suôn sẻ đi chăng nữa cũng chưa chắc sẽ Hãy nhập tên: Theo hướng cậu mong muốn Số đăng nhập 00209 Mình ♪: Xin lỗi nha~! Hãy nhập tên: Không ạ Hãy nhập tên: Chuyện là như vậy, nên cũng không có cách nào Mình ♪: Kohai* dễ thương có lời nhờ mà, mình cũng muốn giúp lắm. Mình ♪: Chỉ có mỗi việc này là… Mình ♪: Quả thật mình không xoay xở được với khoảng cách và thời gian như vậy Hãy nhập tên: À… ừm… Hãy nhập tên: Sempai* có nhớ ra ai khác không? Hãy nhập tên: Ai có thể làm được việc đó Mình ♪: Ai khác à… Mình ♪: Không Mình ♪: … Hãy nhập tên: Sempai? Mình ♪: zzz… Hãy nhập tên: Sempai Mình ♪: Đùa đấy! Mình ♪: Không nhờ vả được nhưng mà, tùy theo cách sử dụng Mình ♪: Thì có thể sẽ sai khiến được hắn đấy Số đăng nhập 00214 Hãy nhập tên: Thế nào? L: Nhất định, em sẽ thi! L: Em nhầm, em sẽ đi Hãy nhập tên: Nếu được thế thì bên chị cũng mừng Hãy nhập tên: Thời gian và địa điểm chị sẽ thông báo sau L: Mất háo hức ạ! L: Mất ạ L: Rất Hãy nhập tên: Có thể em không biết Hãy nhập tên: Không cần đổi phông chữ đâu Hãy nhập tên: Cứ ấn Enter là được L: Chế ạ? L: Thế ạ? L: A, đúng thật này! Hãy nhập tên: Vậy, nhờ em nhé Hãy nhập tên: Phải rồi, nếu đằng nào cũng tới L: Vâng Hãy nhập tên: Em rủ thêm bạn đi cùng cũng được. Đúng rồi, chỉ ba người L: Được ạ? Hãy nhập tên: Là thành viên câu lạc bộ Cổ Điển phải không nhỉ? Hãy nhập tên: Chị rất vui nếu em dẫn các bạn thành viên khác cùng đến ... Mời các bạn đón đọc ​Thằng Khờ của tác giả Yonezawa Honobu.
Địa Ngục Đỏ
Nhiều tháng sau khi hồn ma của Anna Korlov mở cánh cửa dẫn tới Địa ngục và bước qua, Cas vẫn không thể vượt qua chuyện đó. Cậu nhìn thấy Anna ở khắp mọi nơi, trong lúc ngủ và trong những cơn ác mộng. Nhưng mọi thứ có vẻ rất bất thường… Những thứ Cas trông thấy không phải là ảo ảnh. Anna đang bị tra tấn và mỗi lần xuất hiện, cô dường như lại phải chịu nhiều đau đớn hơn. “Cassio,” em thì thầm. “Hãy đưa em ra khỏi đây.” Cas không biết chuyện gì đã xảy ra với Anna sau khi cô xuống Địa ngục nhưng cậu biết cô không đáng phải chịu những cực hình đó. Anna đã cứu mạng Cas nhiều lần, giờ đã đến lúc cậu trả ơn cô. *** Bộ sách Anna Korlov gồm có: Oan Hồn Máu Địa Ngục Đỏ ... *** Kendare Blake là tác giả của sáu cuốn tiểu thuyết bao gồm: Sleepwalk Society, series kinh dị "Oan hồn máu" (Anna Dressed in Blood - 2011) và Girl of Nightmares (2012), series The Goddess War được xây dựng dựa trên nền tảng cuộc chiến của các vị thần trong thần thoại Hy Lạp gồm Antigoddess (2013), Mortal Gods (2014), và Ungodly (2015).  Đồng thời, cô dự định ra mắt series truyện thuộc thể loại Dark fantasy mang tên Three Dark Crowns vào năm 2016.   Kendare Blake sinh ra tại thủ đô Seoul, Hàn Quốc nhưng lớn lên ở thành phố nhỏ của Cambridge, bang Minnesota. Cô tốt nghiệp Đại học Ithaca, ở Ithaca, New York đồng thời nhận được bằng Thạc sĩ chuyên ngành Văn phong sáng tạo (Creative Writing) từ Đại học Middlesex tại London, Anh. Các tác phẩm của cô được bình chọn và lọt vào top 5 những cuốn tiểu thuyết kinh dị ăn khách năm 2011 trên Đài phát thanh Công chúng quốc gia của Mỹ, top 10 Kirkus. *** Tôi nghĩ mình đã từng xử lý một cô gái trông giống như cô này. Đúng rồi. Tên cô bé là Emily Danagger. Cô bé bị một tay thầu khoán thi công xây dựng nhà cho bố mẹ cô sát hại vào năm cô 13 hay 14 gì đấy. Thi thể cô bé bị nhét vào tường trong tầng áp mái rồi xây lấp lại. Tôi chớp mắt và lầm bầm trả lời qua quýt cho câu gì đấy mà cô gái trước mặt vừa hỏi. Xương gò má của Emily cao hơn. Cái mũi trông cũng khác. Nhưng hình dáng khuôn mặt thì khá giống, cứ như thể tôi đang nhìn vào cô bé mình đã lần theo lên đến phòng dành cho khách trên lầu. Tôi mất gần một tiếng đồng hồ dùng dao tế chém hết bức tường này đến bức tường khác khi cô bé cứ thoắt ẩn thoắt hiện và cố lén ra đằng sau tôi. “Tớ thích phim quái vật,” cô gái ngồi trước mặt, tên gì tôi cũng chẳng nhớ, lên tiếng. “Tớ mê Jigsaw 1* và Jason2* . Còn cậu?” * Nhân vật phản diện trong phim kinh dị Saw. * Jason Voorhees: nhân vật phản diện trong phim Friday the 13th. “Tớ không khoái phim quái vật mấy,” tôi đáp và chẳng buồn đính chính rằng cả Jigsaw lẫn Jason về cơ bản không phải là quái vật. “Tớ thích những vụ nổ, hiệu ứng đặc biệt.” Là Cait Hecht, tôi bất chợt nhớ ra tên cô. Cô là học sinh lớp 10 trường Winston Churchill. Cait có đôi mắt màu nâu lục nhạt, quá to so với khuôn mặt, nhưng trông cũng xinh. Tôi không biết mắt của Emily Danagger màu gì. Lúc tôi gặp Emily, mắt cô bé đã không còn chút huyết sắc. Tôi nhớ khuôn mặt cô bé, trắng bệch nhưng vẫn có hai con mắt, ẩn hiện giữa lớp giấy dán tường bạc màu. Nghĩ lại thì có vẻ ngớ ngẩn nhưng lúc ấy, nó là trò chơi đập chuột phiên bản ma quái vô cùng căng thẳng. Tôi ướt đẫm mồ hôi. Chuyện xảy ra cũng lâu lắm rồi, khi tôi nhỏ tuổi hơn và dễ bị kích động hơn. Phải nhiều năm sau tôi mới bắt đầu đối mặt với những linh hồn có sức mạnh thực sự - những linh hồn như Anna Korlov, người con gái lẽ ra đã có thể xé xác tôi bất kỳ khi nào em muốn, nhưng rốt cuộc lại cứu mạng tôi. Tôi đang ngồi ở cái bàn trong góc một tiệm cà phê trên phố Bay. Carmel đối diện với hai người bạn nữa của cô ấy, Jo và Chad. Tôi nghĩ hai người này đã cặp kè nhau từ năm lớp 7. Rùng cả mình. Bên cạnh tôi, Cait Hecht nghiễm nhiên được cho là bạn hẹn của tôi. Chúng tôi vừa đi xem phim. Tôi không nhớ phim có nội dung gì nhưng hình như có mấy con chó khổng lồ. Cô đang nói chuyện với tôi kèm theo những cử chỉ điệu bộ quá đà, nhướng cao mày các kiểu, phô hàm răng hoàn hảo nhờ đeo niềng từ bé, cố duy trì sự chú ý của tôi. Nhưng trong đầu tôi chỉ toàn nghĩ sao cô giống Emily Danagger đến vậy, mỗi tội ít thú vị hơn. “Ừm,” cô ngượng ngập nói, “cậu thấy cà phê thế nào?” “Ngon,” tôi đáp. Tôi cố mỉm cười. Đây không phải lỗi tại cô. Carmel mới chính là người lôi tôi vào trò hề này và tôi làm theo để cô ấy thôi lải nhải. Tôi cảm thấy mình thật khốn nạn khi làm lãng phí thời gian của Cait. Còn khốn nạn hơn khi ngầm so sánh cô với một linh hồn tôi đã tiêu diệt 4 năm trước. Cuộc nói chuyện đi vào ngõ cụt. Tôi uống một ngụm lớn cà phê. Mà đúng là nó rất ngon, nhiều đường, kem đánh xốp và quả phỉ. Bên dưới bàn, Carmel đá một cái khiến suýt chút nữa thì tôi sặc. Khi tôi ngước lên thì cô ấy đang nói chuyện với Jo và Chad những rõ là cô ấy cố ý. Tôi đang là một bạn hẹn bất lịch sự. Bên dưới mắt trái cô ấy bắt đầu giật giật. Tôi nhanh chóng tìm cách lịch sự trò chuyện. Nhưng tôi không khuyến khích chuyện này hay bật đèn xanh với cô. Dù sao tôi cũng không hiểu lý do cô muốn đi chơi với tôi. Sau những gì xảy đến với Mike, Will và Chase năm ngoái - Mike bị Anna giết, còn Will và Chase bị gã pháp sư ăn thịt - tôi bị cả trường xa lánh. Tôi không hề dính líu đến cái chết của mấy đứa đó, nhưng tất thảy đều nghi ngờ. Mọi người biết ba đứa đó ghét tôi và cuối cùng, chúng nó lại chết Có cả những giả thuyết về những chuyện có thể đã xảy ra, những đồn thổi thất thiệt cứ lan truyền rồi biến thành một mớ hổ lốn lố bịch, nhảm nhí và biến mất dần. Là ma túy đấy, thiên hạ rỉ tai nhau. Không phải, là một đường dây mại dâm ngầm. Cas cung cấp thuốc kích thích để chúng nó thể hiện tốt hơn. Cậu ta kiểu như một tên ma cô buôn ma túy ấy. Mọi người lờ tôi đi ở hành lang và tránh nhìn vào mắt tôi. Tôi nghe họ bàn tán về mình và nhiều khi, tôi nghĩ lại về quyết định học hết cấp ba ở Thunder Bay. Tôi không chịu nổi những đứa đầu đất với một mớ giả thuyết mà hầu hết đều vô cùng kỳ dị, nhưng chẳng đứa nào nhắc đến câu chuyện ma mà ai cũng biết. Không ai nói về Anna. Đó ít ra cũng là một tin đồn đáng nghe. Mấy lần tôi đã bảo mẹ chuẩn bị tìm cho chúng tôi một ngôi nhà ở một thành phố khác, nơi tôi có thể đi săn bao nhiêu linh hồn sát nhân cũng được. Lẽ ra chúng tôi đã dọn đi cách đây mấy tháng rồi nếu không phải vì Thomas và Carmel. Liếc nhìn đồng hồ trên tường, mới có 5 phút kể từ lần cuối cùng tôi nhìn nó. Tôi nghĩ có lẽ nó đã bị hỏng. Khi những ngón tay của Cait khẽ chạm vào cổ tay tôi, tôi rụt lại và uống một hớp cà phê. Tôi cũng để ý thấy cô trở mình ngượng ngùng và khó chịu trước phản ứng của tôi. Đột nhiên, Carmel nói lớn, “Tớ không nghĩ Cas đã tìm hiểu các trường Đại học đâu. Phải không, Cas?” Cô ấy lại đá chân tôi, mạnh hơn. Cô ấy đang nói gì vậy? Tôi mới học lớp 11. Tại sao phải nghĩ về trường Đại học chứ? Đương nhiên, Carmel có thể đã vạch tương lai của mình từ hồi mẫu giáo rồi. “Tớ nghĩ tới trường St. Lawrence,” Cait nói khi tôi ngồi im. “Bố tớ bảo trường St. Clair có thể tốt hơn. Nhưng tớ không biết ông ấy bảo ‘tốt hơn’ là sao.” “Ừm,” tôi ậm ừ. Carmel nhìn tôi như thể tôi là một thằng đần. Tôi suýt nữa phá lên cười. Cô ấy có ý tốt, nhưng tôi tuyệt đối chẳng có gì để nói với mấy người này. Tôi ước có Thomas ở đây. Khi điện thoại trong túi bắt đầu rung, tôi liền đứng bật dậy ra khỏi bàn. Cả bọn sẽ bắt đầu nói về tôi ngay giây phút tôi ra cửa, thắc mắc không biết tôi bị gì và Carmel sẽ bảo rằng chỉ là tôi hồi hộp thôi. Muốn nói gì thì nói. Là Thomas gọi. “Này,” tôi nói. “Cậu đang đọc ý nghĩ của tớ đấy à, hay chỉ là trùng hợp?” “Tệ vậy hả?” “Không tệ hơn tớ nghĩ. Chuyện gì thế?” Tôi gần như có thể cảm thấy cậu ấy nhún vai bên kia đầu dây. “Không có gì. Chỉ nghĩ là có thể cậu cần lý do để chuồn. Tớ vừa lấy ô tô khỏi hàng sửa chữa chiều nay. Giờ nó có khi đưa được bọn mình tới Grand Marais.” Tôi vừa định nói, “Ý cậu có khi là sao?” thì cửa quán cà phê bật mở và Carmel đi ra. “Khỉ thật,” tôi làu bàu. “Sao?” “Carmel đang đến.” Cô ấy dừng lại trước mặt tôi, hai tay khoanh trước ngực. Thomas vẫn léo nhéo hỏi có chuyện gì và liệu có nên qua nhà đón tôi không. Trước khi Carmel kịp nói, tôi đã áp điện thoại vào tai và đáp được. Carmel kiếm cớ cho chúng tôi. Trong chiếc Audi, cô ấy chiến tranh lạnh thành công trong 40 giây khi lái xe xuyên qua những con phố của Thunder Bay. Có một sự trùng hợp khá lạ lùng là đèn đường nhất loạt bật lên khi chúng tôi đi qua, cứ như một người hộ tống màu nhiệm. Những con đường vẫn còn ướt với băng đọng bên lề đường. Kì nghỉ hè sẽ bắt đầu trong hai tuần nữa, nhưng có vẻ như thị trấn không hay biết điều đó. Đã cuối tháng Năm rồi mà vào ban đêm, trời vẫn lạnh toát. Dấu hiệu duy nhất cho thấy mùa đông sắp kết thúc là những cơn bão: gào thét, cùng cơn gió thổi qua hồ và quay trở lại, cuốn đi những lớp băng mỏng của mùa đông. Tôi chưa chuẩn bị tinh thần cho quá nhiều tháng lạnh lẽo như vậy. Mùa đông bao quanh thành phố như một nắm tay siết chặt. “Tại sao cậu còn vác xác đến làm gì?” Carmel hỏi. “Nếu cậu định hành xử kiểu đấy? Cậu đã làm Cait buồn.” “Chúng ta đã làm Cait buồn. Ngay từ đầu, tớ đã không muốn dính dáng gì đến rồi. Cậu mới chính là người gieo hy vọng cho cô ấy.” “Cô ấy đã thích cậu từ lớp Hóa học kỳ trước,” Carmel lườm. “Vậy lẽ ra cậu nên nói cho cô ấy biết tớ đáng ghét đến mức nào. Cậu làm tớ giống như một thằng đần.” “Tốt hơn cả là để cô ấy tự mình trải nghiệm. Cậu gần như không nói quá 5 từ với bất kỳ ai.” Nét mặt cô ấy cau lại thất vọng, thêm chút nữa là thành chán ghét. Thế rồi, cô ấy dịu mặt lại và vén mái tóc vàng ra sau lưng. “Tớ chỉ nghĩ cũng tốt nếu cậu ra ngoài và kết bạn mới.” “Tớ gặp nhiều người mới rồi.” “Ý tớ là người sống kìa.” Tôi nhìn thẳng về phía trước. Có thể cô ấy nói bóng gió về Anna, cũng có thể không. Nhưng tôi thấy hơi bực. Carmel muốn tôi quên chuyện đó đi. Quên rằng Anna đã cứu tất cả chúng tôi, rằng em đã hy sinh bản thân và kéo gã pháp sư xuống Địa ngục. Carmel, Thomas và tôi đã cố tìm hiểu chuyện gì xảy đến với em sau đêm đó, nhưng vô vọng. Tôi đoán Carmel nghĩ đã đến lúc thôi tìm kiếm và để em đi. Nhưng tôi sẽ không làm thế. Chuyện tôi có nên làm thế hay không không quan trọng. Mời các bạn đón đọc Địa Ngục Đỏ của tác giả Kendare Blake.
Ma Nữ của Laplace
Những hiện tượng dị thường xuất hiện quanh Madoka, một cô gái trẻ. Sau thời gian làm vệ sĩ cho cô, Takeo, một cựu cảnh sát, đã nhận thấy điều đó. Trong khi những nghi vấn của anh chưa có lời đáp, Madoka đột nhiên biến mất…  Cùng lúc đó, những vụ tử vong vì khíhydro sulfuaxảy đến tại hai khu du lịch suối nóng cách xa nhau. Đến hiện trường điều tra, giáo sư chuyên ngành địa hóa học Aoe chạm tránmột cô gái trẻ bí ẩn. Lần theo tung tích của cô, Aoe bắt gặp một thảm kịch kinh hoàng từ quá khứ, và sự tồn tại của một dự án tối mật có liên quan tới tương lai nhân loại…  “Một cuốn sách đáng kinh ngạc phá vỡ giá trị quan của tôi từ trước đến nay.” - Horikita Maki, – nữ diễn viên chính phim Bạch Dạ Hành *** Reviewer: Điền Yên Tôi khá phân vân trước khi đọc Ma nữ của Laplace vì cái đoạn giới thiệu ở bìa 4 sách. Cái gì mà cô gái biến mất, vòi rồng rồi thì tương lai nhân loại. Tôi đã tưởng tượng bối cảnh người ngoài hành tinh xâm chiếm trái đất không thì cũng là AI gì gì đó. Lẽ nào Keigo đã bay sang cả thể loại viễn tưởng? Đắn đo một hồi rồi tôi cũng quyết định đọc Ma nữ trước Trứng chim vì dàn trang nó đẹp hơn. Vẫn như đa số tác phẩm khác, mở đầu truyện là màn giới thiệu một loạt nhân vật và một loạt câu chuyện tưởng như chẳng liên quan gì đến nhau: một đạo diễn nổi tiếng đi nghỉ suối nước nóng cùng cô vợ trẻ đẹp bị chết vì nhiễm độc H2S, mặc dù cái chết hoàn toàn là do hiện tượng tự nhiên nhưng vẫn có quá nhiều điểm kỳ lạ nên theo thông lệ là sẽ có người nghi ngờ và kiên trì điều tra; một diễn viên vô danh cũng chết theo cách thức tương tự; một cô bé có mẹ bị chết vì vòi rồng; một cảnh vệ phải về vườn vì tăng axit uric máu bất ngờ nhận lời mời làm vệ sĩ cho một thiếu nữ… Các câu chuyện rời rạc dần được chắp nối vào nhau thành một bức tranh toàn cảnh thông qua điều tra của cảnh sát Nakaoka và giáo sư Aoe. Rất nhiều người nói “nếu biết trước thế này thì tôi đã…” nhưng dự đoán được tương lai có phải điều may mắn không? “Con người mang trong mình ước mơ vì chưa biết tương lai sẽ ra sao”. Nếu không có ước mơ, chúng ta sống như chỉ chờ để chết. Thế nên nếu cho lựa chọn biết trước tương lai hoặc không, tôi sẽ chọn vế sau. Dù sao, hiện tại cũng là một món quà và vị lai là một điều bí mật. Quay trở lại với Ma nữ của Laplace. Cội nguồn của tội ác trong tác phẩm đề cập tới một vấn đề gây tranh cãi: tội phạm có phải là bẩm sinh hay không, đặc biệt là những kẻ thái nhân cách. Có những giả thuyết cho rằng có những kẻ sinh ra đã có gen phạm tội, cấu tạo não của họ không có sự xót thương, đồng cảm nên giết chóc và hành hạ người khác với họ chẳng khác gì những việc làm bình thường như nấu ăn, xem phim. Sinh ra đã như vậy không phải lỗi của họ, vậy nếu họ phạm tội thì có bị trừng phạt không? Nếu phạm tội do bẩm sinh khuyết tật về não cũng trừng phạt thì những người đồng tính có bị trừng phạt vì “tội đồng tính” hay không, khi mà WHO đã coi đồng tính không phải bệnh mà là tự nhiên? Câu trả lời, dĩ nhiên không được tác giả đưa ra. Keigo luôn vô cùng khôn khéo trong việc đưa vấn đề cho độc giả còn mình chẳng bày tỏ gì. Kẻ thủ ác trong truyện người thì bị trừng phạt, người thì bỏ đi, một số người liên đới dù làm việc ác cũng vẫn sống nhơn nhơn. Cuộc sống luôn không công bằng và truyện của Keigo không cố gắng thay đổi điều ấy. Hầu hết bi kịch của loài người xuất phát từ lòng tham lam, sự ích kỷ, thói đố kị. Bài học rút ra từ truyện này là nếu bạn muốn giết người mà không để lại bất kỳ dấu vết nào thì cách tốt nhất là lợi dụng thiên tai để người đó chết vì thiên tai, để làm được việc này thì hoặc bạn hên hoặc bạn có một trí tuệ siêu phàm, có thể căn cứ vào các dữ liệu trong quá khứ mà dự đoán tương lai. Truyện rất cuốn hút, tình tiết lồng ghép luôn là thế mạnh vô địch của Keigo. Nhưng trong Ma nữ của Laplacd, tôi vẫn thấy thiêu thiếu điều gì đó khiến tôi không thể chấm cuốn này xuất sắc. Chấm điểm: 8-/10 *** Có vẻ cái tên Higashino Keigo không ít fan ở Việt Nam đâu nhỉ. Trả lời câu hỏi Sự cứu rỗi của thánh nữ có hay hay không? Câu trả lời là có hay. Có vẻ Nhã Nam vẫn là nhà chọn sách tốt trong rất nhiều các tác phẩm của Keigo. Sẽ chỉ nói về Thánh nữ chứ không so sánh nó với tác phẩm nào của Keigo. Cà phê, lại là cà phê. Mình nhớ trong Sự thật về Bebe Donge của Simenon thì người vợ cũng đã đầu độc chồng trong ly cà phê. Sự cứu rỗi của thánh nữ cũng liên quan đến cà phê. Thế nên các quý ông quý bà thích uống cà phê cẩn thận nha, có thể bị độc chết bất cứ lúc nào. Mashiba Yoshiaka, người chồng bị độc chết trên sàn nhà, thạch tín còn sót lại trong cốc cà phê lênh láng bên cạnh. Mọi nghi vấn được tập trung vào hai đối tượng: người vợ Ayane và cô người tình bí mật Hiromi. Vấn đề là cả hai người đều có chứng cớ ngoại phạm vững chắc. Bài toán đặt ra là làm thế nào để hạ độc Yoshitaka và đầu độc bằng cách nào? Vì trong thời điểm xảy ra vụ án không ai có khả năng tiếp cận nạn nhân. Thật ra, trong Sự cứu rỗi của thánh nữ, hung thủ có thể thấy ngay từ đầu. Vấn đề là nguyên nhân và cách thức gây án. Một bài toán vô cùng khó và có những cái không thể ngờ tới. Vẫn là những người phụ nữ. Nếu bạn nào ít nhiều đọc Keigo chắc hẳn sẽ rất ấn tượng với những người phụ nữ trong tác phẩm của ông. Họ thường đẹp và rất nguy hiểm. Sự cứu rỗi của thánh nữ cũng không ngoại lệ. Cô ấy đẹp, thu hút nhưng luôn treo cái chết trên đầu bạn. Thật sự rất nể người phụ nữ này luôn. Làm sao cô ấy có thể kiên trì sống và chịu đựng, chấp nhận cuộc sống với tình yêu và sự thù hận, treo cái chết lơ lửng từng ngày như vậy. Sự cứu rỗi của thánh nữ nằm trong series “Thám tử Galileo” Yukawa. Đọc đến nửa thì vị thám tử này mới nhập cuộc nhưng vô cùng thú vị. Có lẽ bài toán càng hóc búa thì càng thu hút vị thám tử này. Mặc dù khó tin, có thể là “đáp án ảo” chỉ “có thể chỉ xảy ra về mặt lý thuyết nhưng không hề tồn tại trong hiện thực” nhưng chứng minh đáp án đó là ảo lại cho ra một kết quả hết sức kinh ngạc của một sự thật chua xót. Và tất nhiên tác giả cũng có lồng ghép một số kiến thức rất thú vị vào trong vụ án vì thám tử Galileo là giáo sư dạy vật lý ở trường đại học mà. Cứ tưởng đâu đây là vụ án “hoàn hảo”, biết mười mươi mà không đủ bằng chứng để buộc tội gây “ức chế”, nhưng may quá, vẫn còn ánh sáng cuối đường hầm mặc dù sự thật là đau xót. Có một câu hỏi: Đàn ông quan niệm như nào về lập gia đình? Phải chăng họ lập gia đình chỉ vì cần người sinh con? Họ không cần tình yêu? Nếu không sinh được con thì người phụ nữ chẳng qua chỉ là vật trang trí trong ngôi nhà không hơn không kém? Tác phẩm: Phía Sau Nghi Can X Bạch Dạ Hành Bí mật của Naoko Thánh Giá Rỗng Điều Kỳ Diệu Của Tiệm Tạp Hóa Namiya Hoa Mộng Ảo Ngôi Nhà Của Người Cá Say Ngủ Trước Khi Nhắm Mắt Sự Cứu Rỗi Của Thánh Nữ Tên của trò chơi là bắt cóc Ác Ý Ảo Dạ Ma Nữ Của Laplace Phương Trình Hạ Chí Cáp Treo Tình Yêu Trứng Chim Cúc Cu Này Thuộc Về Ai Thư Ma Thuật Bị Cấm Án Mạng Mười Một Chữ ... *** Madoka tỉnh giấc vì một cơn rung nhẹ. Vừa mở mắt đã thấy ngay một vật là lạ trước mặt mình. Phải mất một lúc Madoka mới nhận ra đó là phần nóc của một chiếc xe hơi. Ngay sau đó Madoka nhớ ra việc mình đã tới cửa hàng cho thuê xe cạnh sân bay Asahikawa. Nhưng Madoka không thể nhớ nổi mình đã leo lên chiếc xe nào. Vì xe chạy chưa lâu thì Madoka bị cơn buồn ngủ tấn công và ngả lưng ở băng ghế sau rồi. Uhara Madoka chậm rãi ngồi dậy, ngắm nhìn khung cảnh ngoài cửa xe. Xung quanh họ là cánh đồng bát ngát, những ngôi nhà kính nối tiếp nhau. Xa xa có thể thấy thấp thoáng những ngọn đồi. “Con ngủ say thật.” Mina, mẹ cô bé, từ ghế lái ngoảnh lại nói. “Mẹ cứ lo con sẽ trở mình rồi ngã phịch khỏi ghế đấy.” “Chúng ta đang ở đoạn nào rồi mẹ?” “Sắp tới nơi rồi. Tầm hai mươi phút nữa là đến.” “Con ngủ lâu thế rồi cơ à.” Madoka chớp chớp, rồi dụi mắt. Quê ngoại Madoka cách sân bay khoảng ba tiếng lái xe. Sau khi thấm họng với nước trà đóng chai, Madoka lấy gương từ chiếc xắc tay ra. Cô bé cần kiểm tra xem tóc mình có bị mất nếp sau giấc ngủ không. Bố thường tròn mắt hỏi một đứa nhóc mới học tiểu học như Madoka mà khi nào cũng mang theo gương bên mình cơ à, nhưng với một cô bé thì đây là chuyện đương nhiên. Khi Madoka vừa nhìn vào gương, chợt thấy thân xe rung lắc hai bên. “Ơ? Sao thế này?” “Gió đấy.” Mina nói. “Hôm nay gió mạnh lắm.” “Mẹ nhắc con mới nhớ, máy bay hôm nay cũng hơi rung mẹ nhỉ.” “Ừ. Vào mùa này, khí quyển vùng này hay mất ổn định.” Mina tuy tốt nghiệp khối văn học, nhưng dùng những từ ngữ chuyên ngành tự nhiên hết sức lưu loát. Có lẽ là do ảnh hưởng của chồng. Bố của Madoka là bác sĩ mà. Sau đó, xe thong thả chạy qua một con đường nữa, chẳng mấy chốc khung cảnh quen thuộc đã dần hiện ra. Bên phải đường là cánh đồng bao la trải rộng, bên trái là các tòa nhà công xưởng. Ngay cạnh công xưởng là một công viên tổng hợp, nếu phóng tầm mắt về phía trước sẽ thấy một bãi trượt tuyết nhỏ do thành phố quản lý. Mới đầu tháng Mười một nên vẫn chưa có tuyết. Sau khi đi qua vùng đó, nhà cửa và quán xá nhiều dần lên, cuối cùng cũng ra dáng phố thị. Tuy nói vậy nhưng nó cũng chỉ là một khu phố nhỏ. Trường tiểu học, cấp hai và cấp ba nằm gọn trong một chu vi chỉ vài trăm mét. Mina xoay tay lái hết cỡ. Chiếc xe thuê ngoặt trái nơi góc đường có cửa hàng mì soba, rồi nhanh chóng dừng lại trước cửa một ngôi nhà gỗ vuông vắn. Madoka xuống xe, nhấn chuông gọi cửa. Mina mở khoang sau xe, dỡ hành lý xuống. Cửa vào nhà nhanh chóng mở ra, bà ngoại Yumiko của Madoka xuất hiện. “Ôi, Madoka đấy à? Cháu mau lớn quá!” Yumiko bước như nhảy xuống bậc thang, tà áo cardigan màu hồng phất phơ. Bà chưa tới bảy mươi, chân tay hãy còn khỏe mạnh. “Cháu chào bà.” Madoka cúi đầu. “Xa thế mà cháu tới tận đây thăm bà à. Có mệt không cháu?” “Dạ không, cháu ngủ nên không mệt chút nào ạ.” “Con mới là người mệt này. Mẹ mang cái này vào đi.” Mina nói với mẹ ruột cộc lốc, tay đưa ra một túi giấy và túi xách. “Con đi đậu xe ở bãi đậu mọi khi rồi về ngay.” Trước mẹ ruột, Mina lập tức trở nên kẻ cả. Có lẽ đó cũng là một dạng được chiều quá sinh hư. Yumiko nói bà biết rồi, và vui vẻ làm theo. Tháng Mười một ở Hokkaido thật lạnh. Madoka chỉ khoác một áo nỉ có mũ ngoài chiếc áo phông dài tay. Trước khi để Yumiko phải giục, Madoka đã chạy lên bậc thang tới cửa nhà rồi. Tại phòng khách hướng ra vườn, vừa uống tách trà Yumiko pha cho, Madoka vừa kể chuyện trường lớp, bạn bè. Madoka nghĩ những chuyện đó chẳng thú vị mấy, nhưng có lẽ chỉ cần nghe giọng Madoka là đủ vui rồi, nên bà vừa cười tươi vừa hưởng ứng câu chuyện của Madoka. Chẳng lâu sau Mina cũng về tới, bắt đầu uống nước từ chai nhựa lôi trong tủ lạnh ra. “Zentaro cuối cùng vẫn không xin nghỉ phép được nhỉ.” Yumiko hỏi Mina. Zentaro là bố của Madoka. “Nghe nói sắp có một ca phẫu thuật quan trọng. Anh ấy nhờ con gửi lời hỏi thăm bố mẹ.” Mina vẫn đứng nguyên, trả lời. “Nghề bác sĩ vất vả thật đấy. Không nhờ ai làm thay được hả con?” “Hình như đây là ca phẫu thuật đầu tiên của bệnh này trên thế giới, ngoài chồng con không ai thực hiện được. Con không rõ lắm, nhưng nghe nói bệnh nhân chờ phẫu thuật là một bé trai mười hai tuổi.” “Ôi, còn bé thế mà phải phẫu thuật ư. Tội nghiệp thằng bé. Mười hai tuổi không phải chỉ hơn Madoka hai tuổi thôi sao.” Yumiko chớp chớp mắt nhìn Madoka. Chuyện này Madoka nghe lỏm bố mẹ thảo luận nên đã biết sơ sơ. Cậu bé bị cuốn vào một vụ tai nạn, không hồi tỉnh được - đại khái nội dung như vậy. “Nhưng mà thôi, hai mẹ con về chơi là tốt rồi. Mẹ với bố hôm trước còn lo Zentaro bận việc nên hai mẹ con cũng không về luôn đấy.” “Hai người, à không, bố mẹ chỉ muốn gặp Madoka thì có.” Trước lời lẽ hờn giận của con gái, Yumiko thản nhiên trả lời: “Đúng đấy, chính là như vậy, điều đó không phải là đương nhiên sao.” Rồi bà nói “Nhỉ?” để tìm sự đồng tình của Madoka. Madoka cười. Được nghe những mẩu đối thoại kiểu này giữa mẹ và bà ngoại là một trong những điều cô bé mong ngóng ở chuyến đi. Nhờ ngày kỷ niệm thành lập trường mà Madoka đang theo học, đầu tháng Mười một thường có đợt nghỉ dài ngày. Năm nay đợt nghỉ là bốn ngày. Nếu công việc của Zentaro cho phép, cả gia đình sẽ đi du lịch. Zentaro nói các năm trước đều đi Hawaii, nên năm nay anh đề nghị về thăm bố mẹ Mina. Có lẽ anh thấy có lỗi vì lâu rồi chưa đưa cháu về thăm ông bà ngoại. Nhưng rồi kế hoạch phẫu thuật đó chen vào, nên cuối cùng Zentaro không tới được. “Bố con đâu ạ? Bố ra ngoài à?” Mina hỏi. Yumiko đáp ông đi dự đám tang. “Nghe nói một cán bộ ở công ty bố con làm ngày trước vừa mất. Hồi bố con còn trẻ, ông ấy đã giúp đỡ bố con nhiều. Hình như là bị ung thư, nhưng ông ấy cũng tám mươi tuổi rồi, nên không hẳn là chết trẻ.” Hội trường tang lễ ở khu phố bên cạnh. Đang nói dở chuyện đó thì điện thoại đặt trên kệ reo vang. “Ô kìa, vừa nhắc xong.” Vừa nói Yumiko vừa đứng lên, nhấc ống nghe. “Vâng, nhà Ebisawa xin nghe… Ôi quả nhiên là ông. Tang lễ kết thúc chưa ông?… Thế à. Mẹ con Mina về chơi đấy… Mà ông vừa uống rượu phải không? Ông không sao chứ?” Mina tới gần như thể đánh hơi thấy điều gì, rồi cướp ống nghe từ tay Yumiko. “A lô, bố ạ? Con Mina đây… Vâng, con khỏe. Mà bố ơi, không được lái xe sau khi uống rượu đâu ạ… Bố nói gì thế. Không được. Để con đi đón, bố đợi con tới nhé… Con sẽ đi xe đạp tới… Không sao đâu, chỉ khoảng ba ki-lô-mét thôi mà. Xe bố là xe Hiace đúng không ạ? Thế nên có thể chất xe đạp lên mang về được… Vâng, con biết. Con đi liền. Thế nhé.” Mina ngắt máy, thở dài nhìn mẹ. “Sao mẹ lại để bố con lái xe đi. Mẹ biết bố thế nào cũng uống say bí tỉ rồi mới về mà.” “Mẹ biết thế, nhưng bố con có bao giờ nghe theo mẹ đâu.” “Mẹ nuông chiều bố con như vậy là không được. Mẹ nghe giọng bố rồi chứ? Mẹ không thấy giọng bố lè nhè à? Nếu để thế này, có ngày bố con sẽ gây tai nạn mất.” Mina ra khỏi phòng khách. “Chờ con với!” Madoka chạy theo. “Con cũng đi.” “Madoka đợi ở nhà đi. Chỉ có một cái xe đạp thôi*.” “Mẹ chở con là được mà. Con muốn đạp xe đi dạo trên đường phố Hokkaido cơ!” Mina vừa xỏ giày vừa cười. “Cái xe đó không đủ điệu đà để đạp đi dạo được đâu. Có ai lại chở một người bằng xe đạp tới khuyên người khác không nên lái xe sau khi uống rượu bao giờ. Mà thôi cũng được.” “Vâng, được chứ, được chứ! Đi thôi đi thôi!” “Nhưng mà mặc bộ đó lạnh đấy. Con có mang theo áo phao gi-lê đúng không? Mặc cái đó vào đi.” “Vâng.” Khi Madoka khoác áo phao gi-lê lên người rồi ra ngoài, thì Mina đã lôi được chiếc xe đạp phía sau nhà ra. Quả thật chiếc xe không hợp với việc “đạp xe đi dạo” chút nào. Đó là một chiếc xe thô lậu dùng để chở hàng, đôi chỗ nổi lên những vết gỉ sét. Nhưng nó có vẻ vững chắc, và yên sau rộng để ngồi. “Nhìn hướng mây đen bay này.” Mina nhìn lên trời lẩm bẩm. Madoka cũng nhìn lên. Bầu trời phía xa đen kịt. Như thể trời sắp mưa tới nơi. “Chúng ta đi mau thôi mẹ.” “Ừ. Con bám chắc lấy mẹ nhé.” “Vâng.” Madoka vòng hai tay quanh thân thể mảnh mai của mẹ. Mina bắt đầu đạp pê-đan. Gió đằng trước có vẻ lạnh, nhưng Madoka áp má vào lưng mẹ nên không sao. Hơi ấm và mùi hương của mẹ truyền tới cô bé qua lớp áo khoác len màu xanh. Vì là khu phố nhỏ nên đạp xe một lúc, nhà dân đã thưa thớt hẳn. Khi ra tới con đường thẳng sắp dẫn tới khu phố bên cạnh, đột nhiên xung quanh tối sầm. Gần như cùng lúc đó, chiếc xe đạp khựng lại. “Sao thế mẹ?” Ngay sau câu hỏi của Madoka, có cái gì đó rơi rào rào từ trên trời xuống. Nếu là mưa thì trông lạ quá. Nhìn thứ vừa rơi vào cánh tay mình, Madoka kinh ngạc. Đó là một viên đá nhỏ. “Khổ rồi!” Mina nói, quay xe lại. Đập vào mắt Madoka là một cột đen thẳng tắp kéo dài từ bầu trời đen kịt tới mặt đất “Mẹ ơi, kia là cái gì?” “Vòi rồng đấy!” Mina kêu lớn. “Phải mau tìm chỗ trốn thôi!” Những hạt mưa bắt đầu rơi. Mina gắng hết sức đạp pê-đan. Madoka nhìn ra phía sau, giật thót mình. Vì cây cột tròn khổng lồ màu đen mỗi lúc một tiến gần họ. Vô số vật thể đang bị cuốn bay lên trời. “Mẹ ơi, nó đuổi kịp chúng ta mất!” Mina dừng xe. “Mau xuống xe! Qua chỗ này!” Vứt xe ở đó, Mina nắm lấy tay con, bắt đầu chạy. Con gió dữ dội lạnh buốt khiến cơ thể chị bị đẩy lùi lại. Không có nhà dân, nhưng ở bên đường có một ngôi nhà trông tựa nhà kho. Trước nhà có xe tải và những máy móc nặng nề. Mina chạy vội vào trong nhà. Nơi đây giống như văn phòng của một cơ quan nào đó, một phụ nữ trung niên đeo kính đang nhìn ra khung cảnh ngoài cửa sổ. Từ cửa sổ đó không nhìn thấy vòi rồng. Trước sự xâm nhập đột ngột, người phụ nữ trung tuổi tỏ rõ vẻ bối rối. “Có chuyện gì vậy?” “Vòi rồng chị ạ!” Mina hét lên, kéo cánh tay Madoka, đẩy cô bé xuống gầm chiếc bàn bên cạnh. Ngay sau đó, cùng với một tiếng động khủng khiếp, cả căn nhà rung lên. Bị một cơn gió dữ dội cuốn lấy, chiếc bàn Madoka trú bên dưới đổ qua một bên. Cô bé nhìn thấy thân thể đang nằm úp của Mina bay lên, rời khỏi nền nhà. “Mẹ!” Madoka kêu lên thảm thiết. Các mảnh kính và gạch vụn bay lên. Bụi mù mịt, mở mắt ra cũng thật khó khăn. Madoka nhắm tịt mắt, đợi thời khắc ác mộng qua đi. Tiếng động chấm dứt, Madoka run run mở mắt. Xung quanh sáng sủa đến kỳ lạ. Chẳng mấy chốc, cô bé nhận ra các bức tường của ngôi nhà đều đã biến mất. Chiếc xe tải đỗ trước cửa bị lật ngang. Không thể tưởng tượng trên đời lại có quang cảnh như vậy. Khi đó cột xoáy tròn như một con rồng đen đang rời đi xa. Nhưng Madoka vẫn chưa thể ra khỏi gầm bàn. Vì có rất nhiều thứ đang rơi từ trên trời xuống. Thêm nữa, cơn sợ hãi khiến cơ thể cô bé không thể cử động nổi. Nghe thấy tiếng động lớn ngay gần đó, cô bé quay qua nhìn, hóa ra là mái tôn. Nó đã bị thổi bay lên trời lúc trước, giờ vừa rơi xuống. Madoka hít mạnh một hơi rồi bò ra. Chân cô bé run lập cập, bước không vững. Nhìn xung quanh, cô bé hoảng hốt. Ngôi nhà mà hai mẹ con chạy vào giờ không còn chút vết tích. Chỉ còn lại một đống gạch vụn. “Mẹ ơi, mẹ ơi!” Madoka lấy hết sức, gọi liên tiếp mấy câu. Nhưng không có lời đáp. Vừa gọi vừa khóc, cô bé đi quanh đám gạch vụn. Xa xa có tiếng loa thông báo. Vòi rồng đen đó đã hướng về phía khu phố. Liệu bà ngoại có bình an không? Một vật thể màu xanh dương quen thuộc lọt vào tầm mắt Madoka. Cô bé nhìn về phía đó. Không thể nhầm được. Đó chính là chiếc áo khoác len của Mina. Nó đang nằm dưới bức tường đổ. Dồn hết sức lực, Madoka đẩy những mảnh tường sang một bên. Một lúc sau nửa thân trên của Mina hiện ra. Khuôn mặt chị xám ngắt, đôi mắt nhắm nghiền. “Mẹ ơi! Mẹ ơi! Mẹ mở mắt ra đi!” Madoka dùng hết sức lay thân thể mẹ, vỗ vỗ vào má mẹ. Mí mắt Mina khẽ động đậy. Sau đó hé mở. “A, mẹ! Mẹ! Mẹ ráng lên! Con sẽ gọi bác sĩ bây giờ!” Không biết câu nói của Madoka có được Mina nghe thấy không. Nhưng Mina mỉm cười. Sau đó lưỡi chị hơi cử động. “Gì cơ ạ?” Madoka ghé tai vào sát miệng mẹ. “Tốt rồi.” Hình như Mina thì thầm như vậy. Sau đó, chị lại nhắm mắt. “Không! Không! Không! Mẹ, mẹ đừng chết! Đừng chết! Không! Không!” Madoka ôm chặt thân thể mẹ, kêu lên. Nước mắt không ngừng tuôn rơi.   Mời các bạn đón đọc Ma Nữ của Laplace của tác giả Higashino Keigo.
4MK
4MK - cuốn sách giành giải Audie năm 2018 cho thể loại tiểu thuyết kinh dị, gay cấn. "Nạn nhân đầu tiên, Calli T Hai ngày sau khi bị bắt cóc, gia đình Tremell nhận được tải con gái mình trong hòm thư. Hai ngày sau đó, họ nhận được đôi mắt của cô. Hai ngày tiếp theo, chiếc lưỡi của cô được chuyển đến. Thi thể của cô gái được tìm thấy tại công viên B Bàn tay cô nắm chặt một mẩu giấy nhỏ ghi KHÔNG LÀM ĐIỀU ÁC" Bộ sách 4MK Thriller gồm có: 4MK Cái Chết Thứ Năm Đứa Trẻ Thứ Sáu *** J.D. Barker là một tác giả người Mỹ nổi tiếng quốc tế về phim kinh dị hồi hộp, thường kết hợp các yếu tố kinh dị, tội phạm, bí ẩn, khoa học viễn tưởng và siêu nhiên. Cuốn tiểu thuyết đầu tay của anh, Forsaken, là người vào chung kết cho Giải thưởng Bram Stoker năm 2014. *** “Nạn nhân đầu tiên, Calli T Hai ngày sau khi bị bắt cóc, gia đình Tremell nhận được tải con gái mình trong hòm thư. Hai ngày sau đó, họ nhận được đôi mắt của cô. Hai ngày tiếp theo, chiếc lưỡi của cô được chuyển đến. Thi thể của cô gái được tìm thấy tại công viên B Bàn tay cô nắm chặt một mẩu giấy nhỏ ghi KHÔNG LÀM ĐIỀU ÁC” Với 4MK, tác giả J.D. Barker được đánh giá là thế hệ tiếp theo của Stephen King và Thomas Harris. Tên sách có vẻ gì khó hiểu, mang tính học thuật và toán học quá… thực chất để ý hình con Khỉ trang bìa thì đây là từ viết tắt của ‘The-4th-Monkey-Killer’ (con khỉ thứ 4 làm điều xấu…chưa hiểu lắm đúng không???), nếu dân văn phòng thì không xa lạ gì 4 bức hình nhân “chú tiểu”, chú thứ nhất: bịt tai – không nghe điều xấu, chứ thứ hai: bịt mắt – không thấy điều xấu, chú thứ ba: bịt miệng – không nói điều xấu, chú thứ tư: khoanh tay sau mông – không làm điều xấu… nhưng nguồn gốc thật sự thì bắt nguồn từ văn hóa Nhật Bản, bốn chú tiểu hiện hành bạn thấy trên bàn làm việc là tượng trưng cho bốn chú khỉ… và 4MK tượng trưng cho con khỉ thứ 4, và tất nhiên con khỉ này được hiện thực hóa trong khuông khổ…đã-làm-điều-xấu. Mình rất thích lối kể chuyện mở ra bằng một kết thúc, và trong tác phẩm này cũng vậy… một tai nạn xe buýt tình cờ đã tông chết kẻ thủ ác và kéo lê xác hắn tận 5m – kẻ đã thực hiện thành công các cuộc tra tấn về mặt thể xác lẫn tinh thần của bất kỳ nạn nhân nào hắn “vô tình” bắt được, tất nhiên là tài xế xe buýt vô can! Bằng bút pháp tả thực… từng chân tơ, kẻ tóc của nạn nhân được tác giả miêu tả đầy mang rợ, tạo cho người đọc cảm giác đang chứng kiến cái ác được diễn ra nhưng vô cùng câm lặng không thể thốt thành lời. Tên thủ ác lần lượt là cắt tai, cắt lưỡi, khoét mắt của nạn nhân và gửi từng bộ phận đấy về cho chính cha mẹ ruột của họ… trước khi phần còn lại của cái xác nằm gói gọn đâu đó bên mặt hồ tĩnh lặng hay công viên thanh vắng… Nếu các bạn đã đọc “Sự im lặng của bầy cừu” thì sẽ thấy quen thuộc với kiểu ra tay tàn ác của kẻ sát nhân nhưng (LƯU Ý: spoil sự im lặng của bầy cừu) Jeam Gumb giết nạn nhân xong mới lột từng tấm da lưng, thì trong căn phòng tối này 4MK tra tấn thể xác họ… ngay khi họ còn sống!!! Tất nhiên không có bất kỳ một cuộc dạo chơi hoặc thuật dẫn dắt tâm lý nào từ kẻ thủ ác trong 4MK (đỡ phải chịu cảm giác nhức nhói về mặt tâm lý so với đọc Sự Im lặng của bầy cừu!) Vẫn phong cách đặt vấn đề quen thuộc của mình… để một cuộc giết người diễn ra cần ba yếu tố “nguyên nhân – động cơ – mục đích”, thế nguyên nhân gì đã khiến 4MK thực hiện cuộc thanh trừng như một kẻ mộ điệu thực thi công lý, và tội ác của hắn hiễn nhiên thách thức các mật vụ điều tra liên bang suốt nữa thập kỳ để rồi một chiếc xe buýt vô tình cán chết hắn, tất nhiên là hắn vừa mới thực hiện thành công một ca “tùng xẻo tai của một bé gái mười sáu tuổi” và cái chết của hắn đặt ra một dấu chấm hỏi rất lớn… cái ác vẫn tiếp diễn cho dù kẻ thủ ác thật sự đã chết??? Không có bất kỳ dòng hồi tưởng nào của kẻ sát nhân, xin nhắc lại đây là bút pháp tả thực, không ảo mộng về quá khứ, không huyễn hoặc tự đặt mình vào vai kẻ sát nhân và tưởng tượng! Tuy nhiên kẻ thủ ác vẫn để lại cuốn nhật ký, và nội dung quyển nhật ký tuyệt đối không liên quan gì về cô gái mười sáu tuổi… cuốn nhật ký như một thái độ tự mãng, một lời thách thức đối với cục điều tra liên bang! Dưới nhận định của một trong các điều tra viên thì “hắn như muốn bất tử, dùng cái chết để trở nên vĩnh hằng”. Điều mình thật sự thích trong tác phẩm này là quá khứ và hiện thực được kể lại song song nhưng ngược lối, có những lúc mình chỉ muốn đọc liên tục nội dung cuốn nhật ký của kẻ sát nhân, để hiểu được nguyên nhân – động cơ – mục đích của cuộc thanh trừng này, và tất nhiên, bài toán không hề đơn giản như vậy, một lần nữa chính các độc giả cũng như các bạn sẽ bị lừa như chính các điều tra viên liên bang mà thôi! Cậu truyện trong nhật ký là gì, cô gái mười sáu tuổi rồi sẽ ra sao??? Tất cả đang chờ các bạn trong cuốn 4MK, và mình chốt hạ câu cuối, hiện thực tàn ác… không có chỗ cho cung đàn ảo mộng đâu, nên đừng đọc vài trang sách đã tự mãng đoán ra được cái kết! Nếu dễ dàng như vậy thì 4MK đã không đạt danh hiệu “Cuốn sách giành giải Audie năm 2018 cho thể loại Tiểu thuyết Kinh dị, gay cấn”! Reviewer: Nhut Phan *** Porter Ngày 1 - 6:14 sáng Lại là nó, tiếng chuông điện thoại réo rắt mãi không dứt. Mình tắt chuông rồi cơ mà. Tại sao lại có chuông báo tin nhắn? Tại sao lại có tiếng chuông kêu nhỉ? Steve Jobs mất, Apple cũng ngắc ngoải theo luôn. Sam Porter lăn người sang bên phải, tay quờ quạng tìm chiếc điện thoại để trên kệ tủ đầu giường. Chiếc đồng hồ báo thức bay xuống, vỡ tan tành dưới nền nhà, kèm theo là tiếng rơi vỡ đặc trưng của món đồ điện tử rẻ tiền xuất xứ Trung Quốc. “Tiên sư cái tay.” Mần mò mãi, khi những ngón tay chạm được tới chiếc điện thoại, Porter rứt nó khỏi dây sạc rồi đưa ra trước mặt, nheo mắt liếc nhìn màn hình nhỏ xíu sáng chói. GỌI CHO TÔI - 911 Tin nhắn của Nash. Porter liếc nhìn sang vợ ở bên kia giường, chẳng thấy người đâu, chỉ thấy một tờ giấy nhắn: Em đi mua sữa, sẽ về ngay. xoxo, Heather Anh cằn nhằn gì đó rồi lại đưa mắt nhìn vào điện thoại. 6:15 phút sáng. Đáng buồn thay cho một buổi sáng tĩnh lặng. Porter ngồi dậy rồi ấn số gọi cho người cộng sự. Nash bắt máy sau hồi chuông thứ hai. “Sam à?” “Ừ, Nash.” Người đàn ông ở đầu dây bên kia nín lặng trong giây lát. “Tôi rất xin lỗi, Porter ạ. Tôi đã đấu tranh rất lâu không biết có nên gọi cho anh hay không. Chắc tôi phải bấm số của anh cả chục lần rồi ấy, nhưng vẫn chẳng dám xuống tay nhấn nút gọi. Cuối cùng tôi quyết định tốt hơn hết là nhắn tin cho anh. Để anh có cớ bơ tôi, anh hiểu chứ?” “Không sao đâu mà Nash. Có chuyện gì thế?” Lại tiếp tục là một khoảng lặng. “Anh sẽ muốn xem tận mắt đấy.” “Xem cái gì?” “Có một vụ tai nạn.” Porter day day thái dương. “Tai nạn á? Chúng ta là Tổ Trọng án cơ mà. Tại sao phải quan tâm tới tai nạn nhỉ?” “Anh phải tin tôi lần này. Anh sẽ muốn xem qua đấy.” Nash nói lại lần nữa. Giọng anh chàng nghe là lạ. Porter thở dài. “Ở đâu thế?” “Gần công viên Hyde Park, ven đường 55. Tôi nhắn anh địa chỉ rồi đấy.” Chuông báo tin nhắn vang lên to tướng sát bên tai, Porter đưa chiếc điện thoại ra xa. Mẹ cha cái thứ iPhone rởm đời! Anh nhìn xuống màn hình điện thoại, ghi lại địa chỉ rồi tiếp tục cuộc gọi. “Tôi sẽ có mặt trong khoảng ba mươi phút. Như thế được chứ?” “Được.” Nash đáp. “Chúng tôi chưa xong việc nhanh đến thế.” Porter ngắt máy rồi nặng nhọc lết hai chân xuống khỏi một bên giường, lắng nghe cái cơ thể năm mươi hai tuổi đang lên tiếng phản đối bằng đủ những tiếng khục khặc, răng rắc. Mặt trời đã dần lên cao, ánh sáng lọt vào trong nhà qua tấm rèm đã kéo xuống của cửa sổ phòng ngủ. Buồn cười thay, căn hộ không có mặt Heather lại trở nên tĩnh lặng và u sầu đến lạ. Đi mua sữa. Trên sàn nhà lát gỗ, chiếc đồng hồ báo thức lóe sáng như thể đang nháy mắt với anh, mặt đồng hồ nứt vỡ bên trên hiển thị những kí tự không còn tương ứng với các con số nữa. Hôm nay sẽ là một trong số những ngày như thế. Mà gần đây có rất nhiều ngày như thế. Porter bước ra khỏi căn hộ sau đó chừng mười phút, khoác trên người bộ cánh chỉn chu, đẹp đẽ nhất vốn thường dành để đi lễ vào Chủ nhật - bộ com lê màu xanh hải quân nhàu nhĩ mua ở cửa hàng Men’s Wearhouse từ gần một thập niên trước - rồi đi hết bốn lượt cầu thang để xuống tới khu sảnh chật chội của tòa nhà. Anh dừng lại trước chỗ để hòm thư, lôi điện thoại ra và bấm số điện thoại của vợ. Bạn đã gọi điện tới số điện thoại của Heather Porter. Vì đây là hộp thư thoại nên khả năng rất cao là tôi đã nhìn thấy tên của bạn trong danh sách cuộc gọi, và tôi có thể cam đoan một điều khá chắc chắn là tôi không hề muốn nói chuyện với bạn. Nếu bạn nguyện tâm nguyện ý cống nạp cho tôi bánh sô cô la hay các loại đồ ăn kiêng giàu dinh dưỡng khác, hãy nhắn tin chi tiết cho tôi và tôi sẽ cân nhắc sắp xếp lại vị trí của bạn trong danh sách những người quen biết và có thể sẽ gọi lại cho bạn sau. Nếu bạn là nhân viên kinh doanh đang tính dụ tôi đổi số thì làm ơn từ bỏ ý định luôn và ngay, tôi là của AT&T trong ít nhất một năm nữa rồi. Còn những người khác, xin hãy để lại lời nhắn. Hãy nhớ cho kĩ, chồng yêu của tôi là một chàng cớm nóng nảy, và chàng ta mang súng theo người đấy nhé! Porter mỉm cười. Giọng nói của cô luôn khiến anh mỉm cười. “Này, Button. Anh đây. Nash gọi điện. Có một vụ ở gần công viên Hyde Park. Anh đang xuống đó gặp anh ấy. Anh sẽ gọi lại cho em sau, chừng nào anh biết mấy giờ có thể về nhà.” Anh nói tiếp. “À mà anh nghĩ là đồng hồ báo thức của chúng ta không ổn rồi.” Anh thả điện thoại vào trong túi áo rồi đẩy người bước ra khỏi cánh cửa, những cơn gió lồng lộng của Chicago nhắc anh nhớ mùa thu sắp qua, nhường chỗ cho mùa đông đang tới.   Mời các bạn đón đọc 4MK của tác giả J. D. Barker.