Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Cuộc Chiến Disney - James B. Stewart

Đây là câu chuyện mê hoặc về một trong những công ty giải trí và truyền thông quyền lực nhất nước Mỹ, về những người lãnh đạo nó cũng như những người muốn lật đổ chế độ cai trị đó. Một câu chuyện đầy những nút thắt, những nhân vật để đời và đạt tới đỉnh cao ly kỳ, hồi hộp đến mức hoàn toàn có thể là chủ đề cho một bộ phim thần thoại về Disney, chỉ có điều chúng hoàn toàn là sự thật. Các bạn sẽ được chứng kiến quá trình ra đời của những bộ phim huyền thoại như Nàng tiên cá, Người đẹp và Quái thú, Vua Sư tử, Aladdin và cây đèn thần, Câu chuyện đồ chơi, Cướp biển vùng Ca-ri-bê. Các bạn sẽ được gặp lại những cái tên đình đám như Tom Hanks, Steve Jobs, Pixar, Johnny Depp. Cùng với đó là lịch sử hoạt động suốt 20 năm của Disney, từ năm 1984 đến năm 2003, dưới sự dẫn dắt của Michael Eisner, tràn đầy những thăng trầm, những cuộc chiến phe cánh, tranh giành quyền lợi, chức vụ, những chiến lược kinh doanh, v.v. Có thể nói, toàn bộ cuốn sách là một vở kịch bi tráng và sống động về quá trình phát triển của Disney, một trong những đế chế có ảnh hưởng nhất thế giới.         *** Roy E. Disney lái chiếc Ferrari đỏ đời 1999 vào bãi đỗ xe của quán rượu Bodega ở Pasadena. Đó là buổi chiều muộn ngày thứ Năm, 20 tháng Mười một năm 2003, một tuần trước lễ Tạ ơn. Roy thích chiếc Ferrari này. Nó là một trong số bằng chứng ít ỏi cho thấy cháu của Walt Disney huyền thoại, người đàn ông 73 tuổi giản dị và khiêm tốn này là một trong những người giàu có nhất nước Mỹ. Nó luôn là chiếc xe nổi bật nhất trên bãi đỗ của Disney, nơi Roy được dành riêng một chỗ cạnh Michael Eisner, chủ tịch kiêm giám đốc điều hành của công ty. Chính nhờ nó mà mọi người luôn biết khi nào Roy đang có mặt ở trụ sở. Roy căm ghét tòa nhà “Team Disney.” Nó được thiết kế bởi kiến trúc sư nổi danh Michael Graves theo chỉ thị của Eisner để làm trụ sở của công ty Walt Disney. Dù mặt trước đồ sộ đã được làm nhẹ bớt bằng các bức phù điêu đắp nổi hình bảy chú lùn, nhưng đối với Roy, nó vẫn đại diện cho tất cả sự phô trương và kệch cỡm mà Eisner đã tạo ra ở đây. Cũng như với rất nhiều thứ khác, Roy luôn băn khoăn không biết liệu chú Walt của mình sẽ nghĩ sao. Văn phòng của Walt vẫn ở đó, trong tòa nhà cũ, giản dị của xưởng phim hoạt hình. Eisner cũng từng dùng nó làm văn phòng của ông ta trước khi chuyển tới trụ sở mới này. Giờ đây Roy lại chuyển về đó. Nó khiến ông cảm thấy thoải mái hơn tòa nhà đồ sộ và khô khan mà ông vẫn đùa là mỗi khi bước vào ông phải rải vụn bánh mì làm dấu đường thì mới tìm được lối ra. Vài tháng gần đây, Roy đã thực sự tách mình ra khỏi Eisner và các lãnh đạo cấp cao khác của công ty. Mặc dù gần 20 năm trước, chính ông là người đã đưa Eisner tới Disney, nhưng giờ đây ông cảm thấy mình đang bị người đàn ông này lừa dối và phản bội. Eisner đến với Disney sau thành công chói lọi trong ngành sản xuất chương trình truyền hình ở kênh truyền hình ABC và sau đó là sản xuất phim tại hãng phim Paramount Pictures. Nhưng giờ thì Roy cho rằng những thành công rực rỡ mà Eisner có được trước đó chẳng qua là nhờ may mắn gặp được những đối tác ăn ý: Barry Diller ở ABC và Paramount; sau đó là Frank Wells và Jeffrey Katzenberg trong những năm đầu thành công đáng kinh ngạc ở Disney. Kể từ khi Wells qua đời trong một tai nạn máy bay thương tâm vào năm 1994, còn Katzenberg phải ra đi trong cay đắng liền sau đó, trách nhiệm đối với Disney đổ dồn lên một mình Eisner. Theo cách nhìn nhận của Roy thì tình cảnh đó đã dẫn đến những hậu quả vô cùng tồi tệ. Khi cả sức mạnh tài chính lẫn năng lực sáng tạo của công ty đều đi xuống, Eisner lại khư khư giữ lấy quyền lực như một kẻ quẫn trí, cho rằng ông ta và chỉ mình ông ta là sở hữu khả năng sáng tạo thiên bẩm cùng những kỹ năng quản lý cần thiết để dẫn dắt Disney trở thành tập đoàn giải trí và truyền thông của thế kỷ XXI. Eisner còn tự cho mình là người thừa kế ngôi vị của Walt, xuất hiện hàng tuần trên màn hình ti vi trong phòng khách của các gia đình Mỹ với tư cách người dẫn chương trình “The Wonderful World of Disney” (Thế giới kỳ diệu của Disney), hệt như những gì Walt đã từng làm. Về phương diện này, Roy cảm thấy Eisner chỉ là mắt xích tiếp theo trong chuỗi dài những kẻ dám tự vỗ ngực cho rằng mình có thể ngồi vào ngôi vị của Walt. Đôi khi ông băn khoăn tự hỏi, tại sao lại có quá nhiều người muốn là hiện thân của Walt đến vậy? Chẳng ai lượn quanh Hollywood để rao giảng rằng mình là Louis B. Mayer(1) hay Cecil B. DeMille(2) cả. Điều gì khiến bọn họ ảo tưởng rằng mình là người phù hợp để thay thế Walt? Đầu tiên là E. Cardon Walker, rồi đến con rể của Walt, Ron Miller – chủ tịch và giám đốc điều hành của Disney, những kẻ lúc nào cũng lôi những kỷ niệm về Walt ra để làm bệ phóng. Sau đó lại đến Jeffry Katzenberg, kẻ tự cho mình là người thừa kế của Walt trong vai trò người đứng đầu xưởng phim Disney. Tất cả bọn họ đều đã đi quá giới hạn; mỗi lần như vậy Roy lại buộc phải ra tay can thiệp, và họ đã bị thay thế. Giờ thì tới lượt Eisner, ông ta lại đang lần lượt bỏ qua tất cả các giới hạn. Roy không tự cho mình là Walt, nhưng nếu có ai đó được quyền thừa kế di sản mà Walt để lại thì người đó phải là ông. Trước toàn thế giới ông vẫn là hiện thân của công ty Disney và những gì mà nó đại diện, là người lãnh đạo cuối cùng của công ty còn mang họ Disney. Chỉ một tháng trước đây, trong lễ khai trương trò chơi mới tại Walt Disney World mang tên “Misson: SPACE,” Eisner còn công khai thay mặt công ty ca ngợi những đóng góp của Roy và được tán thưởng bằng những tràng pháo tay vang rền. Dường như đám đông luôn hưởng ứng Roy, có lẽ là bởi, ở tuổi 73, ông có vẻ bề ngoài rất giống Walt. Thế nhưng ẩn sau những lời ca tụng công khai của Eisner lại là sự thù nghịch cá nhân ngày một dâng cao. Khi Jane, vợ của Eisner đi ngang qua Roy và vợ ông, Patty, ngay trước khi bài phát biểu của Eisner bắt đầu, họ đã cố tình lờ nhau đi. Từ lâu Roy đã thôi không tham dự các buổi họp giao ban hàng tuần của Eisner với các lãnh đạo cao cấp khác của Disney, hay những bữa trưa mà Eisner dành để thông báo với Roy về các kế hoạch và chiến lược của công ty nữa. Roy đã không còn tin tưởng Eisner sau khi biết rằng ông ta đã cài cắm một gián điệp để theo dõi mọi lời nói và hành động của ông ở xưởng phim hoạt hình. Gần đây họ còn tránh không nói chuyện với nhau tại buổi công chiếu bộ phim Brother Bear (Anh em nhà Gấu) – tác phẩm hoạt hình mới nhất của Disney, mà theo Roy là rất tầm thường. Tệ hơn cả, năm đó Eisner đã không xuất hiện trong buổi lễ trao giải Disney Legends mà Edna, mẹ của Roy, cùng Lillian, góa phụ của Walt được trao giải còn Roy là người thay mặt gia đình lên nhận giải. Đó là lần đầu tiên Eisner không tham dự sự kiện thường niên này. Liền sau đó, những lời đồn thổi lan đi khắp công ty rằng chủ tịch và phó chủ tịch của Disney đã không còn nói chuyện với nhau nữa. Roy chẳng hề trông đợi cuộc gặp gỡ sắp diễn ra tại quán rượu với John Bryson, chủ tịch kiêm giám đốc điều hành của Edison International, công ty mẹ của Southern California Edison. Bryson tham gia hội đồng quản trị của Disney vào năm 2000 và sau đó trở thành chủ tịch ủy ban đề cử và kiểm soát đầy quyền lực của công ty. Tại các cuộc họp của hội đồng quản trị, Roy hiếm khi lên tiếng. Nhưng đồng minh, đối tác, luật sư của Roy, đồng thời cũng là thành viên của hội đồng quản trị, Stanley Gold, đã bù đắp lại sự kiệm lời đó của ông. Suốt nhiều năm, Gold luôn kịch liệt phê phán phong cách điều hành cùng kết quả tài chính của công ty. Nhưng những lời chỉ trích của ông tại hội đồng giống như nước đổ lá khoai. Các thành viên hội đồng dường như luôn mù quáng ủng hộ Eisner. Những người không ủng hộ ông ta, như Andrea Van de Kamp và Reveta Bowers, đều đã bị thanh lọc. Những gì đã xảy ra với họ cũng là sự cảnh báo cho những người còn ở lại về những điều có thể xảy ra với những kẻ bất phục tùng. Roy đặc biệt nghi ngờ Bryson, bề tôi trung thành của Eisner, kẻ đã thay thế Gold làm chủ tịch ủy ban kiểm soát và sau đó đẩy ông ra khỏi ủy ban luôn. Bắt đầu từ tháng Chín năm ngoái, Gold đã gửi hàng loạt thư chỉ trích kết quả làm việc và chế độ lương thưởng của Eisner tới các thành viên hội đồng. Ông và Roy cho rằng những chỉ trích bằng văn bản sẽ khó mà bị tảng lờ, đồng thời cũng muốn làm rõ quan điểm của mình. Gần đây nhất, Gold và Roy đã phản đối khoản tiền thưởng 5 triệu đô la dành cho Eisner trong một năm mà thu nhập từ hoạt động kinh doanh của công ty giảm tới 25% còn giá cổ phiếu thì chạm mức đáy trong vòng 52 tuần. Vài ngày trước đó Bryson đã gọi cho Roy. “Tôi cần nói chuyện riêng với ông,” Bryson nói và khăng khăng đòi hẹn gặp tại một địa điểm kín đáo để không bị ai nhìn thấy. Roy đã đồng ý, dù cho rằng trong giọng nói của Bryson có âm vực của sự “chết chóc.” Ông lo sợ rằng những kẻ trung thành với Eisner đang cố loại trừ Gold. Không khí của các cuộc họp hội đồng gần đây đã trở nên ngày một căng thẳng. “Mình phải làm sao để bảo vệ ông ấy đây?” Roy băn khoăn về Gold khi bước vào quán rượu. Ông không thể hiểu nổi tại sao hội đồng lại muốn loại bỏ tiếng nói đối lập cuối cùng còn sót lại. Vừa gọi đồ uống xong, Bryson mở đầu ngắn gọn rồi đi thẳng vào vấn đề. “Ông biết đấy, Roy, ông đã quá tuổi nghỉ hưu rồi đó,” Bryson nói. Roy sửng sốt trước sự thẳng thắn của Bryson, ông lẩm bẩm điều gì đó không rõ nghĩa. Phải, về mặt nguyên tắc là như vậy, bởi tuổi về hưu quy định là 72, mà Roy thì đã 73. Nhưng nó không áp dụng với các thành viên hội đồng quản trị kiêm nhiệm các chức vụ điều hành trong công ty, mà ông lại là trưởng bộ phận phim hoạt hình. Disney nổi tiếng một phần cũng vì rất nhiều nhân viên có tuổi đời cao. “Ủy ban đã họp,” Bryson tiếp lời, “Tom Murphy và Ray Watson sẽ rút lui.” Murphy, cựu chủ tịch Capital Cities/ABC, đã tham gia hội đồng quản trị sau khi Disney mua lại ABC vào năm 1995; còn Watson, chủ tịch của Disney trước khi Eisner nhận chức vào năm 1984, là thành viên thâm niên nhất tại hội đồng, chỉ sau Roy. Cả hai đều đã quá tuổi 72. Roy không ngạc nhiên về chuyện đó bởi họ đều đã cho ông biết trước kế hoạch nghỉ hưu của mình. “Chúng tôi đã cùng kết luận là ông không nên tái tranh cử nữa,” Bryson nói. Roy nhìn ông ta mà không tin nổi vào mắt mình. Ông không nói nên lời. Ông cảm thấy như có một mũi dao đang đâm thẳng vào tim. Chưa một giây phút nào ông thoáng có ý nghĩ rằng hội đồng sẽ đi xa tới mức này. Không chỉ bởi ông vẫn là một trong những cổ đông lớn nhất của công ty, mà còn bởi ông đã cống hiến 50 năm cuộc đời mình cho Disney. Ông là mối dây liên hệ trực tiếp duy nhất với Walt trong hội đồng. Chú Walt từng kể truyện cổ tích và đọc “Pinocchio” cho ông nghe khi ông còn nhỏ. Chính cha ông và Walt đã cùng nhau gây dựng Disney. Có một sự im lặng ngượng ngùng. Cuối cùng Bryson nói, “Tôi từng phải nói điều tương tự với Warren Christopher,” ý nói tới cựu ngoại trưởng của tổng thống Bill Clinton khi ông này đến tuổi về hưu trong khi đang là thành viên hội đồng quản trị của Edison. “Anh tốt thật nhỉ?” Roy nói. “Đương nhiên, ông có thể là thành viên danh dự suốt đời,” Bryson nói. “Chúng tôi vẫn muốn ông xuất hiện tại các công viên hay các sự kiện đặc biệt…” Roy cắt lời Bryson bằng tiếng cười lớn. Nghĩa là họ vẫn muốn phô trương ông giống như một nhân vật hoạt hình của Disney. Thật là một sự sỉ nhục! Lại một hồi im lặng kéo dài. Chẳng nghi ngờ gì là họ cho rằng ông sẽ ra đi lặng lẽ, ẩn giật tại lâu đài của mình ở Ai Len hay trên chiếc du thuyền cho qua ngày đoạn tháng. Nhưng bất chấp tuổi tác, Roy vẫn thấy mình tràn đầy năng lượng cùng lòng quyết tâm. Suốt cuộc đời ông đã luôn bị đánh giá thấp. Chuyện này đã từng xảy ra rồi. Nhưng nó sẽ không thể lặp lại nữa. Ông chỉ còn một điều duy nhất để nói: “Anh đang mắc một sai lầm nghiêm trọng đấy,” ông nói khi nhìn thẳng vào Bryson. “Và anh sẽ phải hối hận vì đã làm thế.” Rồi ông đứng dậy và bước thẳng ra ngoài. Đó là một ngày cuối tháng Năm, trời rất trong xanh, ở trung tâm Florida. Mới 10 giờ sáng mà nhiệt kế đã chỉ đến 32 độ còn độ ẩm thì cũng ở mức tương tự. Chẳng cần vận dụng nhiều trí tưởng tượng thì cũng có thể tin rằng Disney’s Animal Kingdom, một trong bốn công viên giải trí theo chủ đề của Walt Disney World, thực ra đang nằm ở vùng châu Phi nhiệt đới. Goofy đang đứng ngay bên ngoài hàng rào, sẵn sàng tiến vào trong công viên. Giống như du khách tại các khu bảo tồn động vật hoang dã ở châu Phi mong mỏi được nhìn thấy một trong “Bộ Năm(3)” loài động vật nổi tiếng nhất nơi đây, khách tham quan Animal Kingdom cũng mong mỏi được trông thấy “Bộ Năm” ngôi sao của Disney – Mickey, Minnie, Donald, Pluto, và Goofy, các nhân vật hoạt hình nổi tiếng nhất và được xin chữ ký nhiều nhất. Goofy là một chú chó, đương nhiên, chú có lông, cái mõm dài, hai tai mềm mượt, bụng hơi phệ cùng đôi bàn chân lớn. Chú cũng là nhân vật cao lớn nhất trong Bộ Năm, những trên một mét tám. Hôm nay chú được hóa trang để trình diễn tại Animal Kingdom. Chú đội một chiếc mũ mềm vành rộng, giày đi bộ và tất, quần soóc màu vàng chanh in hình khủng long, áo sơ mi kẻ ca rô đỏ, dây đeo quần và khăn quàng cổ bằng vải ka ki. Điều mà nhiều người không nhận ra là tầm nhìn của Goofy rất hạn chế. Đôi tai dài khiến chú khó mà nhìn được sang hai bên, cái mũi quá khổ lại cản trở tầm nhìn phía trước. Thứ chú nhìn thấy nhiều nhất có lẽ là mặt đất ở quanh chân mình. May mắn thay, Goofy có hai người dẫn đường giúp chú bước vào trong công viên. Họ mở cửa và nhẹ nhàng đẩy chú về phía trước. Chú phải cúi thấp người mới bước lọt qua. Goofy không biết chắc mình đang ở đâu, nhưng chú nghe thấy những giọng nói vọng lại từ xa. Chú thấy hồi hộp. Chú có thể cảm thấy tim mình đang đập thình thịch. Chỉ vài giây sau, chú bắt đầu nghe thấy những tiếng reo hò: “Goofy kìa!” Chú nghe thấy nhiều giọng trẻ con hơn và còn thấy một vài đứa đang chạy lại phía mình. Chú vẫy vẫy tay và biểu diễn màn “đi bộ kiểu Goofy,”điệu bộ ngớ ngẩn vừa đi vừa nhảy cẫng lên đó là một trong những đặc điểm nổi bật nhất của chú. Lũ trẻ lập tức bị mê hoặc! Chúng chạy tới đông hơn, các ông bố bà mẹ từ từ bắt kịp chúng ở đằng sau. Đột nhiên Goofy nhìn thấy một cô bé đang tiến dần về phía mình. Trông cô bé chỉ khoảng 5 hay 6 tuổi và có vẻ hơi sợ sệt. Khi tới nơi cô bé ngượng ngùng đưa ra cuốn sổ xin chữ ký và một cái bút. Goofy vụng về quặp lấy bút và ký vào một trang còn trống, cẩn thận kéo dài đuôi chữ f để nó luôn là nét nổi bật nhất làm nên chữ ký của Goofy. Thật là nhẹ nhõm khi chó không thể nói chuyện được. “Ôm Goofy đi con!” Một giọng người lớn cất lên. Cô gái nhỏ trông có vẻ hơi lo lắng, nhưng Goofy mở rộng cánh tay, và cô bé tiến đến sát gần chú. Chú trao cho cô bé một cái ôm dịu dàng. Thế rồi, trong một khoảnh khắc, Goofy nhìn thấy rõ gương mặt cô bé. Sự thẹn thùng tan biến, đôi mắt ánh lên niềm vui sướng và cả gương mặt như bừng sáng. Cô bé tựa vào lòng chú và đặt một nụ hôn lên cái mũi dài của chú. Ánh đèn dần tắt. Goofy ước mình có thể cởi bỏ đôi găng tay để gạt dòng nước mắt vừa chợt trào ra. Hay có lẽ đó chỉ là những giọt mồ hôi. Trong chốc lát, sự thẹn thùng của một đứa trẻ biến mất, thay vào đó là sự ngưỡng mộ và niềm vui sướng. Đó chính là thứ mà hầu hết các nhân viên của Disney đang nói đến khi họ dùng từ phép màu để mô tả công việc của mình. Đó cũng là lý do tại sao rất nhiều người đến đây làm việc từ khi còn là học sinh trung học hay sinh viên đại học, và rồi 20 năm sau vẫn còn ở lại. Đương nhiên, Goofy có thật. Đối với cô bé đó chú có thật, và đối với tôi thì giây phút ấy Goofy có thật. Tôi không còn là nhà văn hay nhà báo trong lớp hóa trang bằng đệm lót và bộ lông giả nữa. Tôi là Goofy. Mặc dù xuất hiện tại công viên giải trí trong vai trò một nhân vật hoạt hình là một phần của lớp học định hướng dành cho các nhà lãnh đạo cao cấp của Disney, nhưng chỉ sau khi chấp nhận vào vai Goofy tôi mới được biết rằng mình sẽ không được viết gì về chuyện đó, ít nhất không được tuyên bố hay ám chỉ rằng Goofy chỉ là một diễn viên được mặc bộ đồ hóa trang. Những người phụ trách các công viên giải trí đã áp đặt điều kiện này với tôi dựa trên nguyên tắc là ảo tưởng về sự tồn tại thực sự của các nhân vật hoạt hình của Disney không bao giờ được phép tiết lộ với bất kỳ ai. Lúc đầu tôi cho rằng chuyện này thật ngớ ngẩn. Bởi nó hiển nhiên như chuyện Ông già Noel không có thật và chắc chắn là tất cả mọi đứa trẻ khi lên 8 hoặc cùng lắm là 10 đều sẽ hiểu rằng bên trong những bộ đồ hóa trang đó là người thật. Nhưng những người làm việc trong các công viên giải trí vẫn cương quyết duy trì quy định đó, và đến khi gặp họ tôi mới hiểu tại sao. Gần như mọi thứ bên trong Disney World đều là ảo tưởng: xinh xắn hơn, sạch sẽ hơn, an toàn hơn, tốt đẹp hơn và vui vẻ hơn thế giới thực. Walt quả là thiên tài khi nhận ra rằng không chỉ có trẻ con mới muốn chạy trốn khỏi thực tại. Cũng giống như bất kỳ ảo thuật gia tài giỏi nào khác, bạn phải tin vào ảo tưởng, nếu không thì nó sẽ tan biến. Đó là niềm tin phổ biến mà rất nhiều người Mỹ vẫn say sưa ôm ấp, cho nên cái tên Disney mới có thể trở thành biểu tượng của văn hóa Mỹ được lý tưởng hóa trong đó những giấc mơ luôn trở thành sự thực. Nhưng cũng giống như rất nhiều thứ khác ở Disney, nguyên tắc này đã thay đổi trong vòng một năm rưỡi huyên náo sau buổi trình diễn đầu tiên của tôi tại Animal Kingdom. Sau khi Comcast Cooperation, một công ty truyền hình cáp khổng lồ có trụ sở ở Philadelphia tiến hành chiến dịch thù nghịch nhằm thâu tóm Disney vào tháng Hai năm 2004, Disney đã phải chịu đựng nhiều đòn tấn công ác ý của giới truyền thông. Một bài báo trên Wall Street Journal đã tiết lộ rằng tất cả các nhà lãnh đạo cấp cao của Disney đều đã xuất hiện tại các công viên giải trí trong trang phục của các nhân vật hoạt hình. Sau khi thông tin đó xuất hiện trên tờ tạp chí được phát hành rộng rãi trên toàn nước Mỹ, Eisner đã đồng ý là việc tôi giả vờ Goofy là có thật chẳng còn chút ý nghĩa nào nữa, và ông đã cho phép tôi mô tả trải nghiệm vào vai nhân vật hoạt hình này của mình. Tôi gặp Michael Eisner lần đầu tiên từ cách đây nhiều năm, trước khi tôi trở thành nhà báo. Năm 1978, tôi là một luật sư trẻ tại hãng luật lớn Cravath, Swaine & Moore có trụ sở ở New York, còn Eisner là chủ tịch hãng phim Paramount Pictures. Công ty của tôi đang đại diện cho kênh truyền hình CBS trong một vụ kiện chống độc quyền do Bộ Tư pháp khởi xướng, trong khi bên bị đơn là các kênh truyền hình cứ khăng khăng cho rằng họ chỉ phối hợp với nhau để giảm chi phí phải trả cho các chương trình mà các hãng phim Hollywood sản xuất. Các hãng phim Hollywood cũng chính là bên đã thúc đẩy vụ kiện và sẽ được hưởng lợi từ bất cứ thỏa thuận dàn xếp nào. Tôi được phân công phụ trách Paramount và giúp lấy lời khai của Eisner. Tôi vẫn nhớ hôm đến gặp ông tại xưởng phim Paramount ở Hollywood. Ông sở hữu một văn phòng rộng rãi trên tầng hai, có ban công phủ bóng mát của giàn dây leo. Dù bị một đám luật sư bao vây vặn hỏi, Eisner lại có vẻ tự tin và hài hước lạ thường, ông còn pha trò bằng những câu chuyện về mối quan hệ đôi khi căng thẳng của mình với chủ tịch của Paramount, Barry Diller. Ông tháo bỏ giày và ngồi thoải mái với đôi chân chỉ mang tất – cảnh tượng tôi chưa bao giờ thấy trong bất kỳ công ty luật nào ở New York. Mặc dù ở hai phía đối lập, Eisner vẫn tặng tôi vé tham dự buổi ghi hình chương trình “Mork & Mindy” tối hôm đó. Đây là một chương trình truyền hình đình đám của Paramount vào thời đó. Lần đầu tiên tôi được xem trực tiếp một buổi ghi hình của ngôi sao hài kịch Robin Williams. Trong thời gian giải lao khi các máy quay tạm nghỉ, Williams vẫn tiếp tục những đoạn độc thoại hài hước khiến khán giả trong trường quay cười ngất cho tới tận tờ mờ sáng. Tất cả những thứ đó hẳn đã gây ấn tượng lên tôi mạnh hơn nhiều so với lên Eisner. Cuối cùng chính phủ đã từ bỏ vụ kiện. Khi tôi hỏi Eisner ông có còn nhớ tôi cũng như buổi lấy lời khai đó hay không, ông đã không thể nhớ nổi chi tiết nào. Nhiều năm đã trôi qua, từ một nhà điều hành trẻ tuổi ở Paramount, ông đã trở thành vị chủ tịch đánh kính, thành công và giàu có của Disney. Khi ông gia nhập Disney vào năm 1984, cả công ty đang rệu rã, xưởng phim hoạt hình huyền thoại gần như hấp hối, còn tài sản của nó đang bị những kẻ thâu tóm dòm ngó hòng xé nhỏ để bán đi. Eisner không chỉ cứu vãn Disney, ông còn biến nó thành công ty giải trí hàng đầu thế giới và bảo vệ thương hiệu được công chúng vô cùng yêu mến. Tôi tiếp cận Eisner để đề nghị viết một cuốn sách về công ty vào năm 2001. Kể từ khi tham gia vào vụ kiện chống độc quyền chống lại các kênh truyền hình, ngành kinh doanh giải trí và Hollywood đã hấp dẫn tôi. Từng viết nhiều cuốn sách về thế giới tài chính phố Wall hay thế giới chính trị Washington, Hollywood dường như là trung tâm quyền lực và ảnh hưởng tiếp theo xứng đáng để tôi khai thác. Và với hình ảnh luôn được ngợi ca, những thành công nghệ thuật, chưa kể đến khá nhiều diễn biến kịch tính trong hoạt động kinh doanh thì dường như Disney là lựa chọn rõ ràng đối với tôi. Có thể đoán ngay là Eisner không hề hào hứng với ý tưởng đó. John Dreyer, khi đó là giám đốc quan hệ công chúng của Disney, thì lịch sự tiếp đón tôi nhưng không hề khuyến khích ý tưởng có một cuốn sách về Disney. Mặc dù vậy, khi tôi tiếp tục thu thập thông tin, Dreyer đã mời tôi tới gặp ông tại trụ sở của Disney ở Burbank. ... Mời các bạn đón đọc Cuộc Chiến Disney của tác giả James B. Stewart.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Henry Ford và Ford - Đặt Thế Giới Lên Bốn Bánh Xe - Lê Minh Toàn
Đặt thế giới lên bốn bánh xe là cuốn sách do Tổ hợp Giáo dục PACE biên soạn tóm gọn những nét cơ bản về cuộc đời của Henry Ford – ông chủ hãng xe Ford lừng danh thế giới. Cuốn sách được chia làm bốn phần, trong đó: Phần 1 phác họa cho người đọc về cuộc sống của Henry Ford khi đã là một tỉ phú – một cuộc sống giản dị trong sinh hoạt, hăng say trong lao động sáng tạo. Phần 2 là những quyết định góp phần thay đổi thế giới của Henry Ford. Đó là tư duy trong công việc, không ngừng tư duy, không ngừng sáng tạo và cải tiến. Ông đã sáng tạo ra học thuyết Ford – tạo ra dây chuyền sản xuất đầu tiên trên thế giới. Phần 3 là quá trình học tập, rèn luyện của Henry Ford. Ông đã cho mọi người thấy tầm quan trọng của việc học tập – không chỉ từ sách vở mà còn từ kinh nghiệm đời sống, trải nghiệm lao động và từ những người thợ lành nghề, những người có kinh nghiệm… Phần 4 là di sản của Henry Ford, nói đến những bạn bè thân tín của ông cũng như những đối thủ lừng danh ông đối đầu, và người kế vị ông. Đồng thời cũng thể hiện mục tiêu của ông, đó là phụng sự xã hội chứ không chỉ là kiếm tiền. *** Cả thế giới đang di chuyển trên những chiếc xe bốn bánh có gắn động cơ. Không chỉ Mỹ hay Châu Âu - cái nôi của những sáng chế đầu tiên về xe hơi, mà ngay cả rất nhiều nước Châu Á, ôtô- đã trở thành một vật dụng quen thuộc của các gia đình. Có nhận định rằng, ôtô đã làm thay đổi rất lớn lối sống của người Mỹ tới mức kh1o có thể tưởng tượng rằng họ có thể sống mà không có nó. Ôtô cũng không phải là giấc mơ xa với với những người có thu nhập trung bình nữa. Nếu chúng ta đi ngược về quá khứ, vào những năm đầu thế kỷ XX, buổi đầu của nền công nghiệp xe hơi thì sẽ thấy một sự tương phản rất lớn. Thời đó, những chiếc xe hơi là cả một gia tài lớn đối với một người trung lưu ở Mỹ và Châu Âu. Xe hơi như một thứ đồ chơi của giới thượng lưu, một biểu tượng của sự xa hoa dành riêng cho giới quý tộc. Những hãng sản xuất xe hơi đã hốt bạc một cách “nhẹ nhàng” trên các sản phẩm dành cho nhà giàu. Chẳng ai dại dột phổ biến công nghệ hay tìm cách làm cho các sản phẩm phong phú hơn, vì như vậy họ sẽ phải bỏ ra nhiều công sưc hơn để làm ra một sản phẩm bằng cách lắm tiền là phương châm kinh doanh của các hãng xe hơi thời đó. Một cá nhân vĩ đại là người biết đặt lên vai mình một sứ mệnh đối với xã hội mà anh ta đang sống. Henry Ford đã đặt lên vai mình một sứ mênh cao cả: góp phần làm đại chúng hoá xe hơi trên toànthế giới. Đó không phải là giấc mơ xa xăm, mà nó đã được hiện thực hoá ngay sau khi Ford Motor ra đời trên thị trường chưa đầy 20 năm. Quả thực đó là một bước tiến kỳ diệu. Henry Ford, vị thánh ấy đã làm gì và đã làm như thế nào? Cuốn sách nhỏ bé này sẽ hé lộ về Ford, không phải là chân dung về ông, mà về những gì ông đã làm để giúp cho chiếc xeương tiện của đại chúng.   Mời các bạn đón đọc Henry Ford và Ford - Đặt Thế Giới Lên Bốn Bánh Xe của tác giả Lê Minh Toàn.
Bạch Thái Bưởi - Khẳng Định Doanh Tài Nước Việt - Lê Minh Quốc
Bộ sách  mà bạn đọc  đang cầm trên  tay là kết quả của  dự  án nghiên  cứu  mang tên  Đi tìm  Đạo Kinh doanh của Việt Nam và Thế  giới do Tổ hợp Giáo dục PACE thực hiện trong suốt 14 tháng vừa qua.   Chúng tôi đặt  tên  cho bộ sách  này  là Đạo  Kinh doanh Việt Nam và  Thế giới  với  mong muốn được chia sẻ cùng  bạn  đọc,  đặc biệt   là bạn  đọc  doanh nhân và bạn đọc quan tâm đến kinh doanh, những kiến giải về hàng  loạt các câu hỏi như: “Kinh doanh là  gì?”, “Doanh nhân là  ai?”, “Đâu  là ‘đạo’   của  nghề kinh doanh?” và “Tại  sao kinh doanh là một  nghề cao quý và xứng  đáng  được  xã hội tôn vinh?”...   Đội ngũ chuyên  gia của PACE cùng  các cộng  sự đã nghiên cứu cuộc  đời và sự nghiệp của 25 doanh nhân huyền thoại,  đến  từ 25 tập đoàn kinh doanh dẫn đầu trong những bảng xếp hạng doanh nghiệp trên toàn thế giới, nhằm  tìm kiếm  “cái đạo”,  cái triết  lý cốt lõi trong kinh doanh của họ. Mục đích  là để lý giải  xem vì sao họ  là những người kiếm tiền nhanh nhất, kiếm tiền nhiều nhất  và kiếm tiền bền vững nhất thế giới, đồng thời họ lại được  xã hội đặc biệt kính trọng?   Phân tích  từng chặng đường,  từng mốc sự nghiệp, từng bước thăng trầm... của những  huyền thoại doanh nhân này, chúng tôi đã đúc kết được  những  nét chung nhất, nói chính  xác hơn, là những yếu tố khiến họ trở nên vĩ đại, trở thành  những  doanh nhân huyền thoại. Đó  là sự khao khát,  là niềm đam mê một cách mãnh liệt để sáng tạo, để đem đến thật nhiều giá trị mới cho cuộc  sống  và cho xã hội.  Họ đã thực hiện được điều đó bằng việc  cống hiến  cả cuộc đời mình  lẫn việc truyền đạt, dẫn đường cho hậu thế.   Trong lời đầu  này của bộ sách, chúng tôi cũng muốn kể lại với quý  vị một  vài câu chuyện và một  vài so sánh mà PACE luôn tự hào khi tìm  thấy nó trong hành trình Khát vọng Doanh trí của mình  trong suốt những năm vừa qua:   Bà chủ một tiệm  tạp hóa suốt  ngày  không vui vì buôn bán ế ẩm.  Nhưng sau những ngày tháng nhìn vào “mắt” khách hàng, bà chợt nghĩ: “Sao tôi không là người giải quyết  vấn đề nhu yếu phẩm cho cả xóm?”. Và mọi  chuyện thay đổi.  Từ đó, nhiều gia đình chưa khá giả trong khu phố  có thể mua một, hai gói mì tôm (mà không cần phải mua cả thùng   mì),  một tép bột ngọt (mà không cần phải mua cả gói bột ngọt).   Bà có thể mở cửa lúc mờ sáng  hay nửa đêm, khi chẳng còn nơi nào bán hàng nữa để đáp ứng nhu cầu “hết chanh đột xuất”  hoặc “nhà  không còn nước mắm”.  Hay hơn nữa, mọi người chỉ “xẹt” một hai bước chân là có ngay những  vật phẩm cần thiết nhất cho gia đình.  Lại thêm chuyện giá  cả của  bà  so với  chợ  và  siêu  thị cũng chẳng chênh  lệch   là bao. Ai cũng đoán ra kết quả: cửa tiệm suốt ngày người ra kẻ vào,  bà thì bán hàng luôn tay và cười nói luôn miệng. Không chỉ tiền lãi thu được tăng cao, mà bà còn  có “lợi nhuận” lớn nhất   là sự quý mến   của mọi người  dành  cho một người biết kinh doanh như bà.  *** Có lẽ, Bạch  Thái  Bưởi  chưa phải  là nhà  tư sản giàu nhất trong lịch  sử Việt Nam. Nhưng ông lại chính là nhà  buôn nổi danh nhất  và được  nhiều người kính  trọng, ngưỡng  mộ lẫn công kích nhất.   Người ta chẳng truyền tụng nhiều về gia sản của ông, sử sách  cũng  chỉ  ghi chép  khá tản mạn  về những công ty, nhà xưởng  và công việc  của ông. Nhưng cho đến mãi tận ngày  nay, người ta vẫn tôn vinh Bạch Thái Bưởi vì ông chính là người đầu tiên khẳng định  vị thế của doanh nhân Việt, người làm kinh doanh với khát vọng to lớn  là cải tạo  xã hội,  mà  cụ thể là ước  vọng   có thể xây dựng một Hà Nội lung linh hoa lệ như Paris…   Khẳng  định doanh tài  nước   Việt từ  bàn   tay trắng, trong một thời kỳ đen tối của đất nước.  Quả thật,  đó là việc  đáng  tôn vinh.   Đó là một  thời  kỳ Việt   Nam sống trong chế  độ thuộc   địa  Pháp.  Đó cũng  là một  thời  kỳ đặc biệt, khi cánh  cửa mở ra, người Việt lần đầu tiên  đón nhận những tri thức mới, kinh nghiệm làm ăn mới của thế  giới. Một bộ phận  trí thức đã ý  thức được nhiệm   vụ tiên  phong của  họ là phất  lên  ngọn  cờ khai trí, kêu  gọi đồng  bào đổi mới để nỗ lực đưa dân tộc phát triển sánh ngang với các cường  quốc phương Tây.   Đó  là thời  kỳ mà  nghề buôn lần đầu tiên  trong lịch  sử được  xem trọng, được cổ súy nhiệt  liệt. Một phong trào thực nghiệp  rầm rộ cả nước.   Chính trong buổi đầu phát triển ngành kinh doanh tại Việt Nam đã xuất hiện  một lớp doanh nhân mới ưu tú – những doanh nhân kinh doanh thành đạt nhờ giải  quyết tốt những  nhu cầu   xã hội  và có một tinh thần  vì cộng đồng  rất cao.   Khi nói  tới lớp  doanh nhân ưu tú này,  cái  tên Bạch Thái Bưởi luôn được người đương thời   và cả hậu thế  nhắc đến  với niềm kính  trọng  lẫn  tự hào. Bạch  Thái  Bưởi  là ai? Xung quanh nhân vật này có rất nhiều huyền thoại. Khó ai có thể hình dung một người Việt Nam tay trắng  có thể làm nên một sự nghiệp  lẫy lừng dưới thời thuộc địa.   Từ một công chức làm trong một hãng thầu công chánh  của Pháp,  một ngày nọ Bạch  Thái  Bưởi  đã quyết chí mạo hiểm làm giàu. Chàng  trai ấy  đã từng xuất dương để học tập kinh nghiệm, để tiếp cận  với tri thức  thế  giới nhằm  có một  nền tảng vững  chắc trong kinh doanh.   Chính từ khát  vọng  làm  giàu  và những   kinh nghiệm từ sách vở, Bạch  Thái Bưởi đã thành  công trên  thương trường. Chỉ sau một thời gian ngắn Bạch Thái công ty đã vươn ra rất nhiều lĩnh vực, từ  nghề buôn gỗ, thầu  thuế  chợ đến kinh doanh thuyền bè trên sông nước, khai mỏ…   Dưới thời thuộc  địa, các nhà buôn của ta bước ra thương trường  cũng là bước  vào  một  cuộc  cạnh tranh với tư bản các nước  như tư bản Hoa kiều, Pháp kiều… Bạch Thái Bưởi đã thành  công không chỉ  nhờ sự nhạy  bén trong kinh doanh mà chính là từ quan niệm  của ông về việc kinh thương: kinh doanh là cách  để giải quyết  những nhu cầu trong xã hội,  để khẳng định  hình  ảnh của người Việt trên thương trường.   Nhà văn Lê Minh Quốc,  tác giả của tập sách này kể với chúng  tôi: “Một trong những khó khăn cần phải vượt qua là đánh   giá  như thế nào  về con người Bạch Thái Bưởi? Thực chất ông là người như thế  nào?  Có tư liệu cho rằng, trong đời thường ông là người keo kiệt,  bủn xỉn, làm giàu bằng nhiều thủ đoạn;  ngược  lại có tài liệu  ghi nhận ông như một nhà cách  mạng.  Cả hai thái độ đánh  giá như thế đều có gì đó  chưa xác đáng.  Không biết  dựa vào nguồn tư liệu nào,  có khá  nhiều bài  viết đề cập đến chi tiết “có lần lên  tiếng bênh vực cho quyền lợi của người  dân bị trị, trong Hội nghị kinh tế  lý tài, ông bị Toàn  quyền Robin đe dọa: “Nơi nào  có Robin thì không có Bạch Thái Bưởi”,  ông đáp  lại: “Nước   này còn Bạch  Thái  Bưởi  thì  không còn Robin”. Do không tìm được, không tìm thấy trong tư liệu  gốc đề cập đến chuyện “giật gân” này nên tôi dứt khoát không sử dụng.  Hơn nữa Bạch Thái Bưởi qua các tư liệu  đã thu thập  và chọn lọc thì tôi ngờ rằng,  không bao giờ ông buột miệng  nói những câu “dại dột” như vậy.  Đó không phải là tính  cách của một người lão luyện,  bản lĩnh, nhiều kinh nghiệm trên  thương trường... như Bạch Thái Bưởi”.   Bạn đọc đang cầm trên tay tập sách viết về hành trình  đặc biệt của một con người kinh doanh vì xã hội, một hành trình  đầy ắp  gian nan, vất vả. Ông đã  để lại một  kinh nghiệm   sống còn trong kinh doanh, một  bài học quý báu cho đời sau là  cách xác lập mục  tiêu  làm giàu. Nếu chỉ bo bo thu vén để giàu nứt nố đổ vách,  thu vén cho riêng cá nhân mình như biết bao nhà tư sản khác, thì ngày nay không mấy ai buồn nhắc đến  tên tuổi của ông nữa, bởi cái giàu ấy nghĩ  cho cùng  cũng  chỉ  là “giàu như Thạch Sùng” mà thôi.   Hơn một trăm năm trôi qua, ngồi  ngẫm  lại để thấy người xưa đã thật  sự giong buồm ra biển lớn một  cách  tự tin, đàng  hoàng  và còn nguyên  vẹn những  bài học về thuật  xử thế,  phép  kinh thương cũng như một tấm lòng toàn vẹn với đồng  bào. ... Mời các bạn đón đọc Bạch Thái Bưởi - Khẳng Định Doanh Tài Nước Việt của tác giả Lê Minh Quốc.
Akio Morita và Sony Kiến Tạo Nền Giải Trí Tương Lai - Lê Nguyễn
Cùng bạn đọc: Kiếm tiền hay phụng sự xã hội? Bộ sách mà bạn đọc đang cầm trên tay là kết quả của dự án nghiên cứu mang tên “Đi tìm Đạo Kinh doanh của Việt Nam và Thế giới” do Tổ Hợp Giáo Dục PACE thực hiện trong suốt 14 tháng vừa qua. Chúng tôi đặt tên cho bộ sách này là “Đạo Kinh doanh Việt Nam và Thế giới” với mong muốn được chia sẻ cùng bạn đọc, đặc biệt là bạn đọc doanh nhân và bạn đọc quan tâm đến kinh doanh, những kiến giải về hàng loạt các câu hỏi như: “Kinh doanh là gì?”, “Doanh nhân là ai?”, “Đâu là “đạo” của nghề kinh doanh?” và “Tại sao kinh doanh là một nghề cao quý và xứng đáng được xã hội tôn vinh?”... Từ câu chuyện của những huyền thoại doanh nhân thế giới *** Tôi gọi ông là một huyền thoại – một huyền thoại đã dành trọn cuộc đời mình, trọn sự nghiệp của mình để phục vụ nhân “Khi sinh ra, bạn khóc còn mọi người đều cười. Sống sao cho khi bạn qua đời, mọi người đều khóc trong khi mỗi mình bạn cười” – có một câu thành ngữ mà dẫu nhiều năm qua rồi, nhiều người dân Nhật vẫn thỉnh thoảng nhớ lại khi nhìn thấy một cái ti-vi mang nhãn hiệu Sony. Họ, những con người hết sức bình thường ấy, hầu hết chưa một lần gặp gỡ người cha của tập đoàn Sony Akio Morita. Nhưng với họ, ông chiếm một vị trí quan trọng, thật quan trọng trong lòng họ. Đơn giản, ông đã làm thay đổi cuộc sống của họ, làm thay đổi môi trường sống xung quanh họ bằng tài năng xuất chúng và tinh thần xã hội rộng lớn của mình. Một trong những người bạn của tôi, chị Miki Amorato, đang làm việc tại Thành phố Hồ Chí Minh đã kể cho tôi về những giọt nước mắt của bà nội mình khi nghe tin Akio Morita qua đời. Miki không khóc, nhưng giọng chị nghe nghèn nghẹn lúc nhớ lại khoảnh khắc chị theo dõi đám tang của ông cách đây đã nhiều năm... * * * Ngày 4.10.1999, một ngày thu ảm đạm ở đảo quốc mặt trời mọc, thanh âm những nhạc phẩm của Giacomo Puccini vang vọng khắp nơi. Những giai điệu opera đẫm chất Ý này lại chính là giai điệu đưa tang một huyền thoại của nước Nhật: Akio Morita – người sáng lập tập đoàn Sony. Đơn giản, vì đây là những giai điệu mà ông thích nhất khi còn sống. Ngày hôm ấy, nước Nhật khóc khi giã từ một người công dân tuyệt diệu của mình. Akio Morita ra đi ở tuổi 78 sau khi đã cống hiến cho nước Nhật và thế giới những giá trị vô cùng to lớn. Hơn 3.000 người, gồm nhiều chính khách và nhà ngoại giao, trong đó có các cựu Thủ tướng, các lãnh đạo những tập đoàn lớn tại Nhật Bản đã tập trung trước khách sạn Tokyo để tiễn đưa Morita về nơi an nghỉ cuối cùng. Mọi người đứng yên và cúi đầu trước chân dung của Morita trên màn hình khổ lớn cao 3m trong nhạc phẩm Ave Maria của nhà soạn nhạc Đức, Schubert do dàn nhạc Tokyo Philharmonic biểu diễn. Những thước phim video phát lại hình ảnh Morita khi còn trẻ đang bày tỏ niềm mong muốn làm chiếc cầu nối giữa Nhật Bản và phần còn lại của thế giới, những hình ảnh về chiếc ti-vi đầu tiên xuất hiện trên thị trường, niềm vui của lô hàng xuất khẩu đầu tiên... Khi chiếc xe chở quan tài Morita chạy ngang trụ sở của Sony, khoảng 3.000 công nhân viên của tập đoàn đã đứng sẵn hai bên đường, kính cẩn từ biệt người lãnh đạo, người thầy, người bạn lớn của họ, người  đã gắn bó cuộc đời mình với thương hiệu Totsuko và Sony suốt hơn 50 năm. 50 năm ấy, Akio Morita đã làm thay đổi xã hội Nhật Bản bằng những ý tưởng của mình. Hơn thế nữa, ông đã làm thay đổi cả cách nhìn của thế giới về đất nước bị bại trận trong chiến tranh với tàn tích của hai quả bom nguyên tử. Tôi gọi ông là một huyền thoại – một huyền thoại đã dành trọn cuộc đời mình, trọn sự nghiệp của mình để phục vụ nhân loại.   Mời các bạn đón đọc Akio Morita và Sony Kiến Tạo Nền Giải Trí Tương Lai của tác giả Lê Nguyễn.
Chiến Lược Doanh Nghiệp: Tập Trung Hay Là Chết - Al Ries
Bất kỳ doanh nghiệp nào cũng mong muốn lớn mạnh, nhưng nên lớn mạnh thế nào? Theo cách nào? Cần có một chiến lược phát triển ra sao? Mới đây, tại một buổi hội thảo về Chiến lược Kinh doanh do Câu lạc bộ Các thương hiệu dẫn đầu Việt Nam tổ chức, các chiến lược kinh doanh đã được đặt ra và là chủ đề lôi cuốn sự chú ý của nhiều doanh nhân. Thứ nhất, các công ty có thể chọn chiến lược theo chiều dọc, theo dòng phát triển của sản phẩm, phát triển nguồn cung cấp hay mở thêm kênh phân phối. Thứ hai, họ có thể lựa chọn phát triển theo chiều ngang, mở rộng mặt hàng đang sản xuất. Hoặc thậm chí, có thể mở thêm những ngành nghề hoàn toàn mới không liên quan nhiều đến lĩnh vực kinh doanh ban đầu.  Vậy đâu là giải pháp tối ưu cho các doanh nghiệp? Focus – The Future of Your Company Depends on It, cuốn sách của Al Ries mà các bạn cầm trên tay và được dịch với tiêu đề Chuyên biệt để khác biệt, có thể sẽ là một lời giải đáp thỏa đáng. Al Ries chỉ ra rằng phát triển và mở rộng không phải bao giờ cũng hứa hẹn những điều tốt đẹp. Phát triển và mở rộng cũng hàm chứa nhiều rủi ro và cạm bẫy khi các công ty thiếu định hướng tập trung, rời xa dần ngành kinh doanh ban đầu. Việc mở rộng mặt hàng và đa dạng hóa sản phẩm thường khiến khách hàng bối rối… Việc sáp nhập, mua lại các công ty/thương hiệu khiến cho nhiều thương hiệu nổi tiếng bị phân tán quá mức và mất ổn định.  Các nhà quản lý bị tác động bởi nhiều kiểu chiến lược khiến công ty mất định hướng tập trung. Mục tiêu phát triển bằng bất kỳ giá nào khiến các công ty đầu tư không chọn lọc, phát triển các sản phẩm mới không liên quan đến hoạt động kinh doanh chính, không chuẩn bị kỹ cho thị trường mới, kênh phân phối mới…  Ries cho rằng lớn hơn chưa chắc đã tốt hơn. Ries liệt kê các ví dụ trong nhiều ngành công nghiệp như McDonald's, Burger King đến Volvo và Chrysler để chứng tỏ rằng, về lâu dài, các công ty hoạt động theo định hướng tập trung thường thành công và đạt nhiều lợi nhuận. Các công ty mất định hướng tập trung có thể tăng nhanh lợi nhuận trong ngắn hạn khi đa dạng hóa nhưng về dài hạn lại không hiệu quả.  Ries chỉ cho các công ty giải pháp để kinh doanh tập trung, có thể cần phải hy sinh, từ bỏ một phần thị trường, một số sản phẩm, thậm chí cả một số kênh bán hàng. Những công ty tập trung là những công ty thành công nhất. Microsoft nổi tiếng là công ty sản xuất phần mềm, IBM sản xuất máy tính lớn, Intel sản xuất vi mạch… Đó là những hình mẫu thành công chứ không phải những tập đoàn đa dạng hóa mặt hàng.  Đây là cuốn sách đặc biệt thú vị và hẳn sẽ gây nhiều tranh cãi. Đa dạng hóa hay không đa dạng hóa? Tập trung hay không tập trung? Đó vẫn là những câu hỏi lớn đặt ra cho các nhà lãnh đạo. Tại Việt Nam hiện nay, nhiều tập đoàn đang phát triển theo chiến lược đa dạng hóa mặt hàng, có lẽ sẽ thu được nhiều bài học hữu ích từ cuốn sách này. Al Ries là một trong những chiến lược gia về marketing xuất sắc nhất trên thế giới. Tiếp theo 22 Quy luật vàng trong xây dựng nhãn hiệu và Nguồn gốc nhãn hiệu mà Alpha Books đã xuất bản, chúng tôi xin trân trọng giới thiệu với độc giả cuốn sách Tập trung để khác biệt này. NGUYỄN CẢNH BÌNH Công ty Sách Alpha *** Bộ Sách PR Xây Dựng Thương Hiệu & Doanh Nghiệp gồm có: 1. Tập trung để khác biệt, tác giả: Al Ries, Laura Ries; 2. Nguồn gốc nhãn hiệu, tác giả: Al Ries, Laura Ries; 3. Sáng tạo, tác giả: Marty Neumeier, 4. Đảo chiều, tác giả: Marty Neumeier, 5. Khoảng cách, tác giả: Marty Neumeier, 6. Quản trị thương hiệu, tác giả: Patricia F. Nicolino, 7. Chiến lược thương hiệu châu Á, tác giả: Martin Roll, 8. Quản trị thương hiệu cá nhân và công ty, tác giả: Hubert K. Rampersad. *** Cần phải nhấn mạnh là công việc chính của nhà lãnh đạo công ty không chỉ là điều hành công ty đó mà còn xác định tương lai. Công việc hàng đầu của một nhà lãnh đạo không phải là điều hành công ty mà là tìm tương lai cho công ty. Một tương lai cụ thể, bền vững dưới bàn tay của họ. Định hướng tập trung là tương lai khi nó dự đoán tương lai đang nằm ở đâu, sau đó tiến hành từng bước cụ thể biến tương lai thành hiện thực. Khi chọn hai từ ”an toàn” cho định hướng tập trung của mình, Volvo không những đoán được vị trí, phạm vi ngành công nghiệp ôtô dẫn đầu mà còn tự mình hành động để biến tương lai thành hiện thực. Ngày nay, không chỉ riêng Volvo mà còn toàn bộ ngành công nghiệp ôtô đều tập trung vào khái niệm “an toàn”.  Khi Silicon Graphics đeo đuổi định hướng tập trung “sử dụng máy tính 3-D”, vẫn chưa có thị trường nào cho nó. Hiện nay, nhờ nỗ lực của người dẫn đầu là Silicon Graphics, thị trường này đã và đang bùng nổ. Bộ Quốc phòng Mỹ đã dùng game chiến tranh video 3-D thay cho tập trận trên mặt đất. Nhiều ngành khác đang tận dụng khả năng 3-D để tạo mô phỏng cuộc sống thực. Y học, khai thác dầu, thiết kế sản phẩm và kiến trúc chỉ là một trong những ngành sử dụng phương pháp này. Và đương nhiên, video game, hình ảnh cảm xúc và quảng cáo đều dùng hiệu ứng 3-D. Khi 3-D phát triển, Silicon Graphics cũng tăng trưởng theo. Từ năm 1991, doanh thu công ty này đã tăng hơn gấp 3 lần, hiện nay là 2,2 tỷ đô-la/năm. Có một nghịch lý ở đây. Một vài nhà cố vấn khuyến nghị rằng các vị giám đốc điều hành nên dành 3/4 thời gian của mình vào việc tìm kiếm, lập kế hoạch và chuẩn bị cho tương lai. Những gì các giám đốc điều hành nên làm là tìm tương lai cho các hoạt động hiện tại. Bạn mong mỏi sản phẩm gì, dịch vụ gì hay ý tưởng gì cho tương lai? Điều đó trở thành định hướng tập trung của bạn. Nó vừa đơn giản vừa phức tạp. Đối với hầu hết công ty, tìm được sản phẩm, dịch vụ và ý kiến có tương lai tươi sáng không phải khó khăn. Cái khó là chọn được một khái niệm để tập trung. Hầu như các công ty đều không muốn hy sinh.  Silicon Graphics quyết định không đặt cược tương lai lên 3-D. Họ có thể cũng đã giới thiệu một dòng máy trạm kinh doanh, trạm máy kỹ thuật, thậm chí máy tính cá nhân văn phòng? Nếu vậy thì hôm nay Silicon Graphics sẽ ở đâu? Sẽ chỉ là một kẻ vô danh khác trong thị trường trạm máy.  Hơn nữa, đó là vấn đề mâu thuẫn giữa ngắn hạn và dài hạn. Trong thời gian ngắn, dòng được mở rộng có thể tạo ra nhiều kết quả tốt hơn cho Silicon Graphics. Về lâu dài, định hướng tập trung 3-D đem lại kết quả tuyệt vời hơn.  Lịch sử tự lặp lại. Một trong những sự lặp lại tiêu biểu nhất theo quan điểm lập kế hoạch cho tương lai là hiện tượng “thế hệ tiếp theo”. Aspirin được thay thế bởi acetaminophen, vốn được thế chỗ bởi ibuprofen. Máy tính gia đình 8 bit bị thay bởi máy tính văn phòng 16 bit và nó tiếp tục bị chiếm chỗ bởi máy tính 32 bit. Tất nhiên là sự thế chỗ vẫn còn tiếp tục, với máy tính 64 bit chẳng hạn. Một vài ngành công nghiệp quá ràng buộc với việc mở rộng công nghệ riêng vào các lĩnh vực khác mà không nhìn thấy mối đe dọa từ thế hệ tiếp theo. Đơn cử như công nghiệp truyền hình cáp quá bận rộn với việc tìm cách bước vào kinh doanh điện thoại và kinh doanh video theo nhu cầu mà họ dường như không nhìn thấy mối đe dọa từ các hệ thống vệ tinh trực tiếp như DirectTV.  ... Mời các bạn đón đọc Chiến Lược Doanh Nghiệp: Tập Trung Hay Là Chết của tác giả Al Ries.