Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Bí Mật Đảo Lincoln (Jules Verne)

“Đoạn kết của Những đứa con của thuyền trưởng Grant và Hai vạn dặm dưới đáy biển.

Kết cấu hợp lý, tình tiết hấp dẫn, hình tượng nhân vật chắc, kết thúc hơi.. sến, nhưng đúng kiểu làm độc giả té ngửa vào trang chót, đặc biệt, con chó dễ thương:)

Chắc hòn đảo này sinh ra để dành cho những kẻ đắm tàu! câu cảm thán của gã thủy thủ lầy nhất truyện rất đắt, tất nhiên, tạo dựng cả một cơ ngơi từ bàn tay trắng, à không, còn được mẩu diêm, cái đồng hồ, sau tháo luôn cả quả khinh khí cầu.

Tri thức và đôi bàn tay, không thể thiếu sự đoàn kết và tin tưởng lẫn nhau của tất cả các thành viên trong nhóm, họ đã tồn tại, tất cả những gì họ làm để sống đều đáng cho ta học hỏi, từ bất kỳ chi tiết nào!"***

“Jules Verne…tôi không biết một nhà văn nào khác đã gây cho tô những ấn tượng như thế. Tôi đã khao khát đọc những tiểu thuyết của ông. Có những trang của ông đã gây cho tôi sự xúa động không gì cững nổi. Bí mật của hòn đảo Lincoln đã khiến tôi lạnh toát người vì khiếp sợ…” -(V.BRJUSOV, nhà văn Xô Viết). Tìm mua: Bí Mật Đảo Lincoln TiKi Lazada Shopee

“Bí mật đảo Lincoln”…có thể nói là hình ảnh thu nhỏ của lịch sử văn minh Châu Âu, do đó, cũng là lịch sử phát triển khoa học…” (Báo Tiếng Nói, Peterburg, Nga, 1985

***

Sau khi các tiểu thuyết “Những đứa con của thuyền trưởng Grant” (1868) và “Hai vạn dặm dưới biển” (1870) ra đời, được bạn đọc gần xa nhiệt liệt tán thưởng, năm 1875, Jules Verne (1828 - 1905), nhà văn Pháp nổi tiếng, một trong những người sáng lập thể loại truyện khoa học viễn tưởng, đã cho xuất bản tiếp tiểu thuyết “Bí mật đảo Lincoln”[1]. Trong cuốn tiểu thuyết mới này, tác giả đã tiếp tục phát triển cốt truyện sinh động và hấp dẫn của hai tiểu thuyết trên, vì vậy nó đã liên kết các tác phẩm ấy thành bộ tiểu thuyết ba tập duy nhất và nổi tiếng nhất của Jules Verne: “Những đứa con của thuyền trưởng Grant”, “Hai vạn dặm dưới biển” và “Bí mật đảo Lincoln”.

Ta gặp trong “Bí mật đảo Lincoln” kỹ sư Cyrus Smith, nhà báo Gédéon Spilett, anh da đen Nab, thủy thủ Pencroff và chú thiếu niên Harbert. Họ là những người Mỹ lương thiện trốn khỏi trại tù binh bằng một quả khinh khí cầu, nhưng chẳng may bị bão cuốn, gặp tai nạn, rơi xuống một hòn đảo hoang ở Thái Bình Dương, cách rất xa đất liền, trở thành những người trần trụi giữa mảnh đất trần trụi. Họ thiếu thốn đủ mọi thứ cần thiết nhất cho cuộc sống của con người bình thường: không có cái ăn, không có lửa, không có một cái gì có thể gọi là công cụ… Thực tế đã buộc họ trở lại sống chẳng khác gì những người hoang sơ: ở hang, dùng đá, gậy, cung, tên để săn bắt muôn thú sống qua ngày. Song, là những người từng trải, mỗi người lại có những kiến thức và kinh nghiệm sống trong xã hội văn minh, họ không tỏ ra thất vọng, bi quan, không chịu khuất phục trước hoàn cảnh khắc nghiệt. Dưới sự hướng dẫn của kỹ sư Cyrus Smith, một người trí thức tài năng, rất cần cù, sáng tạo, đôn hậu và chân thành, linh hồn của cả toán, những người bị nạn ấy đã dần dần vận dụng những kiến thức khoa học kỹ thuật để chinh phục thiên nhiên, khai thác các tài nguyên tại chỗ, làm ra những thứ cần thiết cho cuộc sống của con người văn minh - lấy lửa, nung gạch, luyện sắt thép, chế thuốc súng, vũ khí, công cụ lao động, máy điện báo, đóng tàu, trồng lúa, nuôi gia súc, gia cầm… Từ những người bị nạn họ trở thành những người di dân chung sức chung lòng xây dựng hòn đảo hoang mà họ đã đặt tên là đảo “Lincoln” thành một vùng di dân trù phú, một công xã tiêu biểu cho lối sống mới - con người trong cộng đồng, trong tập thể đoàn kết, thương yêu, giúp đỡ nhau, không phân biệt địa vị xã hội, màu da, cùng hòa mình trong lao động tận tụy vì sự nghiệp chung…

Cư dân thứ sáu trên đảo là Ayrton. Đó chính là tên tướng cướp Ben Joyce trong “Những đứa con của thuyền trưởng Grant” đã bị đày lên đảo Tabor (cách đảo Lincoln 150 hải lý) từ 12 năm trước đây để tự cải tạo, chuộc lại những tội lỗi của mình, trong một chuyến tàu đi thăm đảo Tabor, những người di dân trên đảo Lincoln đã tìm thấy anh ta trong trạng thái không còn là một con người, mà đã hoang hóa thành một con thú sau những năm tháng sống cô đơn và mất lý trí. Những người di dân đã đưa anh ta trở về sống trong xã hội nhỏ bé của mình. Và, trước niềm tin yêu con người mạnh mẽ cùng tấm lòng nhân đạo cao cả của những người bạn mới, Ayrton đã bị cảm hóa và tự thú tội lỗi, trút bỏ dần nỗi u sầu, mặc cảm về quá khứ đen tối của mình, trở thành một người lao động cần cù và trung thực. Chính anh ta đã tham gia chiến đấu dũng cảm, giáng trả quyết liệt bọn cướp biển đến xâm chiếm đảo, bảo vệ những thành quả lao động mà tập thể họ đã tạo dựng nên, đồng thời khẳng định sự trung thành của mình.

Bạn đọc cũng sẽ bất ngờ và thích thú được gặp lại nhân vật yêu thích của mình trong “Hai vạn dặm dưới biển” - thuyền trưởng Nemo bí ẩn cùng với con tàu ngầm kỳ diệu “Nautilus” của ông trú đậu ngay bên dưới hòn đảo “Lincoln”. Nhưng, bây giờ đây chúng ta sẽ gặp lại một thái tử Dakkar, một người Ấn Độ yêu nước, một Nemo đầy lòng căm ghét, nguyền rủa sự áp bức, bóc lột và sự thống trị tàn bạo của giai cấp tư sản và thực dân đế quốc đối với nhân dân lao động, song ông không còn xa lánh xã hội loài người nữa. Chính là do tấm lòng cao thượng, đức tính trung thực, lao động cần cù và tình thương yêu gắn bó lẫn nhau của những người di dân - những đại diện của xã hội loài người trên hòn đảo này - đã thuyết phục, cảm hóa ông. Và, vì vậy, ông đã bí mật gắn bó với họ và nhiều lần ra tay cứu giúp họ thoát khỏi hiểm họa.

Trên đảo “Lincoln” liên tiếp xảy ra những sự việc bí ẩn, bất ngờ liên quan đến cuộc sống của những người di dân, khiến người đọc hồi hộp theo dõi. Những hiện tượng ấy tưởng như siêu nhiên, nhưng thật ra, tất cả đều được giải thích rõ ràng bởi chính sức mạnh của khoa học kỹ thuật, đúng hơn là, bởi chính những con người được trang bị kiến thức khoa học kỹ thuật, bởi lòng nhân đạo và niềm tin vào con người.

… Hòn đảo “Lincoln”, khu di dân, thực chất là một công xã kiểu mẫu mà những con người lao động cần cù, dũng cảm đã xây dựng nên và gắn bố suốt bốn năm trời ấy cuối cùng đã bị nổ tung, chỉ còn lại một tảng đá ngầm.

Vì sao tác giả lại kết thúc cuốn truyện đầy hấp dẫn của mình bằng một sự bi đát như vậy?

Có lẽ ở đây sự kết thúc ấy không phải chỉ thể hiện diễn biến của cốt truyện, mà còn mang một ý nghĩa triết học.

Jules Verne là một người chịu ảnh hưởng sâu sắc của chủ nghĩa xã hội không tưởng và Công xã Paris. Ông muốn khi di dân, hay cái công xã kiểu mẫu ấy tồn tại không phải trên một hòn đảo chơi vơi, xa cách với loài người, mà ở ngay trên đất liền, giữa thế giới con người…

Và, những người di dân ấy, kể cả con chó Top trung thành của họ, đều đã được con tàu “Duncan” tình nghĩa cứu thoát và đưa về Mỹ… Họ tiếp tục sống với nhau trong tình cảm cao đẹp như xưa, và đã dùng số châu báu của thuyền trưởng Nemo tặng để tái tạo một khu di dân, một công xã “Lincoln” mới ngay trong lòng nước Mỹ, thu nhận vào đây những người khốn khó, giúp họ lao động và xây dựng cuộc sống hạnh phúc trong một cộng đồng mới đầy tình yêu thương, tin tưởng vào con người, bình đẳng và không có chế độ người bóc lột người…

“Bí mật đảo Lincoln” là cuốn tiểu thuyết vừa mang tính chất phiêu lưu mạo hiểm, lại vừa mang tính chất khoa học viễn tưởng với nội dung phong phú và hấp dẫn. Tuy nhiên, để cho phù hợp với hoàn cảnh của ta hiện nay, trong khi dịch chúng tôi đã lược bớt một số đoạn để tập sách khỏi dày quá. Mặt khác, việc dịch thuật chắc không tránh khỏi những thiếu sót. Mong được bạn đọc thông cảm và đóng góp cho những ý kiến phê bình.

Người dịch

***

Jules Gabriel Verne sinh ngày 8 tháng 2 năm 1828 tại Pháp và được coi là cha đẻ của thể loại Khoa học viễn tưởng.

Để theo đuổi việc viết văn, Jules Verne đã bỏ học luật, nghề cha ông định hướng. Cuốn tiểu thuyết đầu tay thành công Năm tuần trên khinh khí cầu (1863) đã mở đầu cho hàng loạt các tác phẩm nổi tiếng về sau của Jules Verne như Cuộc Thám Hiểm Vào Lòng Đất (1864), Hai vạn dặm dưới biển (1870), 80 Ngày Vòng Quanh Thế Giới (1873)… Các tác phẩm của ông được dịch khắp nơi trên thế giới.

Jules Verne mất ngày 24 tháng 3 năm 1905. Sau khi ông qua đời, nhiều tiểu thuyết chưa in của ông vẫn được tiếp tục xuất bản.Dưới đây là những tác phẩm đã xuất bản của tác giả "Jules Verne":Cuộc Du Hành Vào Lòng ĐấtNhững Đứa Con Của Thuyền Trưởng GrantBay Quanh Mặt TrăngBí Mật Đảo LincolnChú Bé Thoát Nạn Đắm TàuCuộc Phiêu Lưu Kỳ Lạ Của Đoàn BarsacCuộc Thám Hiểm Vào Lòng ĐấtMột Lễ Cưới Khác ThườngNgọc Phương NamNgọn Hải Đăng Nơi Cuối TrờiNgười Hoa Tiêu Trên Sông DanubePhiêu Lưu Vào Mỏ Than AberfoyleThuyền Trưởng Tuổi 1580 Ngày Vòng Quanh Thế Giới5 Tuần Trên Khinh Khí CầuHai Vạn Dặm Dưới Đáy Biển

Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Bí Mật Đảo Lincoln PDF của tác giả Jules Verne nếu chưa có điều kiện.

Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.

Nguồn: thuviensach.vn

Đọc Sách

Nhật Ký Kẻ Mị Tình (Soren Kierkegaard)
Bước vào Nhật ký kẻ mị tình là bước vào một biển mơ, đắm đuối trong bầu không khí Tình, ngụp lặn trong Tình, tưởng chừng như con người sống chỉ có một mục đích duy nhất là tình, không có gì cưỡng lại nổi mối tình đang ngày một lớn lên ấy. Johannes vừa là kẻ mị tình, vừa là kẻ bị tình mị, là kẻ đi cám dỗ rồi để bản thân mình bị cám dỗ, lưu đày tâm trí trong cõi yêu đương. Ẩn sâu trong biển tình ấy, tài năng của Kierkegaard còn những kiến thức về văn hóa, triết học, lịch sử bằng một hệ thống ngôn ngữ văn chương thơ mộng. Đó cũng là mầm mống cho những phát triển tư tưởng triết học nghệ thuật của Kierkegaard sau này, và là điểm đặc biệt khiến Kierkegaard luôn được xem là một người làm nên nền triết học chủ quan và nặng tính thẩm mỹ. Kierkegaard được sinh ra tại Copenhagen, Đan Mạch trong một gia đình dòng dõi giàu có. Ông thừa hưởng tính khí u sầu từ cha mình và trải qua một tuổi trẻ bất hạnh. Cả cuộc đời ông chưa từng làm bất kỳ một công việc nào, chỉ tập trung vào sự nghiệp văn chương và triết học. Cả đời Kierkegaard mang trong mình mối si tình lãng mạn với Regine Olsen, nhưng khi đã hứa hôn, ông lại rơi vào trạng thái hoang mang và xin từ bỏ hôn ước, mặc dù cả hai thừa nhận vẫn còn yêu nhau tha thiết. Regine Olsen đi lấy chồng, và Kierkegaard mang trong mình nỗi sầu khổ vĩnh viễn về mối tình dang dở này.*** Soren Kierkegaard sinh ngày 05/05/1813 tại Copenhagen, Đan Mạch. Ông là con út trong một gia đình có 7 người con. Khi S. Kierkegaard ra đời thì cha đã 56 tuổi và mẹ đã 45 nên ông thường nhận mình là một đứa con nít trong một gia đình già. Tìm mua: Nhật Ký Kẻ Mị Tình TiKi Lazada Shopee 1830 - 1841: Thời gian học Đại học Copenhagen vật vã kéo dài trong 11 năm, mãi đến năm thứ 10, Kier mới vượt qua được kỳ thi tốt nghiệp môn thần học. Trong thời gian này, lần lượt cha mẹ và 3 anh chị khác trong gia đình Kier qua đời. 1841 từ hôn Regine Olsen và cũng là năm hoàn thành luận văn “On the Concept of Irony with constant reference to Socrates” (Om Begrebet Ironi med stadigt Hensyn til Socrates). Hàng loạt các tác phẩm ra đời bắt đầu từ đây. 1843: Xuất bản “Cũng - Hoặc: Một quãng đời” (Either-Or: A Fragment of Life/Enten-Eller. Et Livs-Fragment). Ý kiến Kierkegaard chính thức về đời thể hiện lần cuối qua “Khoảnh khắc” (The Instant/jeblikket) với 9 chương, chương thứ 10 đang sẵn sàng đem công bố thì Kierkegaard gục ngã trên đường phố. Ông được đưa đến bệnh viện và chết ngay sau đó trong tình trạng kiệt lực vì công việc. Hôm đó là ngày 11 tháng 11 năm 1855, Soren Kierkegaard hưởng dương 42 tuổi. Lúc còn sống, không mấy ai biết về ông. Kierkegaard chỉ được nhìn nhận là “Socrate của Đan Mạch”, là thủ lĩnh Anti-Hégel sau khi đã qua đời. Toàn bộ sự nghiệp của Kierkegaard có gần 30 tác phẩm triết học, thần học, tâm lý học cùng khoảng 10 quyển truyện ngắn. Kierkegaard đã làm một cuộc cách mạng về lý luận chống cái “phổ biến”, ‘hệ thống” bằng một sự thể hiện đa dạng và phức tạp về những khao khát và cảm xúc cá nhân. Tuy nhiên khi còn sống, những đóng góp của Kierkegaard về chính trị và xã hội chẳng được xem trọng. Kier là một nhà tư tưởng phi chính trị, những va chạm của Kier với các hệ thống quyền lực chưa đủ sức gây nên sóng gió trong xã hội như các hậu bối sau này của triết thuyết Hiện sinh. Những va chạm với hệ thống giáo quyền Tin lành Đan Mạch không hề ảnh hưởng đến việc một anh trai của Kier: P.C. Kier trở thành một giám mục. *** Không, tôi không thể che giấu với chính mình nỗi lo âu khó bề kiềm chế đã bám riết lấy tôi vào giây phút này, khi tôi quyết định vì lợi ích của riêng mình mà viết lại lần nữa cho chính xác và dễ đọc cái bản sao ngày trước tôi có được nhờ chép lại một cách cực kỳ vội vàng và trong trạng thái hết sức bất an. Giờ thì cũng giống như trước đây, tôi vẫn cảm thấy không yên lòng chút nào và như bị ai đó chê trách. Trái với thói quen, anh ta đã không khóa tủ bàn giấy; nhờ vậy mà mọi thứ trong đó tôi có thể tùy nghi sử dụng. Nhưng có ích gì đâu khi muốn che đậy hành vi không mấy hay ho này của tôi bằng cách nhắc nhở trong đầu là tự mình đã không mở ra ngăn kéo nào cả. Một ngăn kéo đã mở sẵn đó mà: cả một đống giấy tờ rời rạc nhưng nằm bên trên là một quyển khổ bốn được đóng rất đẹp. Trang bìa được trang trí với một họa tiết màu trắng, trên đó chính tay anh ta đã viết: Commentarius perpetuus [13] số 4. Thế nhưng, thật vô ích khi tôi cố gắng tự dối mình bằng cách nghĩ rằng, nếu bìa trước của nó không nằm ở trên, và nếu cái tựa đề nổi bật đó không cám dỗ tôi, thì tôi hẳn đã không sa ngã hay ít ra tôi đã chống chọi lại sự cám dỗ đó. Cái tựa đề tự nó đã là kỳ lạ, song lại còn kỳ lạ vì những thứ xung quanh nó hơn là chính nó. Chỉ cần liếc mắt nhìn vội qua các tờ giấy rời rạc đó tôi biết ngay là chúng bao gồm những ấn tượng đến từ các tình cảnh gợi dục, những lời lẽ gợi ý về mối quan hệ nào đó, những bức thư cùng một loại đặc biệt mới được thảo ra mà sau này tôi trở nên quen thuộc với phong cách của chúng, hờ hững, vô tình một cách có tính toán, và lại được viết có nghệ thuật nữa chứ. Vào giây phút này đây, sau khi thấy hết cái tâm địa ưa bày mưu tính kế của tên đàn ông bại hoại này, khi tôi nhớ lại cái hoàn cảnh đó, đôi mắt mở to cảnh giác với mọi ngón nghề xảo trá, ấy là nói như vậy, khi lại gần cái ngăn kéo đó, tôi có cảm giác giống như một người cảnh sát hẳn phải có khi ông ta vào phòng một tên làm giấy tờ giả, xem xét kỹ đồ này, thứ kia của hắn, và tìm ra trong ngăn kéo một đống giấy tờ rời rạc từng được dùng để viết nháp, vẽ nháp; trên tờ này thì có một hình vẽ trang trí nhỏ, trên tờ kia, hai chữ viết lồng nhau, và trên tờ thứ ba, một hàng chữ viết ngược. Tất cả các thứ này dễ dàng chỉ ra là ông ta đang theo đúng hướng tìm, và ông ta thì vừa thấy thích thú thực sự, vừa thấy thán phục mơ hồ trước những nỗ lực và sự cần cù hiển nhiên ở đây. Vì không quen với việc phát hiện các tội ác và không trang bị với phù hiệu cảnh sát, tôi hẳn sẽ phản ứng khác với ông ta. Cái cảm tưởng mình đang dấn vào một việc bất chính hẳn sẽ đè nặng lên lương tâm tôi. Vào lúc đó, tôi thấy mình thiếu hụt ý tưởng bao nhiêu thì cũng thấy mình thiếu hụt chữ nghĩa bấy nhiêu, thường thường là như vậy đó. Ta bỗng nhiên thấy kinh sợ khi có một cảm tưởng nào đó cho đến khi sự suy nghĩ trong đầu ta được khai thông thêm một lần nữa, và bằng những sự vận động đa dạng và khéo léo, nó trò chuyện, vỗ về người xa lạ không ai biết đó rồi nó len lỏi vào tâm trí người đó. Sự suy nghĩ này càng khai triển hơn thì nó tự trấn tĩnh càng nhanh chóng hơn; tương tự như một viên chức kiểm tra hộ chiếu khách nước ngoài ở cửa khẩu, sự suy nghĩ trở nên quen thuộc với những khuôn mặt hay tính cách lạ lùng nhất, khó tin nhất, đến mức không dễ gì làm cho nó bị ngỡ ngàng nữa. Mặc dù sự suy nghĩ của tôi, thực tình mà nói, là đã phát triển cao độ, thế mà ban đầu tôi cũng bị ngạc nhiên quá cỡ. Tôi nhớ rất rõ là mình đã tái mặt, gần như ngất xỉu, và bởi vậy, tôi đã lo sợ biết bao. Giả dụ là anh ta về nhà lúc này, thấy ra tôi nằm bất tỉnh dưới đất mà tay còn cầm cái ngăn kéo - a! một lương tâm bứt rứt, quả thật, thì có thể làm cho cuộc đời trở nên lý thú đó.Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Nhật Ký Kẻ Mị Tình PDF của tác giả Soren Kierkegaard nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Nhật Ký Của Những Kẻ Chán Đời (Xù Coke)
Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Nhật Ký Của Những Kẻ Chán Đời PDF của tác giả Xù Coke nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Nhật Ký Á Thần (Rick Riordan)
Cuốn ngoại truyện 3.5 của bộ Percy Jackson và các vị thần trên đỉnh Olympus.Nhật Ký Á Thần là phần phụ kèm theo của series truyện Percy Jackson và các vị thần trên đỉnh Olympus, vẫn đem đến cho người đọc sự lôi cuốn, hồi hộp và không kém phần gây cấn với những câu chuyện phiêu lưu giả tưởng cùng những nhân vật huyền bí. Những mẩu truyện ngắn trong cuốn sách này thật sự rất thú vị và tràn ngập tình yêu dành cho các á thần. Cả tập truyện bao gồm 4 câu chuyện nhỏ như: Nhật ký của Luke Castellan, Percy Jackson và cây trượng của thần Hermes, Leo Valdez và cuộc tìm kiếm đến Buford và Đứa con của pháp thuật. Với giọng văn hài hước và đầy bất ngờ, Rick Riordan đã dẫn chúng ta tới những cuộc phiêu lưu đầy kì thú, tuy không gắn liền quá sâu sắc với cốt truyện chính của toàn bộ Series nhưng phần này giúp chúng ta hiểu rõ hơn nhiều chi tiết trong truyện. ***Rick Riordan là tác giả có sách bán chạy nhất do tờ New York Times bình chọn cho bộ truyện dành cho trẻ em: Percy Jackson và các vị thần trên đỉnh Olympus và bộ Tiểu thuyết trinh thám dành cho người lớn Tres Navarre. Ông có 15 năm giảng dạy môn tiếng Anh và Lịch sử ở các trường trung học cơ sở công và tư ở San Francisco Bay Area ở California và Texas. Ông cũng từng nhận giải thưởng Giáo viên ưu tú đầu tiên của trường năm 2002 do Saint Mary’s Hall trao tặng. Rick Riordan hiện đang sống ở San Antonio, Texas cùng vợ và hai con trai. Ông dành toàn bộ thời gian cho sáng tác. Tìm mua: Nhật Ký Á Thần TiKi Lazada Shopee Bộ tiểu thuyết Percy Jackson và các vị thần trên đỉnh Olympus đã bán được hơn 30 triệu bản trên toàn thế giới, chiếm 153 tuần trong danh sách Sách bán chạy nhất trên New York Times cho thể loại sách thiếu nhi. Bộ sách đã bán bản quyền cho 35 nước. Trong Các vị thần Hy Lạp của Percy Jackson, con trai của thần Poseidon đã đưa thêm tài thuật của mình vào những câu chuyện kinh điển - và bỏ qua kiểu châm biếm mỉa mai. Cậu giải thích cách thế giới này được tạo thành, rồi chia sẻ với bạn đọc cảm nhận của bản thân về thần này thần kia ở thời cổ đại, từ Apollo cho đến Zeus. Percy chẳng kiêng dè giữ kẽ gì. “Và nếu các bạn thích đủ các loại dối trá, trộm cắp, chơi xấu, ăn thịt người, thì hãy đọc tiếp nhé, bởi vì đây nhất định là Thời đại hoàng kim cho mấy trò này.” Cuốn sách sẽ mang đến cho bạn đọc những kiến thức sâu xa về thế giới của các vị thần Hy Lạp.***TÊN TÔI LÀ LUKE. Thành thật mà nói, tôi không biết liệu mình có thể tiếp tục duy trì cuốn nhật ký này không nữa. Cuộc sống của tôi khá điên rồ. Nhưng tôi đã hứa với ông lão đó sẽ cố hết sức. Sau những gì đã xảy ra trong ngày hôm nay… ừm, tôi mang ơn ông ấy. Hai tay tôi đang run rẩy khi tôi ngồi đây thực hiện nhiệm vụ canh gác. Tôi không thể vứt bỏ các hình ảnh khủng khiếp đó ra khỏi đầu mình. Tôi còn vài tiếng cho đến khi các cô gái tỉnh dậy. Có lẽ nếu viết ra, tôi sẽ quên được câu chuyện đó. Chắc tôi nên bắt đầu với chuyện con dê có phép thuật. Trong ba ngày, Thalia và tôi đã đi theo một con dê khắp Virginia. Tôi không rõ lý do vì sao. Với tôi, con dê đó trông chẳng có gì đặc biệt, nhưng Thalia vô cùng kích động, trước đây tôi chưa bao giờ nhìn thấy cô ấy như thế. Cô ấy thuyết phục tôi rằng con dê là kiểu dấu hiệu nào đó từ cha cô ấy, thần Zeus. Ừ, thế đấy, cha cô ấy là một vị thần Hy Lạp. Cha tôi cũng vậy. Chúng tôi là các á thần. Nếu bạn nghĩ điều đó nghe thật bảnh thì hãy nghĩ lại đi nhé. Á thần là các nam châm thu hút quái vật. Tất cả những con yêu quái gớm ghiếc của Hy Lạp cổ xưa như Ba Nữ thần Báo Thù, các yêu quái mình người cánh chim cũng như các gorgon vẫn còn tồn tại và chúng nhận ra các anh hùng như chúng tôi từ cách xa hàng dặm. Vì điều này nên Thalia và tôi, vì sự sống còn của chính mình, đã dành hết thời gian để mà chạy trốn. Cha mẹ có năng lực siêu nhiên của chúng tôi thậm chí còn không thèm nói chuyện với chúng tôi chứ đừng nói gì đến chuyện giúp đỡ. Tại sao ư? Nếu giải thích, ắt tôi sẽ phải viết đầy cuốn nhật ký này mất, vậy nên tôi sẽ kể tiếp về con dê đây. Dẫu sao thì con dê đó hẳn là đã xuất hiện một cách ngẫu nhiên, luôn ở phía xa xa. Mỗi một khi chúng tôi cố đuổi bắt, con dê sẽ biến mất và tái xuất hiện ở nơi xa hơn, như thể nó đang dẫn chúng tôi đến một nơi nào đó. Nếu là tôi, nhất định tôi sẽ mặc kệ nó cho rồi. Thalia sẽ không giải thích lý do cô ấy nghĩ việc đuổi theo con dê là chuyện quan trọng, nhưng cô ấy và tôi đã cùng nhau phiêu lưu đủ lâu để tôi có thể tin vào sự phán đoán của cô ấy. Vì thế chúng tôi đi theo con dê đó. Một sớm nọ, chúng tôi đuổi sau nó đến Richmond. Chúng tôi lê bước qua cây cầu hẹp bắc ngang một con sông nước màu xanh lục chảy lờ đờ, băng qua các công viên cây cối rậm rạp và các nghĩa trang Nội Chiến. Khi đến gần trung tâm thành phố hơn, chúng tôi len lỏi qua các khu dân cư im lìm với những ngôi nhà ở liên kế(1) có mái ngói đỏ nằm san sát, những mái hiên có cột trắng và các khu vườn nhỏ xíu xiu. Tôi hình dung ra cảnh tất cả các gia đình bình thường đang sống trong những ngôi nhà ấm cúng ấy. Tôi tự hỏi việc có một ngôi nhà, biết nơi dừng chân ăn bữa ăn kế tiếp của mình ở đâu, và không phải lo lắng về việc sắp bị những con quái vật xơi tái mỗi ngày là như thế nào. Tôi đã bỏ nhà đi khi tôi chỉ mới lên chín - cách đây năm năm. Hầu như tôi không nhớ cái cảm giác được ngủ trên một chiếc giường thật sự là sao nữa. Sau khi đi thêm một dặm nữa, chân tôi như rũ hết cả ra trong giày. Tôi hy vọng chúng tôi có thể tìm thấy nơi nghỉ tạm, hoặc có lẽ có được ít thức ăn. Thế nhưng, chúng tôi lại bắt gặp con dê nọ. Con đường chúng tôi đang đi kéo dài đến tận một công viên hình tròn thật lớn. Các biệt thự xây bằng gạch đỏ đứng đối diện với bùng binh một cách oai vệ. Nằm ở tâm vòng tròn, phía trên bệ đá cẩm thạch trắng cao sáu mét, là bức tượng một người đàn ông đang cưỡi ngựa bằng đồng. Con dê đó đang gặm cỏ cạnh bệ tượng. “Nấp đi!” Thalia kéo tôi vào phía sau một luống hoa hồng. “Chỉ là một con dê thôi,” tôi nói lần thứ một triệu. “Sao…?” “Nó đặc biệt lắm,” Thalia khăng khăng. “Một trong số các con vật thiêng của cha em. Tên nó là Amaltheia.” Trước đây cô ấy chưa bao giờ nhắc đến tên con dê. Tôi tự hỏi vì sao giọng cô ấy lại căng thẳng đến thế. Thalia hiếm khi sợ thứ gì. Cô chỉ mới mười hai tuổi, nhỏ hơn tôi hai tuổi, nhưng nếu nhìn thấy cô đi trên phố, nhất định bạn sẽ nhường đường cho. Cô mang đôi bốt da màu đen, vận quần jeans đen và áo khoác da sờn cũ có nút áo mang đậm phong cách rock. Mái tóc đen được cắt tỉa lởm chởm y hệt lông thú hoang. Đôi mắt xanh thẫm nhìn xoáy vào bạn như thể đang cân nhắc cách tốt nhất để đánh bạn nhừ tử. Nếu có thứ gì khiến cô sợ hãi, tôi phải nhìn nhận thứ đó một cách nghiêm túc. “Vậy em từng nhìn thấy con dê đó rồi sao?” tôi hỏi. Cô miễn cưỡng gật đầu. “Ở Los Angeles, vào cái đêm em bỏ nhà đi. Amaltheia đã dẫn đường cho em ra khỏi thành phố. Và sau đó, cái đêm mà anh và em gặp nhau ấy… nó đưa em đến gặp anh.” Tôi trố mắt nhìn Thalia. Theo như tôi biết, cuộc gặp gỡ của chúng tôi là một sự tình cờ. Thật vậy, chúng tôi đã đâm sầm vào nhau trong một cái hang rồng phía ngoài Charleston, và trở thành một đội với mục đích sống còn. Thalia chưa bao giờ nhắc đến con dê. Thalia không thích kể về cuộc sống lúc trước của cô ở Los Angeles. Tôi tôn trọng cô nên không hỏi gì nhiều. Tôi biết mẹ cô từng phải lòng thần Zeus. Cuối cùng thần Zeus đã bỏ rơi bà ấy, như các vị thần vẫn thường làm. Mẹ cô tức giận đến mức mất cả lý trí, cứ say xỉn và làm những việc điên rồ - tôi không biết rõ chi tiết - cho đến khi Thalia quyết định bỏ nhà ra đi. Nói cách khác, quá khứ của cô khá là giống của tôi. Cô ấy run rẩy hít thật sâu. “Anh Luke này, mỗi khi Amaltheia xuất hiện là sẽ có chuyện quan trọng sắp xảy ra… chuyện gì đó nguy hiểm. Nó giống như một lời cảnh báo từ thần Zeus, hoặc là một chỉ dẫn.” “Về cái gì?” “Em không biết… nhưng nhìn kìa.” Thalia chỉ tay về phía bên kia đường. “Lần này nó sẽ không biến mất. Ắt hẳn chúng ta sắp đến gần nơi nó đang dẫn lối.” Thalia nói đúng. Con dê chỉ đang đứng yên đấy, cách nơi họ nấp chưa đến một trăm mét, nhàn nhã gặm cỏ cạnh bệ đài tưởng niệm. Tôi không rành về gia súc gia cầm, nhưng trông Amaltheia đúng thực là kỳ lạ khi chúng tôi ở khoảng cách gần hơn. Hai sừng trên đầu nó xoắn như sừng cừu đực, nhưng bầu sữa lại căng tròn y hệt của dê cái. Và bộ lông xám bờm xờm kia nữa… có phải nó đang phát sáng không? Những dải ánh sáng hình như đang lượn lờ quanh con dê như một đám mây làm từ đèn nê-ông, khiến nó trông mờ mờ ảo ảo và đầy vẻ ma quái. Có hai chiếc xe đi vòng quanh bùng binh, nhưng chẳng ai chú ý đến con dê phóng xạ cả. Điều đó không làm tôi ngạc nhiên. Có vài kiểu ngụy trang ma thuật khiến con người không nhìn thấy diện mạo thật sự của lũ quái vật và các vị thần. Thalia và tôi không chắc sức mạnh đó được gọi là gì và hoạt động như thế nào, nhưng nó có tác động khá mạnh. Người phàm có thể nhìn con dê thành một con chó đi lạc, hoặc có thể họ chẳng thấy gì cả. Thalia chụp lấy cổ tay tôi. “Đi thôi. Chúng ta thử nói chuyện với nó đi.” “Đầu tiên là chúng ta trốn con dê,” tôi nói. “Giờ em muốn đi nói chuyện với nó sao?” Thalia lôi tôi ra khỏi bụi hồng và kéo tôi băng qua đường. Tôi không kháng nghị. Khi Thalia có ý tưởng nào đó trong đầu, bạn chỉ còn cách nhất trí tuân theo mà thôi. Cô ấy luôn làm theo ý mình. Ngoài ra, tôi không thể để cô đi một mình. Thalia đã cứu mạng tôi rất nhiều lần. Cô ấy là người bạn duy nhất của tôi. Trước khi chúng tôi gặp nhau, tôi một mình đi đây đi đó trong nhiều năm, cô độc và khổ sở. Thỉnh thoảng tôi có kết bạn với người phàm, nhưng hễ tôi kể cho họ nghe sự thật về mình, họ đều không hiểu. Tôi thú nhận rằng mình là con trai của thần Hermes, sứ giả đưa tin bất tử với đôi giày xăng-đan có cánh. Tôi giải thích rằng quái vật và các vị thần Hy Lạp là có thực và vẫn hiện hữu khắp nơi trong thế giới hiện đại. Sau đó những người bạn trần tục của tôi sẽ nói, “Nghe bảnh nhỉ! Tôi ước gì mình cũng là một á thần!” Như thể chuyện tôi kể là một kiểu trò chơi nào đó. Tôi luôn kết thúc bằng việc bỏ đi.Dưới đây là những tác phẩm đã xuất bản của tác giả "Rick Riordan":Bóng RắnCác Vị Thần Hy Lạp Của Percy JacksonChiếc Vương Miện PtolemyĐịa Cung Rực LửaKim Tự Tháp ĐỏLăng Mộ Bạo ChúaNgai Vàng LửaNhật Ký Á ThầnSấm Truyền Bí ẨnĐộc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Nhật Ký Á Thần PDF của tác giả Rick Riordan nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Nhân Hình Quán (Yukito Ayatsuji)
Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Nhân Hình Quán PDF của tác giả Yukito Ayatsuji nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.