Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Yêu Phải Tiểu Thư 0 Điểm (Lục Phong Tranh)

Trên sàn nhà trọ để mấy thùng giấy, Bạch Thư Duy đang đóng gói những thùng cuối cùng, làm bạn với anh trừ khúc nhạc thính phòng du dương của Chopin, còn có một bình rượu đỏ mùi trái cây thơm ngào ngạt, anh vừa uống vừa đóng gói rất thoải mái.

Đây là đêm cuối cùng anh ở Newyork. Ngày mai, anh phải trở về Đài Loan.

Trong phòng hầu hết đều trống rỗng, có thể tặng thì cũng đã tặng, không thể tặng đã đóng hết vào thùng chuẩn bị mang về Đài Loan. Tủ treo quần áo trống rỗng, ngay cả hộc tủ vốn bày đầy sách cũng chỉ còn dư lại 2, 3 quyển.

Anh đem nhưng thùng giấy đã được đóng hoàn chỉnh đặt ở vị trí gần cửa, để sáng sớm ngày mai người của công ty dọn nhà Quốc Tế tới dễ dàng chuyển đi.

Chuông điện thoại vang lên, hai chân thon dài nhanh chóng vượt qua mấy thùng giấy, Bạch Thư Duy rốt cuộc tìm được điện thoại dường như bị chìm ngập trên nền nhà, anh vươn tay ra lấy điện thoại rồi bấm nút nghe. Tìm mua: Yêu Phải Tiểu Thư 0 Điểm TiKi Lazada Shopee

Bạn đang đọc truyện tại ThíchTruyện.VN

“Hel¬lo.” Giọng nói tràn đầy từ tính.

“Thư Duy, là mẹ đây……. Con ngày mai trở về Đài Loan đúng không?”

“Đúng, trưa mai máy bay cất cánh, có phải muốn con giúp mẹ mang thứ gì về hay không?”

“Không không không……. Không cần, mẹ muốn nói cho con một chuyện, mẹ đang ở Thụy Sĩ, sau khi con về đến nhà phải tự chăm sóc bản thân đó.”

“Thụy Sĩ?” Nếu như anh nhớ không lầm thì mẹ không phải đang ở Pháp sao? Mà không, đó là chuyện mấy ngày trước, bây giờ bà nên kết thúc chuyến du lịch và bình an trở về Đài Loan mới đúng, tại sao ở Thụy Sĩ?

“Ha ha, kế hoạch thay đổi, dì Trần của con nói lần này mẹ đến Paris dì sẽ làm hướng dẫn viên du lịch, ngồi máy bay lâu làm cái mông đau muốn chết, lần sau nếu bay xa như vậy mẹ sợ sẽ không chịu nổi. Cho nên mẹ tạm thời quyết định, thừa dịp lần này ra ngoài đi du lịch mấy quốc gia luôn, mấy ngày nữa mẹ còn muốn đi Đan Mạch, chờ chơi đủ rồi lấy dũng khí chịu đau cái mông bay về Đài Loan.”

Coi, những người phụ nữ yếu đuối này thật có sức sống. Bạch Thư Duy vô cùng bái phục không quên dặn dò “Đừng đùa giỡn nữa, phải chú ý an toàn, biết không?”

Mẹ Bạch ở đầu kia điện thoại không chấp nhận, tức giận nói “Làm như mẹ là đứa trẻ ba tuổi vậy. Đừng quên, mẹ là mẹ của con.” Trả lời hùng hôn.

Aizzz…. Cũng vì biết mẹ là mẹ con nên con mới lo lắng. Bạch Thư Duy lầu bầu ở trong lòng.

Mẹ của anh cái gì cũng tốt, cũng rất biết hưởng thụ cuộc sống của mình, dù chỉ sống một người nhưng cuộc sống thường ngày cũng không có tẻ nhạt, hoàn toàn không cần lo lắng bà sẽ bị chứng u uất. Cũng nói, mấy năm này bà tự dưng si mê đi du lịch nên cuộc sống của bà còn có mục tiêu, ba ngày hai bữa thu xếp đồ đạc của mình rồi lên đường. Mỗi lần nhận được điện thoại, anh mới biết mẹ lại đi ra ngoài.

Nhưng đừng nhìn mẹ anh chu du các nước thì có kiến thức rộng rãi. Quên đi, đây chính là điều sẽ làm cho mọi người bị hù dọa đến khi chảy mồ hôi lạnh ướt sũng cả người.

Lấy chuyện an toàn của bản thân để nói, lúc anh đang ở Đài Loan thì trong nhà chưa từng bị ăn trộm ghé qua. Không ngờ anh chỉ xuất ngoại du học chưa tới nửa năm, ăn trộm đã chiếu cố đến ba lượt. Lý do không có gì khác là mẹ anh đi ra ngoài quên khóa cửa hoặc không thì chìa khóa cắm ở trên cửa không rút ra. Thật may lúc ăn trộm ghé thăm thì mẹ đều không ở nhà, nếu không thì hậu quả rất nghiêm trọng.

A…. nói đến chuyện an toàn của bản thân... Bạch Thư Duy đột nhiên nghĩ đến vì bị ăn trộm mà cửa trước và cửa sau đều đã đổi khóa, mẹ anh lại không có ở đó, anh không có chìa khóa thì làm thế nào vào được nhà?

“Đợi chút, mẹ đại nhân yêu quý của con ơi, xin hỏi con về bằng cách nào? Con không có chìa khóa nhà.” Anh không muốn đi ngàn dặm xa xôi về nhà, ban đêm lại phải tá ngoài lề đường.

“Dưới miếng lót đạp chân trước cửa có để sẵn một cái chìa khóa.” Mẹ Bạch xong cười sảng khoái.

“What?? Mẹ lại để chìa khóa ở dưới miếng lót đạp chân trước cửa.” Bạch Thư Duy kêu to, hoàn toàn không vui vẻ mà cảm thấy tê rần hết da đầu.

Mẹ cũng không ngẫm lại xem, lần gần nhất bị ăn trộm chính là vì tên trộm cầm chìa khóa ở dưới miếng lót đạp chân trước cửa, không cần tốn nhiều sức vẫn vào được nhà. Nhưng trộm không lấy thứ gì đáng giá chỉ ăn sạch thức ăn trong tủ lạnh, không ngờ bà vẫn không rút ra được bài học, vẫn tiếp tục để chìa khóa dưới miếng lót đạp chân trước cửa. Vậy chẳng hóa ra là muốn nhà mình thành khách sạn còn trộm thành quản gia nhà sao?

“Aizzz…. Đừng lo lắng… Con chưa nghe nói qua sao? Chỗ nguy hiểm nhất chính là chỗ an toàn nhất, mẹ cũng không phải là ngu ngốc mơ mơ màng màng. Tất cả mọi chuyện mẹ đều đã tính toán kỹ.”

Nghe giọng nói của mẹ vui vẻ như một cô gái, trên mặt Bạch Thư Duy xuất hiện ba đường vạch đen ——”Con thật sự không biết nên nói mẹ mơ mộng hay là ngu ngốc.”

“Có đứa con nào lại không tin tưởng mẹ mình giống như con không hả?” Mẹ Bạch đáp lại ngay.

“Xin lỗi, con cho rằng thành thật là một đức tính tốt.” Anh tức giận nói.

Thôi được, coi như ăn trộm muốn vào nhà, hai mẹ con bọn họ một ở Thụy Sĩ một ở Newyork, muốn ngăn cản cũng không ngăn cản được, suy nghĩ lạc quan hơn thì coi như ăn trộm có thể dọn sạch tất cả mọi thứ trong nhà cũng mang không mang đi được ngôi nhà. Thà về nhà mà không có giường còn hơn không có nhà để về.

A….. Anh có phải đang tự an ủi bản thân? Bạch Thư Duy tự mình đánh trống lãng lắc đầu.

Sau đó mẹ nói thêm ba bốn câu trò chuyện bình thường, anh cúp điện thoại rồi đặt xuống ngay chỗ đang đứng, tiếp tục đóng thùng còn đang dang dở.

Cầm những quyển sách còn sót trên giá sách xếp lại, đang chuẩn bị bỏ vào thùng giấy thì trong quyển sách mang từ Đài Loan sang tình cờ rơi ra một tấm hình.

Thấy thế, Bạch Thư Duy nhặt lên.

Nhớ là lúc đó chụp vội, ống kính bị chấn động lại không tập trung nên hình ảnh rất mơ hồ, cộng thêm bị ngược sáng nên không nhìn được rõ người trong hình là ai. Chỉ có thể thấy thân hình mảnh mai nên đoán đó là một cô gái, mặc đồng phục nữ sinh trung học, nghiêng người ngồi trên ghế và chống cằm.

Nhưng Bạch Thư Duy dường như không tốn hơi sức suy nghĩ thì tên cô gái đã hiện lên trong lòng.

Đây là Kha Dụ Phân mười tám tuổi, một cô gái trung học nghiêm túc, cứng nhắc, khô khan không hề thú vị.

Trước buổi lễ tốt nghiệp một ngày, bạn cùng lớp mang theo máy ảnh tới trường học, mọi người tò mò vuốt vuốt một hồi rồi cười cợt đùa giỡn tranh đoạt nhau cầm xem, không biết người nào nhấn nút shutter(*nút chụp). Vô tình chụp trúng Kha Dụ Phân đang ngồi ở xa xa.

Tấm này hoàn toàn không tốt và bị ném vào thùng rác, đến khi Bạch Thư Duy len lén nhặt lên, bỏ vào túi áo đồng phục mang về nhà.

Đối với anh mà nói, Kha Dụ Phân mười tám tuổi mơ hồ giống như tấm hình này, nhưng Kha Dụ Phân mười tuổi lại như một gốc cây nhỏ rắc rối khó gỡ, đâm rễ sâu trong lòng anh.

Anh nhớ cô, nhớ mùa hè năm ấy, lần đó bọn họ gặp nhau...

Mùa hè năm 1994,

Bạch Thư Duy mười tuổi, mấy ngày trước mới cùng mẹ dời đến thị trấn nhỏ này, vì để quen thuộc với nơi ở mới nên mỗi ngày anh đều ra ngoài một mình để thám hiểm mọi ngõ ngách.

Quần áo anh mặc vô cùng đơn giản, đồ anh mặc vô cùng quái gở. Quần short jean đã mòn và hơi bẩn, còn có mang theo một đôi dép lê để đi cho thuận tiện, mang theo một ít đồ ăn để có thể bổ sung năng lượng khi cần, còn ngậm một cây kẹo que ngon lành và bắt đầu lên đường thám hiểm.

Gặp Kha Dụ Phân chính vào một buổi chiều, sắc trời âm u như muốn trời mưa, không khí hơi ẩm ướt oi bức, hầu như mọi người đều núp ở trong nhà bật máy lạnh, chỉ có nhà thám hiểm bé nhỏ Bạch Thư Duy một mình đi xưng quanh công viên. Vô tình phát hiện cái xích đu anh thích nhất ở phía trước, nhưng đang đứng ở đó là một nữ sinh y hệt công chúa vô cùng xinh đẹp.

Tóc được chải rất chỉnh tề, mặc một cái áo đầm trắng như tuyết rất mộng ảo, dưới chân mang một đôi giày da trắng sáng giống như có thể nhìn thấy cái bóng của cô ấy. Khác với trên người anh là quần cụt dép... Oa ô, hoàn toàn khác biệt một trời một vực.

Nghe tiếng bước chân nữ sinh đó đột nhiên xoay đầu lại, đó là một gương mặt trắng trẻo mềm mại giống như một đứa con nít, hai má giống như bánh màn thầu mới ra lò, mềm mại non nớt, bộ dáng cực kỳ ngon miệng. Mắt tròn vo mi giống như bóng đèn dùng để trang trí cây thông noel trong nhà, cực kỳ sáng.

Nhưng cô xem ra hơi chột dạ, đôi mắt nhìn anh không ngừng xoay vòng, lông mi yêu kiều cong lên rung động không ngừng.

“Tôi…Tôi…Tôi...” Ấp a ấp úng thật lâu cuối cùng cô cũng không nói được cái gì, hơi chột dạ rồi bỏ chạy như một làn khói.

“A… Cô ta nhìn thấy quỷ hả?” Bạch Thư Duy gãi gãi đầu, bối rối không hiểu “Hay là trên xích đu có bẫy?”

Để tránh bị lừa, anh mở lớn mắt nhìn chằm chằm chỗ xích đu nữ sinh đó mới rời khỏi một lúc lâu. Khi xác nhận không có bất kỳ sự khác lạ nào, anh đặt mông ngồi lên, chân mang dép bắt đầu đung đưa, xích đu bắt đầu chuyển động theo ý anh.

Chỉ lát sau, Bạch Thư Duy đã đẩy xích đu lên thật cao, nhanh chậm đu đưa trong không khí làm tản đi thời tiết làm người ta khó chịu này. Anh khép hờ mí mắt hưởng thụ cảm giác đón gió, nhiều lần cảm thấy mình đã bay vào trong đám mây.

Rồi lại cao một chút, có lẽ anh thật có thể bay vào trong đám mây trở thành đứa trẻ nằm ở trên mây đầu tiên trên thế giới. Đến lúc đó khẳng định giống như minh tinh màn bạc, khắp nơi có người tìm anh ký tên. Bạch Thư Duy vui vẻ khi mơ đến điều đó.

Anh đang mơ đến giấc mơ tốt đẹp đó thì nữ sinh lúc nãy bỗng nhiên xuất hiện, mà đến thật khéo giống như khúc gỗ đâm thẳng vào phía trước bàn đu dây.

Thấy thế, Bạch Thư Duy trừng lớn mắt.

Ngu ngốc, cô không thể đứng ở đó, anh đu dây sẽ đụng vào cô!

“A….. Tránh ra! Né ra chỗ khác nhanh!” Trên xích đu Bạch Thư Duy vội vàng rống to, vẫy vẫy cánh tay muốn cô mau tránh ra, hai chân càng liều mạng cản xích đu lại, hy vọng có thể cô ấy không bị xích đu đụng phải.

Có lẽ quá nóng lòng, đột nhiên thay đổi trọng tâm nên anh không kịp phản ứng, cả người từ trên xích đu rớt xuống dưới té chỏng vó, cái ót còn bị xích đu đang đu lên gõ cho một cái.

“A……. Đau...” Bạch Thư Duy nằm dưới đất đau đến nhe răng trợn mắt, trong lòng lại cảm thấy thật xui xẻo.

Đợi chút, cô ấy không sao chứ?

Nghĩ đến nếu anh hại nữ sinh kia bị thương, về nhà nhất định mẹ sẽ cho anh ăn gậy trúc bầm dập tới no, anh không dám ở trên đất một giây đồng hồ nào nữa, nhịn đau nâng người lên, lấm lét nhìn trái phải tìm bóng dáng của nữ sinh kia.

Người nào?

Kỳ quái, rốt cuộc đã chạy đi đâu? Một người đang yên đang lành làm sao có thể vô duyên biến mất được? Chẳng lẽ cô là... Quỷ?

Nghĩ đến đây, Bạch Thư Duy run cầm cập không dám nghĩ tiếp, trong lòng vô cùng rối rắm.

“Aizzz… Tớ hỏi cậu, tại sao khi tớ ngồi xuống thì đứng yên, xích đu này lại bị hư hả?”

Nghe giọng nói của nữ sinh, Bạch Thư Duy giống như bị sét đánh. Đầu thuận theo tiếng nói quay đầu lại, quả nhiên nhìn thấy nữ sinh đó hù dọa làm anh chảy mồ hôi lạnh ướt sũng cả người, đang vô tư ngồi trên xích đu anh mới vừa chơi, trên đất có một cái bóng thật dài của cô.

A… Có bóng... A di đà Phật, cô ta có bóng.

Nhưng vừa nghĩ tới mình bị cô dọa sợ, Bạch Thư Duy lại trưng ra cái mặt thối đối mặt với cô.

“Cậu có biết cậu mới vừa làm một chuyện rất nguy hiểm hay không? Nếu tớ không dừng lại thì đầu cậu đã nở hoa rồi đó. Tớ nói với cậu, về sau tuyệt đối không được đứng trước mặt xích đu hoặc sau lưng xích đu, có nghe không?” Anh vô cùng bực tức cảnh cáo cô.

“Tại sao? Sẽ làm nó hư sao?” Mắt to tròn vo nháy nháy, nữ sinh này trưng ra vẻ mặt vô tội nhìn anh rồi đưa tay sờ sờ xích đu “Bây giờ nó bị hư rồi phải không? Bởi vì nó không di chuyển mà.”

Bạch Thư Duy không biết nên khóc hay cười “Ở đây không phải là khu vui chơi của trẻ con, xích đu trong công viên là phải tự mình đu, không thể tự chạy như trò chơi chạy bằng điện.” Anh hơi hoài nghi không biết nữ sinh này là ngu đần hay là người ngoài hành tinh.

Tức giận đứng dậy phủi đất ở trên người, xoa xoa chỗ té đau, anh nhảy cò cò một chân đi tìm chiếc dép bị thất lạc. Làm ơn, anh cũng quần áo chỉnh tề đó nhé.

“Cậu dạy cho tớ chơi xích đu được không?”

Anh nghiêng đầu qua, vẻ mặt cổ quái nhìn cô, ngón tay chỉ chỉ mình thì nhìn thấy cô gật đầu, anh cảm thấy vô cùng không thể tưởng tượng nổi “Không thể nào, cậu không biết chơi xích đu?”

Nữ sinh đó thành thật lắc đầu rồi ngước cằm lên, dịu dàng nhưng cũng rất quật cường.

“Tớ học rất nhanh nên cậu qua dạy tớ đi.” Không đợi anh đồng ý, mặt mày cô đã hớn hở bước nhanh về phía anh, không để anh cự tuyệt, cô lôi kéo tay của anh đi về phía xích đu.

Cơ thể cô tỏa ra mùi thơm dìu dịu, quần áo giày dép cũng đều sạch sẽ, không giống anh. Anh vốn ăn mặc rất tùy tiện, mới vừa nãy còn bị té nên quần áo bám bụi bẩn, hơn nữa, tay của cô thật mềm... Lần đầu tiên được một nữ sinh tuổi xấp xỉ nắm tay, Bạch Thư Duy đột nhiên cảm thấy mình không thể suy nghĩ gì, chỉ có thể lảo đảo đi theo.

Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Yêu Phải Tiểu Thư 0 Điểm PDF của tác giả Lục Phong Tranh nếu chưa có điều kiện.

Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.

Nguồn: thuviensach.vn

Đọc Sách

Bí Mật Một Gia Tài - Eugenie Marlitt
E. Marlitt là bút hiệu của Eugenie John (1825 - 1887), một tiểu thuyết gia nổi tiếng người Đức. Eugenie John sinh tại Arnstadt. Cha bà là một hoạ sĩ vẽ chân dung. Sự bảo trợ của bà là công chúa của Schwarzburg Sondershausen, người đã nhận nuôi bà vào năm 1841 và gửi bà đến Vienna để học nhạc trong ba năm nhờ vào giọng nói tốt của bà. Eugenie John trở nên điếc, và trở lại Sondershausen, sống 11 năm tại tòa án với tư cách là thư kí viên. Các đồng nghiệp của bà đã bị hấp dẫn bởi phong viết văn của bà, và khuyến khích Eugenie John sáng tác tiểu thuyết. Vì mục đích này, bà trở lại Arnstadt vào năm 1863, và bắt đầu sự nghiệp của mình với tư cách một nhà văn. • Tác phẩm Die zwölf Apostel (1865): Đây là cuốn tiểu thuyết đầu tiên của Eugenie John, nó xuất hiện ở Leipzig Gartenlaube. Goldelse (1866): Cuốn tiểu thuyết này đánh dấu sự nổi tiếng của Eugenie John, độc giả của nó bị thu hút bởi những miêu tả về hình ảnh và thơ mộng về cuộc đời Đức. Blaubart (1866); Das Geheimnis der alten Mamsell (1868 - Bí Mật Một Gia Tài); Thüringer Erzählungen (1869), Reichsgräfin Gisela (1870); Heideprinzeßchen (1872); Die zweite Frau (1874) *** Sáng hôm ấy, ở khắp các góc phố trong thành phố X. đều dán những tờ quảng cáo đỏ báo tin nhà ảo thuật trứ danh Ooclôpxki đã đến cùng các tiết mục kỳ diệu của anh. Một thiếu phụ đến từng nhà bán vé. Nàng rất đẹp. Bộ tóc vàng hung lộng lẫy, dáng dấp kiều diễm và quý phái, nhưng bộ mặt dịu dàng của nàng xanh, nhợt nhạt như xác chết - người ta thường nói thế và những lúc hiếm hoi nàng ngước cặp lông mi vàng óng lên, đôi mắt xám sẫm chất chứa vẻ êm dịu và gần như thê thảm làm xúc động lòng người. Nàng vào cả nhà ông Hêluy, ngôi nhà sang trọng nhất ở phố chợ. — Thưa bà, - Hăngri, người đầy tớ ở tầng dưới gọi, - vợ người làm ảo thật đến. — Chị ta muốn gì? - một giọng đàn bà nghiêm khắc hỏi. — Chồng chị ấy biểu diễn ngày mai, chị ấy muốn mời bà mua một vé vào xem. — Chúng ta là những tín đồ lương thiện, và cũng không có tiền để tiêu cho những trò hề ấy. Đuổi họ đi, Hăngri. Người đầy tớ đóng cửa phòng lại. Bác gãi tai, nét mặt bối rối, vì người biểu diễn chắc đã nghe thấy hết. Nàng đứng sững sờ trước mặt bác một lúc: mặt nàng thoáng đỏ lên và một tiếng thở dài nặng nề từ trong ngực thốt ra… Ngay lúc ấy, một cánh cửa nhỏ trổ trên cửa lớn hé ra, có tiếng đàn ông khẽ hỏi mua một vé, vé đưa ra, một đồng hai êquy nhẹ đưa vào tay thiếu phụ trước khi nàng kịp ngước mắt lên, cánh cửa nhỏ đã đóng lại. Tấm rèm xanh rủ những nếp mờ che sau cửa kính. Hăngri mở cửa và mỉm cười vui vẻ, người đàn bà đi ra với những bước chân ngập ngừng để tiếp tục con đường chông gai của mình. Hôm sau, phòng khánh tiết ở thị sảnh chật ních người xem. Hăngri lọt vào giữa đám đông, phải chen chúc mới thoát ra được để đến gần chủ. Ông ngồi cạnh một người bạn là bác sĩ Buêơm trên khán đài, giữa những người có địa vị trong tỉnh. Người xem tuôn đến cũng dễ hiểu. Chương trình hứa hẹn những tiết mục tuyệt diệu và tiết mục cuối cùng được viết như sau: “Bà Ooclôpxki sẽ xuất hiện trong vai Vankiri[1]. Sáu người lính sẽ nổ súng vào bà, bằng một nhát kiếm, bà sẽ chém đứt ngang sáu viên đạn đang bay”. Dân chúng ở X. đến đây chủ yếu để nhìn thấy điều phi thường này. Người đàn bà trẻ và đẹp đã làm cho mọi người chú ý, ai nấy muốn thấy nét mặt của nàng sẽ như thế nào khi các nòng súng chĩa vào nàng… Nhà ảo thuật cũng thu hút được sự chú ý của công chúng bằng các trò nhanh tay. Anh là người mà các bà thường gọi là một nhân vật lý thú. Người vừa phải, mềm mại dong dỏng cao, anh có nét mặt đều đặn, tóc đen, hai mắt đầy tình cảm, cử chỉ lịch sự và cách nói tiếng Đức nhấn mạnh giọng càng làm cho anh thêm hấp dẫn. Nhưng mọi giá trị ấy đều bị quên ngay khi sáu người bồng súng do một viên đội chỉ huy bước vào. Cử tọa bỗng náo nhiệt. Có thể nói đây là tiếng ầm ĩ của các ngọn sóng vỗ vào đá. Rồi tiếp đến là sự lặng lẽ đột ngột như lo sợ. Người Ba Lan tiến đến gần một cái bàn và đóng thuốc súng vào vỏ đạn trước mặt công chúng. Anh lấy búa nện lên từng viên đạn, để tiếng động ấy làm cho khán giả đang hồi hộp tin rằng đấy là những viên đạn thật. Rồi anh đưa cho mỗi người lính một viên và bảo họ nạp đạn. Nhà ảo thuật giơ chuông lắc. Một người đàn bà từ sau bức màn rộng bước ra. Nàng thong thả tiến lên dọc theo sân khấu và đến đứng trước mặt những người lính. Sự xuất hiện thật tuyệt diệu! Một chiếc mộc che trên cánh tay trái, tay phải nàng cầm kiếm. Chiếc áo dài trắng rủ thành nhiều nếp rộng xuống tận chân; chung quanh hông buộc các vảy bạc. Và tấm thân tuyệt đẹp được bảo vệ bằng chiếc áo giáp lóng lánh. Nhưng trang phục rực rỡ ấy so làm sao được với ánh vàng lóng lánh của bộ tóc tuôn như sóng từ chiếc mũ sắt xuống tận gần gấu áo dài. Khuôn mặt xanh xao và buồn rầu hướng về phía các họng súng gây chết chóc. Không một sợi lông mi rung động. Không thấy một xao động nào ở bộ áo bồng bềnh, nàng đứng đấy như một pho tượng đá. Tiếng hô cuối cùng vang lên trong gian phòng lặng lẽ, sáu tiếng súng nổ cùng một loạt… thanh kiếm chém vào không khí rít lên, và những nửa viên đạn rụng xuống sàn. ... Mời các bạn đón đọc Bí Mật Một Gia Tài của tác giả Eugenie Marlitt.
Axya
Truyện dài của Turgenev, kể về một mối tình thoảng qua giữa một cô gái Nga mới lớn sôi nổi, chưa biết yêu là gì và một anh chàng Nga tại Đức. Mối tình trong vài ngày kết thúc bằng việc cô gái tỏ tình, chàng trai không chắc chắn nên từ chối, khiến anh em cô gái bỏ đi. Chàng trai hối hận tìm kiếm nhưng không bao giờ gặp lại cô gái. *** Ngày ấy tôi mới hăm nhăm, - ông N.N mở đầu câu chuyện như vậy hẳn các bạn cũng thấy, chuyện xảy ra cách đây đã lâu. Thu xếp xong công việc, tôi bỏ ra nước ngoài ngay, nhưng không phải để “du học” như người ta thường nói thời bấy giờ, mà chỉ vì tôi muốn chu du trong thiên hạ, quan sát thế gian của các thánh thần. Tôi còn trẻ, sức lực dồi dào, và trong lòng lúc nào tôi cũng thấy vui: sản nghiệp còn nguyên vẹn và trong đầu chưa kịp gợn một chút lo âu, tóm lại là tôi đã sống những ngày hoàn toàn tự do thoải mái, muốn làm gì thì làm, những tháng năm xuân sắc nhất của con người. Thuở ấy nào tôi có nghĩ được rằng con người ta đâu có phải là thảo mộc, và tuổi xuân không thể nào cứ xanh tươi mãi. Tuổi thanh xuân cứ tiêu đi những chiếc bánh dát vàng nhưng lại tưởng đó chẳng qua cũng chỉ là thứ bánh ăn thường ngày, đã mấy ai nghĩ được rằng sẽ có lúc một mẩu bánh cũng phải ngửa tay xin. Nhưng thôi lý giải làm gì chuyện ấy. Tôi đi ngao du không hề có chương trình và cũng chẳng nhằm một mục đích gì hết. Thích đâu thì dừng lại đấy để rồi lại bỏ đi ngay, vì tôi luôn luôn cảm thấy một niềm khao khát được thấy những gương mặt mới lạ chính là diện mạo con người. Tôi chỉ lưu tâm quan sát con người, tôi căm ghét những di tích bất hủ đầy vẻ hiếu kỳ, những bộ sưu tập hiếm hoi quý giá, chỉ riêng bộ dạng của người dẫn đường[1] cũng đã gây cho tôi cảm giác buồn bực. Tôi suýt phát điên lên ở “Nhà bảo tàng xanh”[2] tại thành phố Đresđen. Thiên nhiên gây cho tôi những cảm xúc cực kỳ mạnh, nhưng tôi không yêu cái gọi là vẻ đẹp của nó, không yêu những ngọn núi hùng vĩ, những thác ghềnh. Tôi không yêu để nó khỏi ràng buộc, quấy rầy tôi. Thế nhưng con người, những con người sống động: từ lời ăn tiếng nói, dáng điệu cho đến tiếng cười, đó mới chính là cái tôi không thể nào bỏ qua. Ở giữa đám đông bao giờ tôi cũng cảm thấy thanh thản và vô cùng thích thú, tôi vui vẻ đi theo thiên hạ, hò hét theo người ta, nhưng trong lúc đó tôi lại khoái trá đứng xem đám người kia la hét. Tôi rất thích quan sát con người… cũng không phải quan sát mà là nghiên cứu con người với cặp mắt tò mò đầy vẻ háo hức và không biết chán. Nhưng tôi lại nói lạc đề rồi. Như vậy là cách đây hai mươi năm tôi đã sống trong một thị trấn nhỏ ở Đức, thị trấn Z nằm ở tả ngạn sông Ranh. Tôi đã cố náu mình ở một nơi hẻo lánh và hiu quạnh, một quả phụ vừa gieo cho tôi một vết thương lòng, tôi quen biết bà ta ở nhà nghỉ có suối nước khoáng. Đó là một thiếu phụ rất duyên dáng và thông minh, bà ta tỏ ra kiêu sa với tất cả mọi người nhưng với tôi một con người lầm lẫn thì lúc đầu bà ta thậm chí còn khích lệ tôi, nhưng sau đó lại hắt hủi tôi một cách tàn nhẫn, khi đã thí tôi vì một viên trung úy người Baviê. Thực ra vết thương ấy của tôi cũng không lấy gì làm ghê gớm lắm, nhưng tôi thấy cũng nên có một thời náu mình trong cô đơn và buồn rầu - cái mà tuổi trẻ không say mê! - và thế là tôi đã trú ngụ tại thị trấn Z. Tôi thích thị trấn này vì cái địa thế của nó ở chân hai quả đồi cao, vì trong thị trấn có những bức tường cũ nát và nhiều ngọn tháp, có những cây bồ đề cổ thụ, có chiếc cầu dốc bắc qua dòng suối chảy ra sông Ranh, nhưng cái chính là ở đây có thứ rượu vang ngon tuyệt trần. Chiều chiều, khi trời vừa tắt nắng (đó là vào khoảng tháng sáu) những cô gái Đức tóc vàng hoe nom thật xinh xắn đi dạo trên các đường phố nhỏ hẹp, mỗi khi gặp người nước ngoài các cô cất tiếng chào: “Guten Abend?”[3] với cái giọng nghe thật dễ thương, - và cho đến lúc vầng trăng đã ló ra sau những mái nhà nóc nhọn trên những căn nhà kiểu cổ, và những viên đá nhỏ trên mặt đường lát đá đã hiện lên rõ mồn một dưới ánh trăng im lìm, vậy mà một số cô vẫn chưa muốn về. Vào những lúc ấy tôi thích đi lang thang trong thành phố. Từ trên khoảng trời trong, vầng trăng dường như đang chăm chú ngó nhìn xuống thành phố: và hình như phố xá cũng cảm thấy rõ cái nhìn ấy nên đã tỏ ra ân cần và nhũn nhặn tắm mình trong ánh trăng - cái ánh sáng mịn màng tĩnh mịch nhưng đồng thời cũng khơi gợi lên trong lòng người một nỗi xốn xang êm dịu. Con gà trống trên cái tháp chuông cao vút kiểu gô-tích sáng óng ánh trong ánh trăng vàng nhàn nhạt, cả những gợn sóng lăn tăn trên mặt con suối đen bóng cũng lấp lánh trôi đi trong ánh trăng vàng, những ngọn nến nhỏ xíu (người Đức vốn tằn tiện!) sáng lờ mờ với cái vẻ khiêm nhường trong các ô cửa sổ hẹp dưới những mái nhà lợp ngói grifen. Những cây nho mọc sau hàng tường dậu xây bằng đá hộc chìa ra những sợi tay leo cong queo nom thật bí ẩn. Bên cái giếng nước cổ xưa, một vật gì lao đi trong bóng tối qua bãi đất hình tam giác, đột nhiên vang lên một hồi còi uể oải của người gác đêm, con chó hiền lành gầm gừ mấy tiếng nửa vời, và khí trời mát dịu cứ mơn man trên da mát, bồ đề tỏa hương thơm ngào ngạt đến nỗi lồng ngực ta bất giác cứ thở hít mãi mỗi lúc một sâu hơn, và tiếng: “Gretkhen”[4] - nửa như ca thán, nửa như nghi vấn cứ thế buột ra khỏi miệng ta. Thị trấn Z nằm cách sông Ranh hai véctơ. Tôi thường ra ngắm dòng sông hùng vĩ, và ngồi hàng mấy giờ liền trên chiếc ghế đá dưới gốc cây tần bì to lớn đứng trơ trọi trên bờ sông, lòng dạ bồi hồi mơ tưởng tới người quả phụ nham hiểm kia. Dưới tán lá cây tần bì, bức tượng Đức mẹ nhỏ nhắn rầu rĩ nhìn ra với nét mặt nom giống như mặt trẻ con và trái tim đỏ tươi trên lồng ngực bị nhiều nhát gươm đâm thủng. Bờ bên kia là thị trấn L, không to hơn thị trấn tôi đang ở là bao. Một chiều tôi đang ngồi trên chiếc ghế đá yêu thích của tôi và ngắm cảnh: hết nhìn ra lòng sông, lại ngước nhìn lên bầu trời hoặc ngắm những vườn nho. Trước mặt tôi mấy em bé tóc ngắn đang leo trèo trên mạn một con thuyền đã bị kéo lên cạn và nằm phơi cái bụng quét hắc ín lên trời. Những chiếc thuyền nhỏ lững lờ trôi theo những cánh buồm không đầy gió, những làn sóng xanh lướt qua, hơi cồn lên và chạy lao xao bên mạn thuyền. Bỗng nhiên có tiếng nhạc từ xa vọng lại, tôi chăm chú lắng nghe. Bên thành phố L người ta đang chơi một điệu nhạc vanxơ: tiếng côntrơ-baxơ ậm ừ trầm mặc, tiếng viôlông réo rắt mơ hồ, tiếng flutơ nghe lềnh lảng thướt tha. - Người ta làm gì mà cử nhạc thế, hả cụ? - tôi hỏi ông già mặc áo gi-lê nhung, mang tất xanh và đi đôi giày có khóa sắt, lúc ấy vừa mới đến gần chỗ tôi. - Đó là cánh sinh viên từ B về dự hội Commerxơ - ông già thong thả chuyển cái tẩu thuốc từ mép này sang mép kia rồi mới trả lời tôi. “Hay là mình sang ngó thử xem cái hội Commerxơ ấy là cái gì - tôi nhủ thầm, - hơn nữa mình cũng chưa đặt chân lên thị trấn L lần nào”. Tôi tìm người lái đò và sang sông. ... Mời các bạn đón đọc Axya của tác giả Ivan Turgenev.
Viên Ngọc Trai - John Steinbeck
Viên Ngọc Trai, có bản dịch khác với tựa Viên Trân Châu, là một trong những tiểu thuyết nổi tiếng của John Steinbeck. Vì bài học có giá trị nhân văn của nó, nó đã được dùng để giảng dạy trong trường trung học cơ sở ở một số nơi trong Hoa Kỳ. Giống như bao nhiêu câu chuyện được lưu truyền trong dân gian, “Viên ngọc trai” cũng đề cập đến hai vấn đề muôn thuở: Thiện và ác – Bóng tối và ánh sáng. Phàm đã mang kiếp con người, có lẽ ai cũng sẽ thuộc về một trong hai thái cực ấy. Ranh giới giữa thiện và ác rất mong manh, nó nằm trong bản chất nội tại của con người, lệch 1 chút về phía ánh sáng sẽ là “người”, nghiêng nhiều về phía bóng tối sẽ trở thành “con”. Từ đó, con người nhất định sẽ là con người tốt hoặc phải là một kẻ vô lại theo quan niệm chung của nhân loài. Và hiển nhiên là không có điều gì có thể thay đổi được định luật này cả. “Viên ngọc trai” – một câu chuyện ngụ ngôn đầy ý nghĩa, tuy có phần trừu tượng nhưng John Steinbeck đã xây dựng một tiểu thuyết với kỹ năng đạt đến đỉnh cao của nghệ thuật kết cấu, không chỉ hoàn thiện về ý nghĩa biểu tượng mà còn sắc bén với những chi tiết rõ nét, như được quay qua một ống kính máy ảnh. Viên Ngọc Trai có một bài học đạo đức cao bao gồm một cuộc sống của một người nông dân bình thường đã có một chút lòng tham đã đem lại điều đau khổ, thậm chí còn nghèo khổ và mất mát nhiều hơn trước khi anh có Viên Ngọc Trai. Cuốn tiểu thuyết đã cho chúng ta cái nhìn qua nhân vật thầy tu, đã tham gia vô sự đàn áp dân chúng. Cuốn truyện con nhắn cho chúng ta về sự ác bức và sự phân biệt chủng tộc qua đời sống của một thường dân. Viên Ngọc Trai, chỉ là một thứ nằm trong lòng bàn tay đã có thể mang tới cái chết và hủy diệt của một gia đình hiền hòa được mọi người yêu mến. Kino chỉ nhìn thấy một tương lai giàu có mà Viên Ngọc Trai sẽ mang lại, tuy nó mang lại sự thịnh vượng có hạn nhưng nhiều người tin rằng nó có năng lực tột cùng. *** John Ernst Steinbeck, Jr. (1902 – 1968) là một tiểu thuyết gia người Mỹ được biết đến như là ngòi bút đã miêu tả sự đấu tranh không ngừng nghỉ của những người phải bám trên mảnh đất của mình để sinh tồn. Tác phẩm đầu tiên gây tiếng vang của John Steinbeck là cuốn Của Chuột Và Người (Of Mice and Men) (1937), dựng nên một câu chuyện bi thảm về hai nông dân ít học thức hằng mong mỏi một mảnh đất cho riêng mình để canh tác. Tác phẩm được đánh giá cao nhất là Chùm Nho Phẫn Nộ (The Grapes of Wrath) (1939; đoạt giải Pulitzer năm 1940), dựng nên câu chuyện của gia đình Joad, bị nghèo khó ở vùng hoang hóa Dust Bowl của tiểu bang Oklahoma, phải chuyển đến California trong giai đoạn khủng hoảng kinh tế của thập niên 1930. Quyển tiểu thuyết gây nhiều tranh cãi, được xem không những là truyện hư cấu nhưng có tính hiện thực mà còn là lời phản kháng xã hội đầy cảm động, đã trở nên một tác phẩm kinh điển trong nền văn học Mỹ. Là một trong những "tượng đài" văn học từ thập kỷ 1930, Steinbeck lấy chủ đề trung tâm là phẩm giá trầm lặng của những người cùng khổ, những người bị áp bức. Dù những nhân vật của ông thường bị vây bọc trong thế giới thiếu công bằng, họ vẫn giữ mình như là những con người đầy cảm thông và có anh hùng tính, tuy có thể bị khuất phục. John Steinbeck nhận Giải Nobel Văn học năm 1962. Tiểu thuyết của John Steinbeck đã được dịch ra tiếng Việt gồm có: Của chuột và người (Of Mice and Men, 1937) Chùm nho nổi giận, còn được dịch Chùm nho phẫn nộ hay "Chùm nho uất hận", (The Grapes of Wrath, 1939) Đoạt Giải Pulitzer năm 1940 Phía đông vườn địa đàng (East of Eden, 1952) Đồng cỏ nhà trời (The Pastures of Heaven, 1932) Tôi, Charley và hành trình nước Mĩ (Travels with Charley in search of America, 1961) *** Trong thị trấn ấy người ta vẫn kể lại câu chuyện về một viên ngọc trai thật quái đản - về xuất sứ như thế nào nó được tìm thấy cũng như lý do tại sao nó lại bị mất đi. Người ta kể về Kino, một người đàn ông sống bằng nghề thuyền chài, cùng với vợ của anh là chị Juanna. Đứa con nhỏ bé của họ là Coyotio. Câu chuyện được kể đi kể lại nhiều lần, cuối cùng đã bén rễ, ăn sâu vào tâm trí của những con người sinh sống nơi đây. Giống như bao nhiêu câu chuyện được lưu truyền lại từ ký ức của con người khác, câu chuyện này nhắc đến hai điều: Thiện và Ác. Bóng đêm và ánh sáng. Cái tốt và sự Quỷ quyệt. Phàm đã mang kiếp con người, ai cũng sẽ thuộc về một trong hai thái cực ấy. Khó mà có chuyện anh bạn sẽ là người ba phải. Anh bạn nhất định sẽ là con người tốt hoặc phải là một kẻ vô lại. Tất nhiên là không có điều gì thay đổi được định luật này cả. Nếu câu chuyện về viên ngọc trai sắp đuợc kể ra dưới đây, như là một chứng tích hay là một câu truyện ngụ ngôn, hy vọng bạn có thể sẽ sẽ rút ra được cho mình một bài học ý nghĩa riêng biệt. Bạn sẽ thấy mình là một nhân vật của câu chuyện. Tóm lại như thế này, trong một làng chài bình dị ấy, người ta kể rằng... Mời các bạn đón đọc Viên Ngọc Trai của tác giả John Steinbeck.
Trăng Lặn - John Steinbeck
John Ernst Steinbeck, Jr. (1902 – 1968) là một tiểu thuyết gia người Mỹ được biết đến như là ngòi bút đã miêu tả sự đấu tranh không ngừng nghỉ của những người phải bám trên mảnh đất của mình để sinh tồn. Tác phẩm đầu tiên gây tiếng vang của John Steinbeck là cuốn Của Chuột Và Người (Of Mice and Men) (1937), dựng nên một câu chuyện bi thảm về hai nông dân ít học thức hằng mong mỏi một mảnh đất cho riêng mình để canh tác. Tác phẩm được đánh giá cao nhất là Chùm Nho Phẫn Nộ (The Grapes of Wrath) (1939; đoạt giải Pulitzer năm 1940), dựng nên câu chuyện của gia đình Joad, bị nghèo khó ở vùng hoang hóa Dust Bowl của tiểu bang Oklahoma, phải chuyển đến California trong giai đoạn khủng hoảng kinh tế của thập niên 1930. Quyển tiểu thuyết gây nhiều tranh cãi, được xem không những là truyện hư cấu nhưng có tính hiện thực mà còn là lời phản kháng xã hội đầy cảm động, đã trở nên một tác phẩm kinh điển trong nền văn học Mỹ. Là một trong những "tượng đài" văn học từ thập kỷ 1930, Steinbeck lấy chủ đề trung tâm là phẩm giá trầm lặng của những người cùng khổ, những người bị áp bức. Dù những nhân vật của ông thường bị vây bọc trong thế giới thiếu công bằng, họ vẫn giữ mình như là những con người đầy cảm thông và có anh hùng tính, tuy có thể bị khuất phục. John Steinbeck nhận Giải Nobel Văn học năm 1962. Tiểu thuyết của John Steinbeck đã được dịch ra tiếng Việt gồm có: Của chuột và người (Of Mice and Men, 1937) Chùm nho nổi giận, còn được dịch Chùm nho phẫn nộ hay "Chùm nho uất hận", (The Grapes of Wrath, 1939) Đoạt Giải Pulitzer năm 1940 Phía đông vườn địa đàng (East of Eden, 1952) Đồng cỏ nhà trời (The Pastures of Heaven, 1932) Tôi, Charley và hành trình nước Mĩ (Travels with Charley in search of America, 1961) *** Tin tức được lan truyền mau chóng trong thị trấn, qua những lời thầm thì trước cửa, bằng cái liếc nhanh đầy ngụ ý― “Thị trưởng bị giam giữ”. Khắp cả thị trấn lan ra một sự rộn ràng thầm lặng, một sự rộn ràng nhỏ nhoi nhưng mãnh liệt; người ta tụm lại thầm thì trò chuyện với nhau rồi tản đi; người đi mua thực phẩm nghiêng đầu sát vào người bán hàng và trong khoảnh khắc họ trao nhau lời nói. Dân chúng đi vào đồng ruộng, vào những khu rừng, tìm kiếm chất nổ. Và những đứa trẻ chơi đùa trong tuyết cũng tìm thấy chất nổ, đến lúc này cả những đứa trẻ cũng biết đến những lời chỉ dẫn. Chúng mở gói hàng, ăn phần sô-cô-la, và sau đó chúng chôn những thanh chất nổ trong tuyết rồi nói lại cho cha mẹ chúng vị trí chôn dấu. Ở tận ngoài đồng xa một người nhặt được ống chất nổ, hắn đọc lời chỉ dẫn và tự nói với mình, “Không hiểu nó có nổ được không.” Hắn cắm ống chất nổ vào trong tuyết và châm mồi, rồi vừa chạy lui ra xa vừa đếm. Nhưng hắn đếm hơi nhanh, nó nổ khi hắn đếm được đến 68. Hắn nói, “Ðược đấy,” rồi hắn vội bỏ đi, tìm những ống chất nổ khác. Gần như là có một hiệu lệnh, dân chúng đi vào trong nhà và đóng cửa lại, đường phố lặng ngắt. Ở hầm mỏ, quân lính cẩn thận lục soát từng người thợ đi vào trong hầm, lục soát rồi lại lục soát, và quân lính trở nên cáu kỉnh, cộc cằn, họ nói với những người thợ mỏ bằng những lời lẽ thô bạo. Những người thợ nhìn họ bằng ánh mắt lạnh căm, và đằng sau ánh mắt ấy có chút ít sôi sục rộn ràng. Trong phòng khách của dinh Thị trưởng chiếc bàn đã được dọn dẹp sạch sẽ, một người lính đứng gác ở ngay trước cửa phòng ngủ của Thị trưởng. Annie đang quì trước vỉ lò sưởi, gắp từng mẩu than bỏ vào lò. Bà ngước lên nhìn người lính gác đang đứng trước cửa phòng Thị trưởng Orden và bà nói với hắn bằng giọng gay gắt, “Này, mi làm cái gì với ông ấy đây?” Người línhh không trả lời. Cánh cửa ngoài mở ra một người lính khác bước vào, hắn nắm cánh tay của Bác sĩ Winter. Hắn đưa Bác sĩ Winter vào, đóng cánh cửa lại, đứng bên trong phòng chắn ngay trước cánh cửa. Bác sĩ Winter nói, “Chào Annie, Ðức ông khoẻ chứ?” Và Annie chỉ vào phòng ngủ nói, “Ông ấy ở trong đấy.” “Ông ấy không bệnh chứ?” Bác sĩ Winter nói. “Không, ông ấy chẳng có vẻ gì bệnh cả,” Annie nói. “Ðể tôi coi thử, có thể nói ông ấy biết là Bác sĩ ở đây.” Bà bước đến người lính gác và nói như ra lệnh. “Nói với Ðức ông là Bác sĩ Winter ở đây, mi có nghe không?” Người lính gác không trả lời và không cử động, nhưng từ phía sau, cách cửa mở và Thị trưởng Orden đứng ở ngưỡng cửa. Ông đi lướt qua, không để ý đến người lính, bước vào trong phòng. Trong thoáng chốc người lính như có ý kéo ông trở lại, nhưng rồi hắn qua lại vị trí cũ bên cạnh cửa. Orden nói, “Cám ơn, Annie. Ðừng đi xa đấy? Tôi có thể cần đến bà.” Annie nói, “Không đâu, thưa ngài. Phu nhân khoẻ chứ?” “Bà ấy đang làm tóc. Bà có muốn gặp bà ấy không, Annie?” “Vâng, thưa ngài,” Annie nói, và bà lại đi lách qua người lính gác, vào trong phòng ngủ, đóng cửa lại. Orden nói, “Ông có cần gì không Bác sĩ?” Winter nhếch môi cười mỉa mai và chỉ ra về người lính đứng phía sau lưng. “Vậy đấy, tôi đoán là tôi đã bị bắt. Ông bạn này dẫn tôi đến.” Orden nói, “ Tôi nghĩ rồi cũng đến nước này thôi. Tôi tự hỏi họ sẽ làm gì đây?” Hai người nhìn nhau một lúc lâu và người này chợt hiểu người kia đang nghĩ gì. Rồi Orden nói tiếp như ông chưa từng ngừng lời. “Ông biết không, tôi không thể ngăn được chuyện đó cho dù tôi có muốn đi nữa.” “Tôi biết,” Winter nói, “nhưng bọn họ thì không.” Ông nói tiếp điều ông đang suy nghĩ. “Một dân tộc coi trọng giờ giấc,” ông nói, “và giờ giấc đã gần điểm. Họ nghĩ rằng chỉ vì họ chỉ có một lãnh tụ và một cái đầu nên họ cho tất cả chúng ta cũng như vậy. Họ biết nếu mười cái đầu bị chặt đi họ sẽ bị tiêu diệt, nhưng chúng ta là những người tự do, chúng ta có bao nhiêu người thì có bấy nhiêu cái đầu, và đến lúc cần những lãnh tụ sẽ mọc lên trong chúng ta như nấm.” Orden đặt tay lên vai của Winter và ông nói, “Cám ơn. Tôi biết điều đó, nhưng nghe ông nói thật hay. Dân chúng thấp bé kia sẽ không bị khuất phục, đúng không?” Ông bồn chồn nhìn khuôn mặt của Winter dò hỏi. Bác sĩ Winter khẳng định với ông, “Sao, không, không đâu. Sự thực là họ sẽ trở nên lớn mạnh hơn với sự giúp đỡ từ bên ngoài.” Căn phòng im lặng một lát. Người lính gác hơi chuyển thế đứng, cây súng va vào một hạt nút nghe lanh canh. Orden nói, “Tôi có dịp nói chuyện với ông, Bác sĩ, và có lẽ tôi sẽ không thể nói chuyện với ông lần nữa. Trong đầu tôi đã nghĩ đến những điều hơi hổ thẹn.” Ông ho và liếc nhìn người lính đang đứng nghiêm, nhưng người lính không có vẻ nghe thấy gì hết. “Tôi đã nghĩ đến cái chết của tôi. Nếu họ cứ theo trình tự thông tường, họ phải giết tôi, và họ sẽ phải giết ông.” Và khi thấy Winter im lặng, ông nói, “Ðúng không?” “Ðúng, tôi đoán vậy.” Winter bước đến bên một chiếc ghế bịt vàng, vừa lúc sắp ngồi xuống, để ý thấy thảm bọc ghế bị rách, ông dùng ngón tay vuốt chỗ đệm ngồi như thể làm vậy sẽ vá nó lại được. Ông se sẽ ngồi xuống vì chiếc ghế đã rách. Orden nói tiếp, “Ông cũng biết, tôi sợ, tôi đã từng nghĩ những phương cách để trốn thoát, phủi tay. Tôi đã từng nghĩ đến việc bỏ chạy. Tôi đã từng nghĩ đến việc van xin tha mạng, và chuyện ấy làm tôi hổ thẹn.” Mời các bạn đón đọc Trăng Lặn của tác giả John Steinbeck.