Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Lời Thú Tội

Sau cuộc phiêu lưu ly kỳ khám phá bí mật Cây Kim Rỗng, tưởng đâu gã đạo chích Arsène Lupin sẽ lui về ở ẩn một thời gian. Nhưng không, với bản tính ưa mạo hiểm, thích khám phá, Lupin sao có thể chịu ngồi yên nhìn cuộc đời trôi qua trong bình lặng. Những phi vụ của “Tên trộm quốc dân” đã được tái hiện đầy đủ và sống động trong Lời thú tội. Đan xen trong tập truyện là những vụ trộm vừa phải, những món lợi khiêm tốn hơn, Lupin đều đặn làm việc xấu và cũng làm cả chút việc tốt nữa, bởi bản tính tự nhiên và vì hắn thích thế, như một Don Quichotte dị thường và đầy trắc ẩn. *** “Siêu trộm hào hoa”, “Hoàng tử đạo chích”, “Robin Hood của giới tội phạm”, đó là những mỹ danh được dành tặng cho một trong những nhân vật tiếng tăm nhất của dòng văn học trinh thám phiêu lưu nước Pháp: Arsène Lupin. Ra mắt độc giả vào năm 1905 dưới dạng truyện ngắn dài kỳ trên tạp chí Je sais tout, gã đạo chích thông minh, quyến rũ nhưng không kém phần hài hước và láu cá ấy đã khiến cảnh sát khốn khổ vò đầu bứt tai, cánh nhà giàu ngày đêm lo ngay ngáy vì mất của, còn công chúng thì thích thú tán thưởng và hồi hộp dõi theo những màn trình diễn đầy hấp dẫn và không thể đoán trước kết cục. *** Arsène Lupin là một nhân vật hư cấu xuất hiện trong loạt truyện thám tử, tiểu thuyết trinh thám của nhà văn Pháp Maurice Leblanc, cũng như một số phần tiếp theo và rất nhiều phim truyền hình, phim điện ảnh như Night Hood, Arsène Lupin, các vở kịch và truyện tranh phỏng theo.   Cùng thời với Arthur Conan Doyle, Maurice Leblanc (1864-1941) đã sáng tạo ra nhân vật Arsène Lupin, một nhân vật có tầm phổ biến rộng khắp và lâu dài ở các nước nói tiếng Pháp, giống như Sherlock Holmes (tải eBook) ở các nước nói tiếng Anh. Serie Arsène Lupin gồm hai mươi tập truyện được viết bởi chính Leblanc cộng thêm năm phần tiếp đã được ủy quyền cho nhóm viết của Boileau-Narcejac thực hiện, cũng như nhiều tác phẩm khác phỏng theo. Nhân vật Lupin được giới thiệu lần đầu trên tạp chí Je Sais Tout qua một loạt truyện ngắn, bắt đầu từ số thứ 6, ngày 15 tháng 7 năm 1905. Ban đầu nhân vật mang tên Arsène Lopin, nhưng vấp phải sự phản đối từ một chính trị gia trùng tên, kết quả là "Lopin" đã bị đổi thành "Lupin". Arsène Lupin là một siêu đạo chích có tài hóa trang, một tên trộm quý tộc chuyên trộm đồ của nhà giàu trong khi núp bóng quý ông lịch thiệp. Nhân vật Lupin giống với Marius Jacob nên có khi được cho là dựa trên hình mẫu này.xuất hiện trong 12 tập truyện ngắn đã cho thấy đây là một nhân vật có thể sánh ngang cùng với các nhân vật khác như Holmes cua Conan Doyle, Hercule Poirot cuả Agatha. Hình tượng Lupin đã được nhiều bộ phim nổi tiếng lấy làm mẫu nhân vật như Kaito Kid trong bộ manga nổi tiếng Thám tử lừng danh Conan (tải eBook). *** Maurice Leblanc sinh năm 1864 tại Rouen, Pháp. Tên tuổi của ông thực sự được biết tới và để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng độc giả suốt hơn một thế kỷ qua nhờ series truyện dài kỳ cho tạp chí Je sais tout về nhân vật siêu đạo chích Arsène Lupin. Nhờ những cống hiến không ngừng nghỉ của mình, Leblanc đã được trao tặng Huân chương Bắc Đẩu bội tinh. Ông mất năm 1941 tại Perpignan. Dưới đây là một số tác phẩm của Maurice Leblanc được dịch và xuất bản tại Việt Nam: - Cái chết rình rập - Đối đầu Sherlock Holmes - Sa bẫy địa ngục - Những cú siêu lừa của Arsène Lupin - Những cuộc phiêu lưu của Arsène Lupin - Tám vụ phá án của Arsène Lupin - Ngôi nhà bí ẩn - Báo Thù - Nữ bá tước Cagliostro - Hòn Đảo 13 chiếc quan tài - Hai Nữ Tướng Cướp - Tam giác vàng ma quỷ - Arsene Lupin và Hồi Ức Bí Mật - Vụ Chơi Khăm Ngài Triệu Phú - Cây Kim Rỗng - Lời Thú Tội - ... *** Lupin này!” Tôi gạ. “Kể tôi nghe chuyện gì của anh đi.” “Ái chà! Chuyện gì là chuyện gì cơ chứ? Đời tôi – ai cũng biết hết rồi mà!” Lupin đang ngồi mơ màng trên chiếc trường kỷ trong phòng làm việc của tôi, đáp lại như thế. “Nào có ai biết rõ đời anh!” Tôi nói. “Đọc mấy lá thư anh gửi đăng báo, người ta biết đại khái anh dính vào vụ này, anh động vào việc kia… Chứ vai trò của anh, nội tình câu chuyện, diễn biến thế nào, kết thúc ra sao, những cái đó thì đố ai biết được!” “Xi! Toàn mấy chuyện linh tinh chứ có gì hay đâu!” “Ô này! Thế chuyện anh gửi năm mươi nghìn franc cho bà góa phụ Nicolas Dugrival thì sao? Anh bảo đấy là chuyện linh tinh không hay á? Còn chuyện anh giải mã câu đố bí ẩn của ba bức tranh đó nữa?” Lupin phá lên cười. “Đúng, đó là một bí ẩn lạ lùng, hẳn nhiên rồi. Tôi đề xuất một tiêu đề thế này, anh xem có thích không nhé: Mật hiệu bóng kim đồng hồ?” “Và cả những thành công tuyệt vời của anh trong xã hội và… với phái đẹp?” Tôi nói thêm. “Những cuộc tình chớp nhoáng của Arsène!… Rồi bí mật đằng sau những việc tốt anh đã làm? Mấy câu chuyện mà anh thường bóng gió với tôi bằng những cái tên: Chiếc nhẫn cưới, Tử thần rình rập… đó! Sao phải chậm trễ giãi bày những tâm sự và những thầm kín ấy, hả Lupin tội nghiệp của tôi?… Nào, hãy mạnh dạn lên một chút, làm như tôi bảo đi nào!…” Hồi đó, Lupin đã nức tiếng giang hồ, nhưng vẫn chưa thực hiện những phi vụ siêu khủng, chưa lao vào mấy trận chiến nảy lửa; là hồi trước các cuộc phiêu lưu để đời Cây Kim Rỗng và 813.Không mơ tới việc chiếm hữu kho báu cổ xưa mà những nhà vua nước Pháp⦾ tích lũy suốt mấy trăm năm, hay thay đổi bản đồ châu Âu ngay dưới mũi hoàng đế Đức, anh hài lòng với những vụ trộm vừa phải hơn và những món lợi khiêm tốn hơn. Hàng ngày, anh đều đặn làm việc xấu và cũng làm cả chút việc tốt nữa, bởi bản tính tự nhiên và vì anh thích thế, như một Don Quichotte dị thường và đầy trắc ẩn. Thấy anh im lặng, tôi lại nhắc: “Nào Lupin, mời anh kể…” Những lời anh đáp làm tôi ngạc nhiên: “Lấy giấy ra đi, anh bạn thân mến, cả bút nữa!” Tôi sốt sắng làm theo ngay, lòng khấp khởi mừng thầm với ý nghĩ: Cuối cùng, anh cũng chịu đọc cho đôi trang. Anh luôn biết cách kể chuyện. Những câu chuyện của anh bao giờ cũng lý thú và hấp dẫn, đầy khí lực và lôi cuốn, trong khi tôi cứ mải miết sa đà vào những giải thích rườm rà và trình bày nhàm chán. “Đã xong chưa?” Anh hỏi tôi. “Giấy bút sẵn sàng cả rồi đây!” “Anh viết nhé: 20 – 18 – 5 – 14; 8 – 5 – 20.” “Cái gì đây?” “Tôi bảo thì anh cứ viết đi.” Anh ngồi dậy, mắt dõi ra ô cửa sổ mở toang, còn ngón tay về một điếu thuốc lá Thổ Nhĩ Kỳ thượng hạng. Anh đọc tiếp: “Tiếp này: 6 – 1 – 9…” Ngừng một chút, anh lại đọc: “20 – 18 – 1 – 14 – 8.” Và sau một lúc im lặng. “24 – 5.” Anh điên rồi ư? Tôi chăm chú nhìn anh, chẳng mấy chốc đã nhận ra đôi mắt anh không còn lơ đãng như trước nữa, mà sắc sảo và rất tập trung, như thể đang theo dõi đâu đó trong không gian một cảnh tượng khiến anh bị thu hút. Nhưng, trong lúc đó, anh vẫn đọc và ngắt nghỉ giữa từng con số: “14 – 7 – 21 – 25…” Chẳng có gì để nhìn ngắm qua khung cửa sổ kia, ngoài mảnh trời màu lam ở phía bên phải và mặt tiền ngôi nhà cũ đối diện, cửa lúc nào cũng đóng im ỉm. Ngoài đó, chẳng có gì đặc biệt, cũng chẳng có gì mới giữa những thứ tôi luôn nhìn thấy suốt bao năm qua. “8 – 9…” Rồi tôi chợt hiểu… hay đúng hơn, tôi tưởng mình đã hiểu. Bởi làm sao tôi có thể thừa nhận một người bản chất điềm đạm giấu sau chiếc mặt nạ ngông nghênh phớt đời như Lupin lại có thể phí thời gian vào những trò trẻ con vớ vẩn như thế được? Không nghi ngờ gì nữa: Anh đang đếm những tia nắng mặt trời thoắt ẩn thoắt hiện vui đùa trên mặt tiền xám xịt của ngôi nhà đối diện, cao ngang lầu hai⦾. “5…” Lupin đọc. Vệt nắng biến mất mấy giây, rồi lại hiện ra trên mặt tiền ngôi nhà, rồi lại biến mất. Những lần hiện ra rồi biến mất ấy cách nhau đều đặn từng quãng. Tôi vô thức cũng đếm những vệt nắng trên tường và hô to: “13…” “Đã nắm được rồi à? Khá lắm! Chúc mừng nhé!” Anh cười, có chút giễu cợt. Anh bước tới khung cửa và nhoài người ra, như muốn tìm xem tia nắng rọi từ hướng nào. Rồi anh quay trở vào và lại nằm dài lên chiếc trường kỷ, nói: “Giờ đến lượt anh. Đếm đi!” Tôi nghe theo, có vẻ như gã tinh quái này biết chuyện gì đang xảy ra. Với lại, tôi cũng không thể phủ nhận, cách những vệt nắng kia ẩn hiện theo tần số trên mặt tiền ngôi nhà đối diện có gì đó bất thường, khiến ta phải tò mò. Chúng nhấp nháy đều đặn, nối tiếp nhau như tín hiệu đèn pin. Vệt nắng rõ ràng được chiếu ra từ ngôi nhà cùng dãy với nhà tôi, vì mặt trời chiếu xiên qua cửa sổ nhà tôi. Hình như có ai đó đang đóng – mở cửa kính hay đúng hơn là đang bày trò tiêu khiển bằng cách dùng chiếc gương bỏ túi hắt ánh mặt trời phản chiếu lên tường nhà người khác. “Là đứa trẻ nào nghịch gương chơi thôi mà!” Tôi gào lên, trong lòng thấy bực bội không nhịn được, sau một lúc căng mắt theo dõi và ghi chép. “Anh cứ tiếp tục đi!” Thế là tôi lại đếm… Thế là tôi lại viết những con số thành hàng… Và những tia nắng mặt trời lại tiếp tục nô đùa trước mặt tôi, với sự chính xác toán học. “Sao rồi?” Lupin hỏi, sau một lúc lâu không thấy những vệt nắng xuất hiện nữa. “Sao à? Hình như hết rồi đấy… Mấy phút trôi qua rồi mà chẳng thấy gì nữa…” Hai chúng tôi cùng đợi, do không thấy vệt nắng nào xuất hiện trên mặt tiền ngôi nhà cũ kia nữa, tôi mới đùa: “Theo tôi thấy, chúng ta vừa phí mất hơn chục phút cuộc đời. Chỉ ghi được có mấy con số trên giấy: Thành quả kém ghê!” Lupin, vẫn nằm yên trên ghế, cãi: “Ông bạn già, ông làm ơn chịu khó thay những con số bằng những chữ cái có thứ tự tương ứng trong bảng chữ cái đi tôi xem nào! Ví như chữ A thay vào số 1, chữ B vào số 2, chữ C vào số 3… cứ lần lượt thế. Làm thử tôi xem!” “Nhưng làm thế ngốc lắm!” “Quá ngốc! Nhưng trên đời có ai không làm chuyện ngốc nghếch đâu cơ chứ? Chỉ có người ít, người nhiều mà thôi!” Tôi đành ngồi xuống và làm cái chuyện ngớ ngẩn đó. Tôi bắt đầu viết những chữ đầu tiên: “T – R – E – N – H – E – T…” Tôi dừng bút, ngạc nhiên. “Được hẳn một từ có nghĩa đây này!” Tôi kêu lên. “Là từ TRÊN HẾT…” “Nốt đi, ông bạn già!” Tôi lại tiếp tục thay các con số bằng chữ cái tương ứng, lần lượt tách các nhóm ký tự ra thành từng tiếng, kinh ngạc hết sức khi chúng tạo thành những từ có nghĩa và một vế câu hoàn chỉnh hiện ra ngay trước mắt tôi. “Xong chưa?” Một lát sau, Lupin hỏi. “Xong rồi… À nhưng mà viết không dấu, lại có chỗ sai chính tả…” “Để ý đến cái đấy làm gì! Ông bạn làm ơn đọc to lên tôi nghe xem nào… Đọc chậm thôi.” Vậy là tôi đọc lên cho anh câu văn chưa hoàn chỉnh đó, nguyên văn như thế này: Trên hết, phải tránh xe nguy hiểm, chớ ttấn công, thận trọg tối đa khi tiếp cận đối phưang và…” Mời các bạn đón đọc Lời Thú Tội của tác giả Maurice Leblanc.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Thương
Cuốn tiểu thuyết nổi tiếng của nhà văn Mỹ đoạt giải Nobel vừa được dịch ra tiếng Việt với tên gọi “Thương”. Sách do NXB Phụ Nữ và Công ty sách Alpha phối hợp ấn hành. Beloved được xuất bản tại Mỹ năm 1987 và đoạt giải Pulitzer năm 1988. Tác phẩm kể về cuộc đấu tranh sinh tồn của Sethe và cô con gái Denver sau khi thoát khỏi kiếp sống nô lệ. Một ngày, một cô gái trẻ xuất hiện tại ngôi nhà của hai mẹ con, tự xưng tên mình là “Beloved”. Sethe tin rằng đây chính là đứa con gái xấu số đã bị cô tự tay giết chết từ lúc hai tuổi để đánh đổi lấy sự sống cho mình và Denver. Cuốn tiểu thuyết dựa trên cuộc đời thực của một người phụ nữ da đen tên là Margaret Garner. Là sáng tác quan trọng nhất trong sự nghiệp văn chương của Toni Morrison, cuốn sách được đánh giá là: “Lịch sử thân phận cá nhân tải nặng cả một quá khứ tập thể. Một bản thánh ca dâng tặng tình yêu, tình mẫu tử. Một cuốn tiểu thuyết của lầm lỗi và lòng khoan dung, của sự lãng quên và nỗi ám ảnh, của cái chết cũng như sự hy sinh tất yếu và khát vọng sống mãnh liệt, của những dày vò đau đớn đối với tâm hồn và ngọn lửa yêu thương bất diệt”. Cuốn sách từng được bình chọn là tác phẩm văn học hay nhất của Mỹ 25 năm qua. Toni Morrison sinh năm 1931. Bà là nhà văn da đen đầu tiên của Mỹ đoạt giải Nobel Văn học (1993), ngoài Beloved (Thương), Morrison còn nổi tiếng với những tác phẩm như: The Bluest Eye (Con mắt xanh biếc), Song of Solomon (Bài ca của Solomon), Sula... *** I24 hằn học. Đầy nọc độc trẻ thơ. Những người đàn bà trong nhà biết thế và lũ trẻ cũng biết thế. Đã nhiều năm, mỗi người chịu đựng sự hằn học ấy theo cách riêng của mình, nhưng đến năm 1873, chỉ còn Sethe và con gái Denver là nạn nhân của nó. Bà nội Baby Suggs đã mất, và hai đứa con trai Howard và Buglar đã trốn đi khi chúng mười ba tuổi − khi chỉ nhìn vào gương thôi đã đủ làm nó vỡ tan (dấu hiệu cho Buglar); ngay sau khi hai vết bàn tay nhỏ hiện ra trên mặt chiếc bánh ngọt (thế là xong với Howard). Chúng không đợi để chứng kiến thêm nữa; thêm một nồi đậu đổ chất đống bốc khói trên sàn nhà; bánh quy giòn bóp vụn và rải dọc theo bệ cửa. Chúng cũng không đợi đến lúc mọi chuyện nguôi ngoai, khi nhiều tuần, thậm chí nhiều tháng trôi qua mà không điều gì bị xáo trộn. Không. Từng đứa tức thì bỏ đi − ngay khi căn nhà phạm một điều đối với chúng là sự lăng mạ không chịu đựng nổi hay không thể chứng kiến đến lần thứ hai. Trong vòng hai tháng, ngay giữa mùa đông, chúng để mặc bà nội Baby Suggs, mẹ Sethe và em gái Denver tự mình xoay sở trong căn nhà trắng xám ở đường Bluestone. Lúc ấy nhà không có số, vì Cincinnati chưa kéo dài đến chỗ ấy. Thật ra, lúc thằng anh rồi đến đứa em nhồi chăn vào mũ, chụp đôi giày, và lẻn trốn khỏi sự hằn học dữ dội căn nhà dành cho chúng thì Ohio chỉ mới tự nhận là tiểu bang được bảy mươi năm. Baby Suggs không buồn nhấc đầu dậy. Từ giường bệnh bà nghe chúng đi, nhưng không phải vì vậy mà bà nằm yên. Với bà, chuyện lạ là mãi đến lúc ấy hai thằng cháu mới nhận ra không ngôi nhà nào giống như ngôi nhà trên đường Bluestone. Ở lưng chừng giữa cuộc sống khốn nạn và cái chết ác mó, rời bỏ cuộc đời hay tiếp tục sống bà đều không thiết tha, nói gì đến nỗi sợ của hai thằng cháu đang lẻn đi. Quá khứ của bà cũng giống như hiện tại − chịu không thấu − và vì bà biết rằng cái chết không là gì khác ngoài sự quên lãng, bà dùng chút hơi tàn để suy ngẫm về màu sắc. “Mang chút màu tím nhạt vào nếu con có. Nếu không, thì mang màu hồng.” ... Mời các bạn đón đọc Thương của tác giả Toni Morrison.
Những Quân Cờ Domino - Minh Nhật
"Ngay khi đó, cô bừng tỉnh. Tất cả chỉ là giấc mơ. Khanh nằm im lặng trong căn gác mái. Chút ánh sáng nhỏ nhoi từ cửa sổ hắt vào ngờ vực. Cô ngồi im, như sự tan mất những cảm xúc còn đọng lại trong mình. Giọt mocha cuối cùng của ảo mộng rót xuống tâm hồn Khanh những kỳ vọng lớn lao. Giấc mơ quá thật đến nỗi cô không muốn tỉnh dậy. Nếu cho Khanh quyền lựa chọn, cô sẽ không nhường  hoàng hôn đỏ rực đầy quyến rũ đó lại cho bất - kì - ai. Không một ai." Cuốn tiểu thuyết đầu tiên của "Hoàng tử teen story" Minh Nhật sau hàng loạt những tập truyện ngắn, tản văn gây sốt, một bước ngoặt trong con đường chinh phục độc giả bằng ngòi bút lôi cuốn đầy sức lay động của nhà văn trẻ này. *** Chủ nhật đẹp trời. Nắng tràn trề rực rỡ trên phố. Thứ nắng này luôn khiến người ta tưởng tượng đến một điều gì đó huy hoàng sắp xảy ra, nhưng thực ra sẽ chẳng có gì xảy ra, chỉ là nắng thôi. Những chùm bóng bay nhiều màu tỏa khắp mọi con đường, giống cảnh quay cuối cùng trong một bộ phim Pháp. Chút gió nhẹ cuối cùng tiễn mùa cũ, từng cành cây bên đường như ngả thấp xuống một chút sát với hơi thở của phố. Cuối cùng thì hè cũng đã đến. Điều khó chịu nhất khi sống ở một nước nhiệt đới là bạn sẽ phải liên tục thay đổi cảm xúc cho phù hợp với mùa. Mùa đông ngày càng ngắn lại, ai cũng có thể nhận thấy rõ điều đó. Nhiệt độ không phải thứ quyết định lối sống tại thành phố này, tuy thế bạn cũng phải có một tủ quần áo đa dạng đủ để không trở nên ngớ ngẩn mỗi khi hè sang đông tới. Khanh thử đi thử lại mớ quần áo trong tủ, cái thì ngắn quá, cái thì nực nội, cái vừa thì lại không biết mặc gì cho hợp, cái hợp với nhau thì lại không hợp với cô. Quả là bi kịch. Một nghiên cứu nhỏ chỉ ra rằng phụ nữ tốn khoảng sáu năm trong cuộc đời chỉ dành riêng cho việc đứng trước gương mỗi ngày thay ra mặc vào mớ vải đủ màu sắc, cá nhân Khanh cho rằng nói như vậy có vẻ hơi quá. Nhưng nếu bạn đã bắt đầu dễ dãi với bản thân trong việc đắp gì lên người cũng ra đường được, thì xin chúc mừng, bạn sắp ế chồng. Tuy còn đến gần mười năm mới phải lo về thảm kịch ấy, Khanh đã mường tượng ra được viễn cảnh từ người dì của mình – một người phụ nữ luôn là chủ đề dèm pha của cả họ hàng gia tộc anh em gần xa gà mèo chim chuột mỗi khi họ có dịp tụ tập lại – một bữa giỗ hay tất niên chẳng hạn. Bản thân cô, hai mươi tuổi, chẳng phiền muộn cuộc đời, mỗi ngày chỉ ăn một bữa rưỡi, ngủ sau mười hai giờ, vẫn còn dán poster một boyband thần tượng ngay đầu giường; nhưng đã sớm ý thức được rằng phụ nữ dẫu có đẹp mấy mà không sớm được nhấc đi trước khi đầu ba ập tới, thì nhất định sẽ thành một của nợ không hơn không kém trong đại gia đình. Có ai đó nói rằng phụ nữ qua hai mươi tám tuổi mà vẫn chưa lấy chồng thì giống như là cái quạt gió giữa mùa đông – đến bố mẹ bạn còn chẳng hiểu nhiệm vụ của bạn trong nhà là gì, nữa là người khác. ... Mời các bạn đón đọc Những Quân Cờ Domino của tác giả Minh Nhật.
Sơn Ca Vẫn Hót
Câu chuyện xoay quanh 2 chị em Isabelle (biệt danh "Sơn ca") và Vianne tham gia kháng chiến, sẵn sàng nhận những nhiệm vụ đầy thách thức trong cuộc chiến tranh năm 1939 tại Pháp. *** Kristin Hannah là tác giả Mỹ đoạt giải và nhà văn ăn khách của hơn 20 tiểu thuyết, bao gồm cả bom tấn quốc tế.  Các tác phẩm tiêu biểu: A Handful of Heaven, The Enchantment, Once in Every Lifetime, If You Believe, When Lighting Strikes, Waiting for the Moon, Home Again, On Mystic Lake, Angel Falls, Summer Island, Distant Shores, Betwwen Sisters, The Thing We Do for Love, Comfort & Joy, Magic Hour… Sơn ca vẫn hót (The Nightingale), là tựa sách đoạt giải Tiểu thuyết lịch sử hay nhất do bạn đọc bình chọn trên Goodreads năm 2015, và thắng giải Bạn đọc bình chọn ở hạng mục sách hay cùng năm. Cô cũng đoạt giải Sách hay nhất của năm trên trang Amazon, iTunes, Buzzfeed, thời báo Wall Street Journal, Paste, và The Week. Sơn ca vẫn hót hiện đang hoàn tất khâu sản xuất tại hãng phim Tri Star, với sự chỉ đạo của đạo diễn giành được nhiều giải thưởng Michelle MacLaren. Home Front đã được hãng phim 1492 Film (nhà sản xuất của bộ phim đề cử Oscar The Help) lựa chọn để dựng thành phim, với Chris Colombus viết kịch bản, sản xuất, và đạo diễn. Cuốn Between Sisters từng được chương trình The Early Show của kênh CBS chọn là một trong những cuốn sách hay nhất trong mùa hè. Những điều chúng ta làm vì yêu là một câu chuyện đầy sâu lắng, trọn vẹn để tôn vinh sự kỳ diệu của tình mẫu tử, những niềm vui sướng khi được trở về nhà, và nhận được kết quả xứng đáng của tình yêu. Tác giả ăn khách nhất của Thời báo New York Times “đã chạm vào nơi sâu lắng nhất, đa cảm nhất trong từng góc nhỏ của trái tim chúng tôi.” (tác giả Tami Hoag).  “Hannah nắm bắt được niềm vui và nỗi đau trong một gia đình khi cuốn hút người đọc vào cuộc đời các nhân vật của cô và khiến họ cảm thấy như những người bạn thân quen, một lần nữa chứng tỏ cô là ngôi sao trong thể loại văn học hư cấu về người phụ nữ.” (Booklist) “Hannah rất giỏi đi sâu vào tâm lý của các nhân vật chính và khắc họa những sắc thái của cảm xúc.” (The Washington Post Book World) “Vô cùng thú vị… Hannah có đôi tai nhậy cảm với lời thoại và khả năng thiên phú đưa người đọc xâm nhập vào trong đầu nhân vật.” (The Seattle Times) “Cuốn sách tuyệt vời này là một ví dụ kinh điển cho những câu chuyện vô cùng xúc động và kích thích tư duy, sở trường của Hannah. Sự ấm áp và đa dạng của các nhân vật đã chạm tới được những cảm xúc sâu kín nhất.” (Romantic Times) *** Những ánh đèn sẽ tắt trên toàn cõi châu Âu; Cả đời chúng ta sẽ không thấy chúng sáng trở lại nữa. SIR EDWARD GREY, VỀ THẾ CHIẾN I   Tháng Tám năm 1939 Pháp Vianne Mauriac rời khỏi căn bếp lạnh lẽo với những bức tường trát vữa giả đá và bước ra sân trước. Trong buổi sáng hè đẹp nắng này ở thung lũng sông Loire, mọi thứ thật rực rỡ. Những tấm khăn trải giường màu trắng bay lật phật trong gió, đám hoa hồng xô nhau hé cười dọc theo tường rào bằng đá ngăn giữa ngôi nhà của chị với con đường. Hai chú ong cần mẫn lượn quanh những bông hoa. Vianne nghe thấy tiếng một đoàn tàu rền rĩ xa xăm, sau đó là tiếng cười đáng yêu của một bé gái. Sophie. Vianne mỉm cười. Chắc đứa con gái tám tuổi của chị đang chạy quanh nhà, khiến bố con bé phải làm đủ thứ để vừa lòng nó trong lúc chuẩn bị cho chuyến dã ngoại ngày thứ Bảy của cả nhà. - Con gái em đúng là một bạo chúa. - Antoine lên tiếng khi xuất hiện trên ngưỡng cửa. Anh đi về phía vợ, mái tóc bóng mượt loang loáng dưới ánh nắng. Anh vừa tút tát lại đồ nội thất sáng nay - chà giấy ráp một cái ghế đã nhẵn bóng - nên trên mặt và vai anh có một lớp bụi gỗ mỏng. Anh cao lớn, vai rộng, khuôn mặt chữ điền, và có một lớp râu mỏng đen nhánh luôn đòi hỏi phải nỗ lực để ngăn nó trở thành một hàm râu rậm rì. Antoine vòng một cánh tay quanh người Vianne và kéo vợ sát vào người anh. - Anh yêu em, V. - Em cũng yêu anh. Trên thế giới này không còn điều gì chân thật hơn thế. Vianne yêu mọi thứ nơi người đàn ông này: nụ cười của anh, cách anh lầm bầm trong khi ngủ, cười ngượng nghịu sau khi hắt hơi, và hát ông ổng trong lúc tắm. Chị đã phải lòng anh từ mười lăm năm trước, trên sân trường, trước cả khi hiểu được tình yêu là gì. Anh là tất cả những điều đầu tiên đối với chị - nụ hôn đầu, mối tình đầu, người yêu đầu. Trước khi gặp Antoine, Vianne chỉ là một con bé gầy như que củi, vụng về, hay lo lắng và nói lắp bắp mỗi khi sợ hãi, mà sợ hãi là chuyện khá thường xuyên. Một đứa con gái mồ côi mẹ. - Giờ con sẽ là người lớn trong nhà, - ba đã nói với Vianne như thế khi họ đến ngôi nhà này lần đầu tiên. Lúc đó Vianne mới mười bốn tuổi, mắt đỏ hoe và đau buồn không chịu nổi. Chỉ trong một khoảnh khắc, ngôi nhà này đã từ một chỗ nghỉ mát của gia đình trở thành một dạng nhà tù. Mẹ mất chưa được hai tuần, ba của Vianne đã từ bỏ vai trò người cha. Khi họ đến đây, ông không còn nắm tay hay đặt tay lên vai con gái, hay thậm chí là đưa cho nó một cái khăn mùi xoa để thấm nước mắt. - Nhưng con... con còn nhỏ mà, - Vianne đã nói như thế. - Con không còn nhỏ nữa. Lúc đó Vianne đã nhìn xuống đứa em gái, Isabelle, một đứa bé bốn tuổi chỉ biết mút ngón tay và chẳng hiểu được chuyện gì đang diễn ra. Isabelle cứ hỏi đi hỏi lại khi nào thì mẹ về. Khi cửa nhà bật mở, một phụ nữ có cái mũi như vòi nước và hai con mắt nhỏ xíu, đen thui như quả nho khô xuất hiện. - Bọn trẻ đây à? - Người phụ nữ hỏi. Cha Vianne gật đầu. - Chúng sẽ không gây rắc rối cho ông nữa. Chuyện đó diễn ra rất nhanh. Vianne không thực sự hiểu hết. Người cha rũ bỏ hai đứa con gái như người ta thay quần áo bẩn và để chúng lại với một người xa lạ. Hai đứa bé chênh tuổi nhau quá nhiều, đến nỗi dường như chúng không phải chị em ruột. Vianne muốn dỗ Isabelle, nhưng bản thân còn đang đau buồn tới mức chẳng thể nghĩ đến ai khác, đặc biệt là một đứa bé cứng đầu, nóng nảy và ồn ào như em gái mình. Còn nhớ những ngày đầu tiên ở đây, Isabelle cứ khóc ré lên và bị bà kia đánh đòn. Vianne phải xin cho con bé và cứ nhắc đi nhắc lại: “Chúa ơi, Isabelle, đừng khóc nữa. Nghe lời đi em”. Nhưng dù chỉ mới bốn tuổi, Isabelle đã tỏ ra là một đứa bất trị. Vianne đã trở nên tuyệt vọng vì tất cả chuyện đó - nỗi đau mất mẹ, nỗi buồn bị cha bỏ rơi, sự thay đổi gia cảnh đột ngột, và việc đòi mẹ đến ngán ngẩm của Isabelle. Chính Antoine là người đã cứu Vianne. Mùa hè đầu tiên sau cái chết của mẹ, hai đứa đã không thể tách rời nhau được. Với Antoine, Vianne đã tìm được một lối thoát. Năm mười sáu tuổi Vianne đã mang thai, và đến năm mười bảy thì kết hôn, trở thành bà chủ của Le Jardin. Hai tháng sau, Vianne sẩy thai và hoang mang, bối rối một thời gian. Không có cách nào khác hơn để diễn tả điều đó. Vianne thu mình lại với nỗi đau buồn và để nó vây kín mình, không thể quan tâm đến bất kỳ ai, hay bất kỳ điều gì, đặc biệt là đứa em gái nhỏ ưa khóc lóc vòi vĩnh. Nhưng chuyện đó đã qua rồi. Đó không phải là ký ức mà Vianne muốn nghĩ đến trong một ngày đẹp trời như hôm nay. Chị dựa người vào chồng trong lúc đứa con gái chạy đến chỗ hai người, tuyên bố: - Con xong rồi. Mình đi thôi. - Ồ. - Antoine nhăn mặt. - Công chúa đã sẵn sàng, chúng ta phải lên đường thôi. Vianne mỉm cười quay trở vào nhà để lấy chiếc mũ treo trên cái móc cạnh cửa. Vốn có mái tóc vàng hoe ánh đỏ, làn da trắng sứ và đôi mắt xanh, chị luôn phải bảo vệ mình khỏi ánh nắng. Trong lúc chị đội chiếc mũ rơm rộng vành, lấy đôi găng tay ren và chiếc làn đựng đồ ăn, Sophie và Antoine đã ra khỏi cổng. Vianne nhập bọn với hai cha con trên con đường đất trước nhà Nó chỉ vừa đủ rộng cho một chiếc xe hơi chạy qua. Bên kia đường là những đồng cỏ mênh mông, điểm xuyết cỏ xanh, hoa anh túc đỏ, thanh cúc lam, và những cánh rừng. Trong khu vực này của thung lũng sông Loire, những cánh đồng thích hợp để trồng cỏ khô hơn là trồng nho. Chỉ cách Paris chưa đầy hai giờ xe lửa, nhưng nó giống như một thế giới khác hẳn. Khách du lịch ít khi đến đây, kể cả trong dịp hè. Thỉnh thoảng một chiếc xe hơi bình bịch chạy qua, hoặc một chiếc xe đạp, xe bò, nhưng chủ yếu chỉ có gia đình họ trên đường. Họ sống cách Carriveau khoảng một cây số rưỡi, thành phố chưa đến một ngàn dân được biết đến như một điểm dừng chân trên con đường hành hương đến với thánh Jeanne d’Arc. Thành phố không có ngành công nghiệp nào, và chỉ có rất ít việc làm - ngoại trừ những chỗ làm ở sân bay, niềm tự hào của Carriveau. Đó là sân bay duy nhất của cả vùng. Ở Carriveau, các con đường nhỏ hẹp lát đá cuội len lỏi giữa những tòa nhà xây bằng đá vôi nép vào nhau một cách vụng về. Vữa rơi ra từ những bức tường đá, dây thường xuân che giấu sự sụp đổ khó thấy bằng mắt nhưng luôn cảm nhận được. Trải qua nhiều thế kỷ, ngôi làng đã được xây dựng theo kiểu chắp vá từng phần: những con đường cong queo, những bậc thang khấp khểnh và ngõ cụt. Màu sắc làm cho các tòa nhà trông sống động hơn: bạt đỏ căng trên khung sắt đen, ban công tô điểm những cây phong lữ trồng trong chậu sành. Đâu đâu cũng thấy thứ gì đó hút mắt: một khay bánh hạnh nhân với các tông màu nhạt, những chiếc làn đan bằng cành liễu đầy phô mai, giăm bông và xúc xích khô, những thùng cà chua, cà tím và dưa chuột đầy màu sắc... Các quán cà phê đông khách trong một ngày Chủ nhật đẹp trời. Cánh đàn ông ngồi quanh những chiếc bàn sắt, uống cà phê và hút thuốc lá tự cuốn, tranh luận sôi nổi. Đó là một ngày như mọi ngày ở Carriveau. Ông LaChoa đang quét quáy phía trước tiệm bán xa lát, bà Clonet lau tủ kính bày bán mũ, một nhóm các cậu thiếu niên sánh vai nhau đang đi bát phố, chuyển tay nhau một điếu thuốc lá và đá tung những món rác rưởi trên đường. Khi đến cuối thành phố, cả nhà rẽ về phía dòng sông. Tại một bãi cỏ phẳng phiu bên bờ sông, Vianne đặt làn đồ ăn xuống và trải khăn dưới bóng một cây dẻ. Chị lấy từ trong làn ra một ổ bánh mì que nóng giòn, một miếng phô mai béo ngậy, hai quả táo, vài lát giăm bông Bayonne, và một chai Bollinger’36. Chị rót cho chồng một ly champagne rồi ngồi xuống bên cạnh anh trong khi Sophie chạy ra bờ sông. Ngày hôm ấy trôi qua trong bầu không khí khoan khoái ấm áp của mùa hè. Họ trò chuyện, cười đùa và ăn uống. Chỉ đến cuối ngày, khi Sophie đã vác cần đi câu cá và Antoine đang làm cho cô bé một vòng hoa cúc đội đầu, anh mới nói: “Hitler sẽ sớm lôi tất cả chúng ta vào cuộc chiến tranh của hắn.” Chiến tranh. Đó là tất cả những gì người ta nói tới trong những ngày ấy, nhưng Vianne không muốn nghe nhắc đến nó. Đặc biệt là trong một ngày hè đẹp trời như thế. Chị khum tay che mắt quan sát con gái. Bên kia dòng nước, thung lũng sông Loire được canh tác cẩn thận và tỉ mỉ. Không có hàng rào, ranh giới, chỉ có những cánh đồng xanh mướt trải dài nhiều dặm, các mảng rừng và đây đó những ngôi nhà hoặc kho chứa xây bằng đá. Nhiều bông hoa nhỏ xíu màu trắng bay lơ lửng trong không khí, tựa như những túm bông nhỏ. Vianne đứng dậy và vỗ tay. - Sophie, đến giờ về rồi con. - Em không thể phớt lờ chuyện này được đâu, Vianne. - Em có cần phải bận lòng không? Mà tại sao chứ? Mẹ con em có anh bảo vệ đây rồi. Nói đoạn Vianne bật cười, có lẽ hơi to quá mức. Chị thu dọn đồ dã ngoại rồi dẫn cả nhà quay về con đường đất. Chưa đầy ba mươi phút sau, họ đã ở trước cánh cổng gỗ vững chãi của Le Jardin, trang viên của gia tộc chị từ ba trăm năm qua. Ngôi nhà hai tầng xây bằng đá đã ngả màu xám theo thời gian, có các cửa sổ cánh chớp màu xanh dương nhìn ra vườn cây. Dây thường xuân leo lên tận hai ống khói và phủ kín lớp gạch. Diện tích của khu đất chỉ còn lại bảy mẫu. Hai trăm mẫu đã bị bán đi trong hai thế kỷ, khi tình hình tài chính của gia đình suy sụp dần. Bảy mẫu là quá đủ đối với Vianne. Chị không nghĩ mình cần nhiều hơn thế. Vianne đóng cửa lại sau khi mọi người đã vào nhà. Trong bếp, xoong chảo bằng đồng và gang được treo phía trên bếp lò. Những bó oải hương, hương thảo và cỏ xạ hương được treo trên xà nhà. Ngoài ra còn một cái chậu bằng đồng đã gỉ xanh qua năm tháng, đủ to để tắm cho một con chó nhỏ. Theo thời gian, lớp thạch cao trên tường đã bong tróc nhiều chỗ. Phòng khách là một sự pha trộn lung tung các món đồ và vải trang trí: ghế trường kỷ bọc dạ, thảm Aubusson, đồ gốm cổ Trung Hoa, rèm hoa và tranh vải. Một vài bức tranh treo trên tường rất đẹp và có thể được giá, số còn lại có vẻ nghiệp dư. Bao trùm lên tất cả là nét lộn xộn chắp vá của tình trạng sa sút tiền nong và gu thẩm mỹ lỗi thời, hơi tồi tàn, nhưng dễ chịu. Vianne dừng lại trong phòng khách và nhìn qua cửa kính trông ra sân sau, nơi Antoine đang đẩy Sophie trên chiếc xích đu anh làm cho con bé. Chị nhẹ nhàng treo mũ lên cái móc cạnh cửa rồi với lấy chiếc tạp dề, mặc vào người. Trong khi hai bố con chơi ngoài trời, Vianne nấu bữa tối. Chị bọc một miếng thăn lợn trong khoanh thịt hun khói cắt dày, buộc dây nhiều vòng rồi rán vàng trong dầu nóng. Trong lúc món thịt lợn được nướng trong lò, Vianne chuẩn bị các món ăn còn lại. Đúng tám giờ tối, chị gọi cả nhà vào dùng bữa rồi mỉm cười mãn nguyện khi nghe thấy tiếng chân chạy rầm rập, tiếng trò chuyện vui vẻ và tiếng kéo ghế ken két bên bàn ăn. Sophie ngồi ở đầu bàn, con bé đội vòng hoa cúc mà bố đã làm cho ở bờ sông. Vianne đặt đĩa thức ăn lên bàn. Một mùi thơm phức bốc lên - thịt lợn nướng và thịt xông khói rán giòn nấu táo, bên trên phủ một lớp nước xốt rượu vang béo ngậy, bên dưới là một lớp khoai tây nướng. Cạnh đó là một bát đậu Hà Lan tươi rưới bơ và rắc lá ngải giấm nhà trồng. Và để dùng kèm thì không thể thiếu bánh mì mà Vianne đã nướng sáng hôm qua. Như thường lệ, Sophie huyên thuyên suốt trong bữa ăn. Về khoản này thì con bé giống y hệt dì Isabelle của nó, không thể giữ mồm giữ miệng được. Cuối cùng, lúc họ ăn đến món tráng miệng - île flottante, đảo trứng nổi trên một lớp kem Anh -, sự im lặng hài lòng bao trùm quanh bàn ăn. - Thôi. - Cuối cùng Vianne đẩy món tráng miệng mới ăn hết một nửa của mình sang một bên và tuyên bố. - Đến lúc rửa bát rồi. - Mẹ ơi... - Sophie mè nheo. - Không được làm nũng. - Antoine nói. - Con lớn rồi. Vianne và Sophie đi vào trong bếp như mọi buổi tối. Hai người đứng vào vị trí - Vianne cạnh cái chậu đồng, Sophie cạnh cái bàn đá - và bắt đầu rửa rồi lau khô bát đĩa. Vianne có thể ngửi thấy thứ mùi ngòn ngọt và hơi gắt của điếu thuốc mà Antoine hút sau bữa tối phảng phất trong nhà. - Hôm nay bố chẳng thèm cười với mấy câu chuyện con kể. - Sophie nói trong lúc Vianne xếp đĩa lên chiếc kệ gỗ treo tường. - Bố bị làm sao ấy. - Không cười á? Ờ, chuyện đó cũng đáng báo động đấy. - Bố đang lo lắng vì chiến tranh. Chiến tranh. Lại nữa rồi. Vianne xua con gái ra khỏi bếp. Hai mẹ con lên gác rồi vào phòng của Sophie. Chị ngồi trên chiếc giường đôi, lắng nghe con gái huyên thuyên trong khi thay đồ ngủ; đánh răng và lên giường. Chị cúi xuống hôn con bé. - Con sợ lắm. - Sophie nói. - Chiến tranh sắp xảy ra ạ? - Đừng sợ. - Vianne nói. - Bố sẽ bảo vệ mẹ con mình. Nhưng ngay khi nói câu vừa rồi, chị chợt nhớ ngày trước mẹ cũng từng bảo chị đừng sợ. Đó là khi cha Vianne ra chiến trường. Sophie có vẻ chưa yên tâm. - Nhưng mà... - Không nhưng nhị gì cả. Con không việc gì phải lo lắng. Giờ thì ngủ đi. Vianne hôn Sophie lần nữa và để môi mình nấn ná lâu hơn trên má con bé. Chị xuống cầu thang rồi bước ra sân sau. Trời đêm khá oi bức, không khí đượm mùi hoa nhài. Chị tìm thấy Antoine đang ngồi ở chiếc ghế uống cà phê bằng sắt đặt trên bãi cỏ, chân choãi ra, người ngả sang một bên. Chị đến bên cạnh và đặt một tay lên vai chồng. Antoine nhả khói, rồi rít một hơi thuốc dài. Sau đó anh ngước nhìn vợ. Dưới ánh trăng, khuôn mặt anh tái nhợt và u ám, gần như không thể nhận ra. Anh thò tay vào trong túi áo và lôi ra một tờ giấy. - Anh bị động viên rồi, Vianne. Cùng với hầu hết đàn ông tuổi từ mười tám đến ba lăm. - Động viên? Nhưng... chúng ta chưa có chiến tranh mà? Em không... - Thứ Ba tới anh sẽ phải lên đường. - Nhưng... nhưng... anh chỉ là một bưu tá. Anh nhìn sâu vào đôi mắt chị, khiến chị đột nhiên nghẹn ngào. - Giờ anh đã là một người lính. Hình như thế. Mời các bạn đón đọc Sơn Ca Vẫn Hót của tác giả Kristin Hannah.
Con Chó Mùa Xuân
Patrick Modiano là Nhà văn Pháp với hơn 30 tác phẩm bao gồm tiểu thuyết, kịch bản phim,... các tác phẩm của ông đã được dịch 36 thứ tiếng trên thế giới, đạt nhiều giải thưởng danh tiếng, phải kể đến giải Nobel Văn học năm 2014. "Lối viết văn của Modiano rất dễ đọc. Các tác phẩm của ông trông có vẻ đơn giản bởi vì nó tinh tế, thẳng thắn, đơn giản và rõ ràng. Bạn mở sách đọc một trang, và sẽ nhận ra ngay là sách của ông ta, rất thẳng thắn, câu văn ngắn gọn, không cầu kỳ - nhưng nó rất là tinh vi trong cách đơn giản của nó."_ Bí thư thường trực của học viện Nobel Peter Englund Con chó mùa xuân là một trong bộ ba tiểu thuyết được phanbook phát hành vào năm nay. Vẫn với lối viết đơn giản mà tinh tế, Patick Modiano đã dần người đọc vào một hành trình lạ lùng khi hai con đường ngược nhau, cắt nhau nơi ký ức. Như một tất định của đời sống, có tồn tại rồi sẽ có lãng quên, cuối cùng thì không gì có thể níu kéo được hiện hữu thuộc về quá khứ, và tất cả được chứa đựng trong lặng im vĩnh viễn. Để từ đó người đọc có thể thấy được văn chương của Patick Modiano là văn chương của ký ức, bất định tương lai. *** Kho đựng nỗi đau (tựa gốc: Remise de peine, viết năm 1988), Hoa của phế tích (tựa gốc: Fleurs de ruine, 1991), Con chó mùa xuân (tựa gốc: Chien de printemps, 1993) được nhà văn Patrick Modiano (giải Nobel Văn học, 2014) hoàn thành trong ba mốc thời gian khác nhau, nhưng mang đầy đủ những nét đặc thù của không khí, phong cách văn chương ông. Kho đựng nỗi đau lần đầu tiên bức chân dung thời thơ ấu của chú bé Patrick cùng em trai sống trong căn hộ của những diễn viên xiếc ở vùng ngoại vi Paris. Hoa của phế tích là cuộc lần theo manh mối về một vụ tự sát với lý do bí hiểm của đôi vợ chồng kỹ sư trẻ tuổi vào một ngày tháng 3 năm 1933. Còn Con chó mùa xuân là cuộc dò tìm của một người viết tiểu thuyết trẻ tuổi với nỗ lực phục dựng bản tiểu sử của Jasen - một nhiếp ảnh gia sống và ghi chép về Paris nhưng căn cước cá nhân lại nhiều điểm mù bởi dư chấn của thời Đức tạm chiếm… Ba cuốn tiểu thuyết này là dẫn chứng xuất sắc, thuyết phục cho điều mà Patrick Modiano viết trong diễn từ nhận giải Nobel Văn học vào năm 2014: “Người ta có thể lạc lối hoặc biến mất trong một đô thị. Người ta thậm chí có thể thay đổi căn cước và sống một đời khác. Người ta có thể lao mình vào một cuộc điều tra rất dài lâu để tìm lại những dấu vết của một ai đó, và lúc khởi đầu chỉ có một hoặc hai địa chỉ trong một khu phố đã mất biệt. Chỉ dấu ngắn ngủi đôi khi hiện lên trên những phiếu tra cứu luôn luôn tìm được một âm hưởng trong tôi: Nơi cư trú cuối cùng được biết.” Trong lần ấn hành ba tiểu thuyết này, Phanbook cũng phát hành hộp giấy đựng sách Patrick Modiano với thiết kế đẹp, trang nhã dành cho độc giả sưu tầm đủ ba tác phẩm. *** VỀ NHÀ VĂN PATRICK MODIANO Patrick Modiano là nhà văn người Pháp, sinh năm 1945. Ông đạt giải Nobel văn học năm 2014. Nhiều tác phẩm của Modiano đã được in tại Việt Nam. Ba tác phẩm của Patrick Modiano do Phanbook ấn hành: Kho đựng nỗi đau, Hoa của phế tích, Con chó mùa xuân, đều do Hoàng Lam Vân dịch. *** Tôi quen với Francis Jansen cái năm tôi mười chín tuổi, vào mùa xuân 1964, và ngày hôm nay tôi muốn kể một ít điều mà tôi biết về ông. Lúc đó là sáng sớm, tại một quán cà phê trên quảng trường Denfert-Rochereau. Tôi đang ở đó với một cô bạn gái cùng tuổi, và Jansen ngồi bàn đối diện với bàn chúng tôi. Ông vừa mỉm cười vừa quan sát chúng tôi. Rồi ông rút từ cái túi đặt trên băng ghế bọc moleskine, bên cạnh ông, một cái máy ảnh Rolleiflex. Tôi gần như không nhận ra là ông đã chĩa ống kính về phía chúng tôi, vì các động tác của ông vừa mau lẹ lại vừa rất thong dong. Như vậy, ông dùng một chiếc Rolleiflex, nhưng tôi sẽ không thể nói rõ các loại giấy cùng phương pháp in tráng mà Jansen sử dụng để có được thứ ánh sáng vốn dĩ tắm đẫm mọi bức ảnh ông chụp. Buổi sáng cái ngày chúng tôi gặp nhau, tôi còn nhớ mình đã hỏi ông, vì lịch sự, theo ông đâu là loại máy ảnh tốt nhất, ông đã nhún vai và bảo với tôi rằng xét cho tới cùng ông thích nhất mấy cái máy ảnh bằng nhựa màu đen mà người ta mua được ở các cửa hàng đồ chơi, chúng phụt nước ra khi ta ấn nút. Ông mời chúng tôi một tách cà phê và đề nghị chúng tôi tiếp tục làm mẫu cho ông chụp nhưng lần này là ngoài phố. Một tờ tạp chí Mỹ đã giao cho ông việc minh họa một phóng sự về tuổi trẻ tại Paris, và thế là ông đã chọn chúng tôi: Vậy thì đơn giản hơn, hẳn lại mau chóng hơn và kể cả nếu bên Mỹ họ không hài lòng thì cũng chẳng có gì quan trọng. Ông muốn trút bỏ cho xong cái công việc thuần tính cách kiếm ăn đó. Ra khỏi quán cà phê, chúng tôi bước đi trong nắng, và tôi nghe thấy ông nói, với chút âm sắc nước ngoài: - Mùa xuân chó chết[1]. Một suy tư mà ông sẽ còn hay lặp lại, cái mùa năm ấy. Ông bảo chúng tôi ngồi xuống một ghế băng, sau đó ông cho chúng tôi đứng trước một bức tường lổ đổ bóng hàng cây, trên đại lộ Denfert-Rochereau. Tôi đã giữ một trong số những bức ảnh ấy. Chúng tôi, cô bạn và tôi, ngồi trên ghế băng. Tôi có cảm giác đó là những người khác chứ không phải chúng tôi, do chỗ thời gian đã trôi qua hoặc do những gì Jansen nhìn thấy trong ống kính của ông, mà vào thời ấy chúng tôi sẽ chỉ có thể nhìn được nếu đứng trước một tấm gương: Hai đứa thiếu niên vô danh và lạc lối tại Paris. * * * Chúng tôi đi theo ông về xưởng của ông ngay gần đó, trên phố Froidevaux. Tôi cảm thấy ông e sợ nếu lại phải ở một mình. Xưởng nằm dưới tầng trệt một tòa nhà, có thể đi vào đó qua một cánh cửa mở thẳng ra phố. Một căn phòng rộng tường trắng ở cuối có cầu thang nhỏ dẫn lên gác lửng. Một cái giường chiếm toàn bộ không gian của tầng lửng ấy. Căn phòng chỉ có một trường kỷ màu ghi cùng hai phô tơi đồng màu. Bên cạnh lò sưởi gạch là ba cái va li da màu hạt dẻ chồng đống lên nhau. Các bức tường trống trơn. Chỉ có hai bức ảnh. Bức lớn hơn, chụp một phụ nữ, một người tên là Colette Laurent như sau đó tôi sẽ biết. Trên bức còn lại, hai người đàn ông - một là Jansen, hồi còn trẻ - ngồi cạnh nhau, trong một cái bồn tắm vỡ hoác, giữa đống đổ nát. Mặc cho nỗi rụt rè, tôi đã không sao tự ngăn mình hỏi Jansen giải thích, ông đáp đó là ông, cùng Robert Capa bạn ông, ở Berlin, hồi tháng Tám năm 1945. Trước cuộc gặp ấy, cái tên của Jansen vẫn còn xa lạ với tôi. Nhưng tôi biết Robert Capa là ai vì đã xem những bức ảnh của ông chụp chiến tranh Tây Ban Nha và đọc một bài báo về cái chết của ông bên Đông Dương. Nhiều năm đã trôi qua. Thay vì làm rối mù hình ảnh Capa và Jansen, chúng lại có hiệu ứng ngược hẳn lại: Hình ảnh ấy rõ nét trong ký ức tôi hơn nhiều so với nó từng, vào mùa xuân đó. Trên bức ảnh, Jansen hiện ra như một dạng thế thân của Capa, hay đúng hơn là một đứa em trai mà Capa thấu nhận để bảo trợ. Capa, với mái tóc rất nâu, ánh mắt màu đen, điếu thuốc lá ngậm trễ nơi khóe miệng, tỏa ra lòng quả cảm và niềm vui sống bao nhiêu, thì Jansen, tóc vàng, gầy gò, cặp mắt nhạt màu, nụ cười rụt rè và sầu muộn, có vẻ không được thoải mái bấy nhiêu. Và cánh tay Capa, đặt lên vai Jansen, không chỉ tỏ ý thân tình. Hẳn người ta có thể nói ông đang đỡ lấy bạn. Chúng tôi ngồi ở ghế phô tơi và Jansen mời chúng tôi uống whisky, ông đi vào góc phòng và mở cánh cửa dẫn sang căn bếp cũ mà ông đã cải tạo thành phòng tôi. Rồi ông quay trở lại: - Tôi rất tiếc, hết whisky mất rồi. Người ông hơi đờ ra, hai chân bắt chéo, dịch sát ra tận đầu cái trường kỷ, như thể ông chỉ là người ghé thăm nơi này. Chúng tôi, cô bạn tôi và tôi, không phá vỡ sự im lặng. Căn phòng rất sáng với những bức tường trắng của nó. Hai cái phô tơi cùng trường kỷ đặt quá xa nhau, thành thử ta có cảm giác về sự trống rỗng. Hẳn người ta có thể nghĩ rằng Jansen đã không còn sống ở nơi này nữa. Ba cái va li, mà lớp da bên ngoài phản chiếu ánh nắng, gợi về một cuộc khởi hành sắp sửa. - Nếu các bạn thích, ông nói, tôi sẽ cho các bạn xem ảnh chừng nào rửa xong. Tôi đã viết số điện thoại của ông lên một bao thuốc lá. Vả lại, tên ông có trong danh bạ Bottin, ông nói thêm với chúng tôi. Jansen, số 9 phố Froidevaux, Danton 75-21. Mời các bạn đón đọc Con Chó Mùa Xuân của tác giả Patrick Modiano & Hoàng Lam Vân (dịch).