Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Từ Beirut Tới Jerusalem - Hành Trình “Đi Để Hiểu” Trung Đông Của Một Người Mỹ (Thomas L. Friedman)

Nhắc đến tác giả Thomas Friedman, hẳn độc giả Việt Nam sẽ nghĩ ngay đến các tác phẩm nổi tiếng của ông như: Thế giới phẳng; Chiếc Lexus và Cây Oliu; Nóng, phẳng, chật… Thế nhưng ít ai biết rằng "Từ Beirut đến Jerusalem" lại chính là cuốn sách đầu tiên làm nên tên tuổi Thomas L. Friedman cũng như mang đến cho ông giải Pulitzer.

Thomas Friedman viết tác phẩm đầu tay “Từ Beirut đến Jerusalem” trong những năm 80 của thế kỷ trước và đã đoạt giải Nation Book Award cho hạng mục phi hư cấu, khi ông còn là phóng viên thường trú khu vực Trung Đông của tờ New York Times. Từ Beirut đến Jerusalem là một cuốn sách phi-hư cấu bán chạy bất ngờ ở Mỹ. Cho đến nay nó vẫn tiếp tục được tìm đọc, đặc biệt là được các độc giả là anti-fan của Thomas Friedman tìm đọc. Trái với các cuốn sách kiểu Thế giới phẳng, Chiếc Lexus và cây Olive bị rất nhiều độc giả khó tính coi là ba hoa khoác lác, rỗng tuếch và thông thái rởm, cuốn sách đầu tay này của Friedman được đánh giá cao: viết rất tốt, đọc hấp dẫn, đặc biệt là câu chuyện không bị cài cắm như các cuốn sách khác của tác giả này, thay vào đó là các câu chuyện thực, đắng lòng và chua xót của Trung Đông, đặc biệt là mối quan hệ Israel và Palestine. Thomas Friedman, lúc đó còn trẻ và chưa cố tỏ ra thông thái, bộc bạch ngay trong những chương đầu của cuốn sách: “Cuốn sách chính là con đường từ Beirut tới Jerusalem mà tôi đã rong ruổi, bằng cách này hay cách khác, suốt thời trưởng thành của mình. Đó là một con đường khác thường, hài hước, thi thoảng có bạo lực và thường là không thể lường trước được”.

Đến muộn nhưng rất may mắn, cuốn sách này đến Việt Nam muộn hai mươi năm, nhưng lại đúng lúc độc giả Việt Nam bắt đầu quan tâm nhiều đến Trung Đông, tới Israel, Liban, Syria. Họ không chỉ quan tâm đến sự phát triển thần kỳ của Israel, hay các xung đột chính trị ngoại giao ở Liban, Syria, hay quyền lực của các nhà nước Arab giàu có, hay lịch sử lâu đời và đẫm màu sắc tôn giáo của vùng đất này, hay vai trò của Mỹ, Châu Âu với Trung Đông… Các độc giả Việt Nam quan tâm đến tất cả. Và cuốn sách rất dày này của Thomas Friedman đề cập đến hầu như tất cả.***

Mới đây, khi đáp chuyến xe bus tới phố King George ở Jerusalem, tôi không chú ý lắm tới người phụ nữ trẻ ở phía sau xe bus đang ngồi cạnh một người Do Thái Haredi [cực kỳ chính thống] vì anh ta đội chiếc mũ đen, mặc áo khoác đen, với bộ râu dài, còn cô ta thì đi đôi xăng đan, mặc váy không tay, hợp thành một phần trong khung cảnh điển hình với những người lính đang trong kỳ nghỉ phép, một bà già đội chiếc mũ kiểu quý bà, những chiếc ba lô năm năm có lẻ, và một giáo sĩ nhìn như người Mỹ đang đến muộn một buổi lễ. Chỉ sau khi người phụ nữ trẻ nhẹ nhàng bảo người Haredi làm ơn đóng cửa sổ lại thì tôi mới rời mắt khỏi tờ báo và thấy anh ta đáp lại khá thẳng thừng rằng “Cô làm ơn may tay áo dài ra được không?”

“Thưa ông,” người phụ nữ đáp lại, giọng cô cao vút lên cùng với sự phẫn nộ, “cửa sổ mở ra đang làm phiền tôi!” Tìm mua: Từ Beirut Tới Jerusalem - Hành Trình “Đi Để Hiểu” Trung Đông Của Một Người Mỹ TiKi Lazada Shopee

Người Haredi dường như lúng túng.

“Thưa cô, những cánh tay để trần đang làm phiền tôi,” anh ta đáp lại.

Gương mặt người phụ nữ giờ đây trở nên dữ tợn và kiên quyết khi cô ta chậm rãi nhấn từng âm tiết trong miệng và bắn nó tới tai của tất cả mọi người trên xe bus: “Tay của tôi hay tay của ông nhỉ?”

Rabbi Shlomo Riskin đăng trên Jerusalem Post, 20/5/1988

Quay trở lại những năm 1930 ở Quảng trường Mughrabi của Tel Aviv, nơi thường có một chiếc đồng hồ to không có kính chắn trên bề mặt. Huyền thoại kể rằng một hôm Thị trưởng Meir Dizengoff yêu cầu tháo chiếc đồng hồ đó ra. Khi các cư dân trong vùng hỏi ông là tại sao, Thị trưởng Dizengoff trả lời là vì bất cứ người Do Thái nào đi ngang qua chiếc đồng hồ có thể vặn lại nó theo đồng hồ đeo tay của người đó.

Chẳng lâu sau khi đến Jerusalem thì tôi được nghe câu chuyện đó, nhưng tôi hiểu được về tính xác thực của nó như thế nào thì chỉ sau khi sống ở đất nước này một thời gian. Tôi phát hiện ra với tất cả lý do mà tôi đã liệt kê ra trong chương trước, người Israel không thể quyết định được điều gì dân tộc họ nên chịu đựng không chỉ về mặt chính trị mà còn về mặt tinh thần nữa.

Trên thực tế, điều đáng kinh ngạc nhất về nhà nước duy nhất của người Do Thái trên thế giới là nó được xây dựng, và cùng nhau nắm giữ, bất chấp thực tế là có những bất đồng cơ bản và sâu sắc giữa các công dân của mình về một người Do Thái chính xác là gì và một nhà nước Do Thái nên đặc trưng cho kiểu sống nào của người Do Thái. Tôi thường gặp nhiều người Do Thái đến từ Mỹ và Tây Âu, họ nói với tôi rằng họ đến Israel để “tìm kiếm” chính bản thân họ như một người Do Thái. Tôi luôn bảo với họ rằng Israel chắc hẳn là một nơi khó hiểu nhất trên thế giới để làm điều đó. Ở nơi đó bạn sẽ đánh mất chính bản thân mình như một người Do Thái, bởi vì nếu bạn không biết mình là ai trước khi đến, bạn có thể lạc lối hoàn toàn trong mê cung của những lựa chọn được trình ra ngay sau khi bạn đặt chân lên vùng đất này.

Giống như phần lớn những người Do Thái lai Mỹ, tôi đã lớn lên trong đạo Do Thái mà không hề có vùng đất nào - giống như những người Do Thái sống trong đạo Do Thái đã rèn tập khi bị người La Mã trục xuất khỏi Palestine hai nghìn năm trước. Đó là một đạo Do Thái quanh quẩn nơi giáo đường, lòng vòng theo các kỳ nghỉ, và quanh những cuộc gặp mặt cộng đồng. Nói một cách hóm hỉnh thì người Do Thái ở trong cộng đồng Do Thái phân biệt với người Do Thái khác chỉ qua cách họ liên hệ tới lễ nghi, đó là, cho dù họ rèn tập đạo Do Thái theo lối Chính thống, Thủ cựu, hay là Đổi mới - Chính thống vẫn được tuân theo nhiều nhất và Đổi mới thì ít nhất.

Không như vậy ở Israel. Người Do Thái ở Israel không phân biệt bằng các nhánh của giáo đường cũng như cách họ liên hệ tới vùng đất của Israel và tới nhà nước. Sự kết nối trở lại của dân tộc Do Thái với vùng đất và cao ốc của họ trong một nhà nước hiện đại ở đây mở ra một sự thiết lập mới mẻ hoàn toàn của các lựa chọn để xác định bản thân một người là người Do Thái - vài người trong số đó hoàn toàn không được biết đến trong cộng đồng Do Thái.

Vô số những lựa chọn này có thể phân ra thành bốn luồng tư tưởng chính. Luồng đầu tiên và rộng lớn nhất được hình thành từ những người Israel thế tục và không theo lệ cổ, như Shimon Peres và Yitzhak Shamir - là những người thực sự xây dựng lên nhà nước Israel mới. Những người theo Chủ nghĩa Phục quốc thế tục tới Israel phần nào vì một cuộc nổi dậy chống lại ông cha mình và đạo Do Thái định hướng giáo đường Do Thái chính thống ở khu định cư được thực hiện ở Đông Âu. Với những người theo Chủ nghĩa Phục quốc thế tục, quay trở lại vùng đất Israel, xây dựng một xã hội và quân đội hiện đại, và thực hiện các kỳ nghỉ của người Do Thái như những kỳ nghỉ mang tính dân tộc trở thành một thay thế cho buổi lễ kỷ niệm và niềm tin tôn giáo. Họ nói rằng, ở Israel, bầu trời là của người Do Thái, bóng rổ của người Do Thái, nhà nước của người Do Thái, và sân bay cũng của người Do Thái nốt, vậy thì ai còn cần phải tới giáo đường nữa? Với họ, đến vùng đất Israel và trở thành “bình thường” đồng nghĩa với từ bỏ các lễ nghi tôn giáo như đặc điểm nhận dạng cho người Do Thái của họ. Khoa học, công nghệ, và biến cả sa mạc xanh tươi thành Torah mới của họ.

Những người Do Thái thế tục này chiếm khoảng 50% dân số Do Thái của Israel, gửi con cái tới các trường học thế tục do nhà nước nắm giữ, được thuyết phục rằng họ là làn sóng của tương lai và rằng người Do Thái trong truyền thống hạn hẹp là một hồi chết chóc trong lịch sử người Do Thái. Họ sẵn sàng cho phép bất cứ người Do Thái nào trên thế giới muốn sống trong nhà nước mới của họ trở thành một công dân ngay lập tức, vì họ chắc chắn rằng giữa thế hệ có mối liên hệ với vùng đất mà những người Do Thái chính thống cực đoan này đang sống trong những khu ổ chuột tự xây ở châu Âu hay ở Jerusalem sẽ vứt bỏ áo khoác và mũ đen của họ và gia nhập vào cuộc cách mạng của Chủ nghĩa Phục quốc. Hơn tất cả, những người theo Chủ nghĩa Phục quốc tự hỏi mình, tại sao người Do Thái muốn tái tạo một khu Do Thái Ba Lan thời trung cổ trong một nhà nước Do Thái hiện đại. Không chỉ một người Do Thái thế tục nói với tôi rằng khi họ còn là một đứa trẻ, bố họ đã đưa họ tới Mea Shearim, khu vực người Do Thái chính thống cực đoan của Jerusalem, và nói với họ đại khái là: “Hãy ngắm nghía những người này chừng nào có thể. Họ là di tích của quá khứ, là loài khủng long trong nền tảng lịch sử. Giờ hãy chiêm ngắm họ đi, vì đến thế hệ khác, họ không còn nữa.”

Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Từ Beirut Tới Jerusalem - Hành Trình “Đi Để Hiểu” Trung Đông Của Một Người Mỹ PDF của tác giả Thomas L. Friedman nếu chưa có điều kiện.

Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.

Nguồn: thuviensach.vn

Đọc Sách

Ăn Mày Dĩ Vãng (Chu Lai)
'Ăn mày dĩ vãng' của Chu Lai là một tiểu thuyết chiến tranh nhưng kỳ thực nó phô bày hết mọi mặt của cuộc sống. Từ cuộc chiến tranh đẫm máu giữa hai phe: ta và kẻ thù đến tâm sinh lý con người, đến tình yêu lãng mạn trong thời kỳ dã man và khốc liệt, rồi cả những mặt trái trong thời chiến lẫn thời bình đều được lôi ra tuồn tuột trưng bày cho độc giả nhấm nháp và chiêm nghiệm suy tư.Hải Giang (Cuốn sách của tôi) Tôi - một con nhỏ 21 tuổi, sinh ra, lớn lên và đang sống trong bình, hiếm khi để mắt, hứng thú với đề tài chiến tranh và những cái thuộc về quá khứ. Nhưng không biết một sự đẩy đưa vô duyên cớ nào mà tôi đã tập trung hết sức lực của đầu óc và tim gan một cách cao độ để đọc hết quyển Ăn mày dĩ vãng của Chu Lai. Về chiến tranh. Phải, ngòi bút chu Lai đã vẽ ra, không, phải nói là đã tạc vào không gian trước mắt người đọc toàn bộ cảnh tượng hãi hùng, đầy mất mát thương đau đến độ cái buồn dai dẳng mà không biểu lộ ra bằng nước mắt, chỉ bằng tiếng kêu inh ỏi trong tim gan, trong óc. Tôi thật sững sờ, ngóng theo từng trang viết và cái tâm hồn yếu đuối, ủy mị thiếu rèn luyện của va chạm cuộc đời, của những vất vả khổ đau, của bất hạnh hay chông gai trở ngại đã bị thay đổi hoàn toàn. Tôi nhận ra quá khứ bị bỏ quên một cách phũ phàng. Đành rằng con người ta sống trên đời cần phải sống cho hiện tại thật tốt và hướng đến tương lai. Nhưng không vì vậy mà phủi sạch mọi thứ của quá khứ, của dĩ vãng kinh người khiến bao nhiêu số phận trở nên lao đao lận đận. Họ lận đận là vì ai, vì họ, không, vì tất cả, vì lẽ sống cho nhân loại, vì yên bình cho mọi người, cho tất cả chúng ta. Tiểu thuyết không vênh vang ca ngợi bằng những lời lẽ khô khốc khuôn sáo, mà chính từ những gì đã xảy ra theo một diễn biến tự nhiên sinh động, thực, rất thực đã tự cho ta thấy được giá trị của những đức hy sinh chân chính. Không hoàn toàn hoàn hảo như thiên thần, họ, những con người vì quê hương bán mạng bám lấy từng mảnh rừng, quyết giữ gìn từng tấc đất, không nề hà sống trong những chốn hiểm nguy, cốt mơ ước khát khao thực thi cho được sứ mệnh cứu nước vĩ đại, cũng đôi lúc "phàm tục". Tìm mua: Ăn Mày Dĩ Vãng TiKi Lazada Shopee Đó là khi đói quá họ phải ăn trộm hộp sữa trong bồng của đồng đội ăn, hay như cái ông Tám Tính đi vồ con gái người ta để thỏa mãn nhục dục đang lên đến mức cuồng tính, hay để cướp cò B41 làm chết người bạn đồng chí, đồng hương của mình... Họ hết sức bình thường, bình dị giản đơn, những con người chứa đựng cả hai mặt ưu và khuyết điểm. Chỉ những người trong cuộc, từng sống chung và trải qua mới kể lại một cách rành rọt chi tiết, tỉ mỉ và y như thật như thế. Nếu không thì Chu Lai quả là một ngòi bút thiện xạ, có một đôi mắt và óc nhìn khuất lấp, ít nhất là với tôi, ông ấy đã để lại một ấn tượng không phai nhòa về một thời ở một vùng khói lửa chiến chinh với muôn mặt người tốt xấu. Đọc tiểu thuyết Ăn mày dĩ vãng, người ta thấy dù trong thời chiến hay thời bình đều có những nhân vật thừa nước đục thả câu, đục nước béo cò, mà sự thật của những bộ mặt ấy thật đáng nguy hại cho xã hội loài người. Thằng Địch là đồ khốn, nó đáng phải bị bắn nổ sọ vì những trò gian manh ác ôn của nó, của thằng bán nước. Và tôi yêu mến cô Sương từ đoạn đầu tiểu thuyết cho tới lúc cô bị đạn bắn chi chít lên người, "óc phòi ra" khi từ dưới hầm chạy lên, không vì cái ống quần ác nghiệt trong giây phút nghiệt ngã vô thường này, đã chạy đến được với tình yêu đang đợi ở bên suối, sau lưng là sự truy đuổi ráo riết. Tôi sẽ yêu mến cô đến cuối cùng nếu như cô chết ngay lúc đó. Về sau sự yếu đuối và dung dưỡng của cô, và cả cái tình yêu "dần dần mà ra" với tên địch khốn kiếp thiệt đáng trách, đáng ghét, đáng bực mình làm sao. Cô Ba Sương đáng yêu nồng hậu và quyết đoán lại xử sự như thế trước một tên ác ôn quả là đáng lên án, không chịu được, tôi đọc mải miết và cảm thấy bức xúc vô cùng, lần theo từng trang sách tôi vừa hồi hộp vừa run run, tiếc nuối một Ba Sương với bờ vai chim sẻ, thật đáng yêu và đáng trân trọng... Giờ đây, cái tên Tư Lan lạ lẫm, cô ta không xứng với tình yêu của hai Hùng. Anh hai Hùng! Dù trong bất cứ hoàn cảnh nào, tình yêu vẫn đẹp và lãng mạn, dường như đó là một đặc tính, là bản chất muôn thuở của tình yê. Lối viết của Chu Lai khiến độc giả hồi hộp, tập trung, thần kinh như bị căng ra đến độ muốn đứt nhưng không đứt được, cứ lằn nhằn, khó chịu, bứt rứt, rồi đứng im, rồi hụt hẫng, chao đảo, buồn thương, tiếc nhớ. Xen lẫn một chương hiện tại với một chương quá khứ, Ăn mày dĩ vãng đúng thực là ăn mày dĩ vãng, gã ăn mày không cần tiền vàng chức tước mà chỉ cần một cái quá khứ bị đánh cắp, một cái sự thật rõ ràng, không ngại khó mà lội ngược dòng tìm người thương và những bối rối cả đời cần được tháo gỡ, cần được giải đáp. Thương lắm, cảm động lắm, tình yêu ấy đẹp lung linh và tỏa ra một thứ ánh sáng muôn vẻ... Tôi thầm lặng nhìn lại, chao, tôi đang phí hoài quá một tuổi trẻ, một tình yêu nông cạn và lầm lỗi của chính mình. Cái cách đan xen giữa quá khứ và thực tại như thế làm cuốn hút người đọc, đồng thời nó tạo bố cục hợp lý chặt chẽ giữa các tình tiết một cách tự nhiên, không gượng ép, như cái chương hai Hùng và Ba Sương yêu nhau trong căn hầm, nhờ lần đó mà hai Hùng phát hiện ra nốt rùi nhỏ phía ngực trái như "mắt đôi chim câu" của Sương, sang chương sau - chương hiện tại - đó lại là chi tiết để hai Hùng nhận ra Ba Sương một cách rõ ràng nhất... dù đau khổ và tê tái hay trong tình huống nguy nan kịch liệt, hoặc là dở khóc dở cười, giọng văn của Chu Lai vẫn hóm hỉnh, lạnh nhưng vẫn ấm. Bút pháp mạnh mẽ đến kỳ lạ, cách dùng từ lạ lẫm có sức hút người đọc độc đáo. Tôi còn nhớ mãi cái búi lãi trong bọc nước ở cái bụng mở tang hoác của Bảo khi bị B41 cướp cò từ tay Tuấn, cái họng đầy những đất cát, cỏ cây, đờm dãi và máu của một anh lính mắc ho khi đứng sát chân thằng địch, chỉ vì - cái cách tác giả giải thích cho những điều ông ấy viết ra luôn tự nhiên, tự nhiên đến đau lòng - "lôi được cậu ta ra ngoài hàng rào thì mặt mày đã tím bầm, sưng tấy, mồm miệng nhoe nhoét những dãi dớt trộn máu, trộn đất... Ở cái giây phút cuối cùng, cậu ta đã âm thầm tự nhét đất, nhét cỏ vào đầy cổ họng mình đến tắc thở để cho tiếng ho thứ hai khỏi phụt ra kéo theo cái chết của bạn bè!" Những con người hy sinh nhiều nhất là những con người sau hòa bình lập lại sẽ ẩn sâu vào cuộc sống bình dị đời thường hay ẩn náu nơi chốn nào đó thư thái tâm hồn mà nhớ chuyện ngày xưa, họ sống như một công dân bình thường... Họ không huênh hoang chiến công này, chiến tích nọ, họ luôn im lặng để mặc cho năm tháng chiến tranh, năm tháng mà họ phải chiến đấu gian khổ cực nhọc bào mòn đi tuổi trẻ và hạnh phúc của họ, để lại trên thân thể họ những vết thương đau âm ỉ. Mặc kệ luôn cả những thói đời đang từng ngày làm tổn thương họ thêm lần thứ hai, lần này là về mặt tinh thần, những sự thật méo mó, giả dối tràn ngập giữa dòng đời đang chảy dữ dội, sức người khó lội ngược, vượt qua, nếu cứ lội ngược thì không bèo nhèo thì cũng dễ chết lắm. Mà họ thì không lội ngược không được, thấy nghịch lòng trái lương tâm lắm! Ăn mày dĩ vãng có một cái kết thúc vừa có hậu vừa không có hậu. Nó hợp lý, hợp lẽ, hợp tình. Chỉ tội cái mảnh tình thủy chung của hai Hùng không ráp lại được với Ba Sương ngày gặp mặt sau 20 năm. Nhưng tâm hồn anh hai Hùng giờ đã nhẹ ra và bên anh còn những ông bạn chí cốt, thế là lẽ sống đã không tuyệt đường, vẫn đâu đó niềm hy vọng, một cuộc sống vui vẻ và hạnh phúc, mãi mãi! Cần Thơ ngày 13 tháng 04 năm 2010Dưới đây là những tác phẩm đã xuất bản của tác giả "Chu Lai":Cuộc Đời Dài LắmPhốSông XaĂn Mày Dĩ VãngĐộc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Ăn Mày Dĩ Vãng PDF của tác giả Chu Lai nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Ăn Mày Dĩ Vãng (Chu Lai)
'Ăn mày dĩ vãng' của Chu Lai là một tiểu thuyết chiến tranh nhưng kỳ thực nó phô bày hết mọi mặt của cuộc sống. Từ cuộc chiến tranh đẫm máu giữa hai phe: ta và kẻ thù đến tâm sinh lý con người, đến tình yêu lãng mạn trong thời kỳ dã man và khốc liệt, rồi cả những mặt trái trong thời chiến lẫn thời bình đều được lôi ra tuồn tuột trưng bày cho độc giả nhấm nháp và chiêm nghiệm suy tư.Hải Giang (Cuốn sách của tôi) Tôi - một con nhỏ 21 tuổi, sinh ra, lớn lên và đang sống trong bình, hiếm khi để mắt, hứng thú với đề tài chiến tranh và những cái thuộc về quá khứ. Nhưng không biết một sự đẩy đưa vô duyên cớ nào mà tôi đã tập trung hết sức lực của đầu óc và tim gan một cách cao độ để đọc hết quyển Ăn mày dĩ vãng của Chu Lai. Về chiến tranh. Phải, ngòi bút chu Lai đã vẽ ra, không, phải nói là đã tạc vào không gian trước mắt người đọc toàn bộ cảnh tượng hãi hùng, đầy mất mát thương đau đến độ cái buồn dai dẳng mà không biểu lộ ra bằng nước mắt, chỉ bằng tiếng kêu inh ỏi trong tim gan, trong óc. Tôi thật sững sờ, ngóng theo từng trang viết và cái tâm hồn yếu đuối, ủy mị thiếu rèn luyện của va chạm cuộc đời, của những vất vả khổ đau, của bất hạnh hay chông gai trở ngại đã bị thay đổi hoàn toàn. Tôi nhận ra quá khứ bị bỏ quên một cách phũ phàng. Đành rằng con người ta sống trên đời cần phải sống cho hiện tại thật tốt và hướng đến tương lai. Nhưng không vì vậy mà phủi sạch mọi thứ của quá khứ, của dĩ vãng kinh người khiến bao nhiêu số phận trở nên lao đao lận đận. Họ lận đận là vì ai, vì họ, không, vì tất cả, vì lẽ sống cho nhân loại, vì yên bình cho mọi người, cho tất cả chúng ta. Tiểu thuyết không vênh vang ca ngợi bằng những lời lẽ khô khốc khuôn sáo, mà chính từ những gì đã xảy ra theo một diễn biến tự nhiên sinh động, thực, rất thực đã tự cho ta thấy được giá trị của những đức hy sinh chân chính. Không hoàn toàn hoàn hảo như thiên thần, họ, những con người vì quê hương bán mạng bám lấy từng mảnh rừng, quyết giữ gìn từng tấc đất, không nề hà sống trong những chốn hiểm nguy, cốt mơ ước khát khao thực thi cho được sứ mệnh cứu nước vĩ đại, cũng đôi lúc "phàm tục". Tìm mua: Ăn Mày Dĩ Vãng TiKi Lazada Shopee Đó là khi đói quá họ phải ăn trộm hộp sữa trong bồng của đồng đội ăn, hay như cái ông Tám Tính đi vồ con gái người ta để thỏa mãn nhục dục đang lên đến mức cuồng tính, hay để cướp cò B41 làm chết người bạn đồng chí, đồng hương của mình... Họ hết sức bình thường, bình dị giản đơn, những con người chứa đựng cả hai mặt ưu và khuyết điểm. Chỉ những người trong cuộc, từng sống chung và trải qua mới kể lại một cách rành rọt chi tiết, tỉ mỉ và y như thật như thế. Nếu không thì Chu Lai quả là một ngòi bút thiện xạ, có một đôi mắt và óc nhìn khuất lấp, ít nhất là với tôi, ông ấy đã để lại một ấn tượng không phai nhòa về một thời ở một vùng khói lửa chiến chinh với muôn mặt người tốt xấu. Đọc tiểu thuyết Ăn mày dĩ vãng, người ta thấy dù trong thời chiến hay thời bình đều có những nhân vật thừa nước đục thả câu, đục nước béo cò, mà sự thật của những bộ mặt ấy thật đáng nguy hại cho xã hội loài người. Thằng Địch là đồ khốn, nó đáng phải bị bắn nổ sọ vì những trò gian manh ác ôn của nó, của thằng bán nước. Và tôi yêu mến cô Sương từ đoạn đầu tiểu thuyết cho tới lúc cô bị đạn bắn chi chít lên người, "óc phòi ra" khi từ dưới hầm chạy lên, không vì cái ống quần ác nghiệt trong giây phút nghiệt ngã vô thường này, đã chạy đến được với tình yêu đang đợi ở bên suối, sau lưng là sự truy đuổi ráo riết. Tôi sẽ yêu mến cô đến cuối cùng nếu như cô chết ngay lúc đó. Về sau sự yếu đuối và dung dưỡng của cô, và cả cái tình yêu "dần dần mà ra" với tên địch khốn kiếp thiệt đáng trách, đáng ghét, đáng bực mình làm sao. Cô Ba Sương đáng yêu nồng hậu và quyết đoán lại xử sự như thế trước một tên ác ôn quả là đáng lên án, không chịu được, tôi đọc mải miết và cảm thấy bức xúc vô cùng, lần theo từng trang sách tôi vừa hồi hộp vừa run run, tiếc nuối một Ba Sương với bờ vai chim sẻ, thật đáng yêu và đáng trân trọng... Giờ đây, cái tên Tư Lan lạ lẫm, cô ta không xứng với tình yêu của hai Hùng. Anh hai Hùng! Dù trong bất cứ hoàn cảnh nào, tình yêu vẫn đẹp và lãng mạn, dường như đó là một đặc tính, là bản chất muôn thuở của tình yê. Lối viết của Chu Lai khiến độc giả hồi hộp, tập trung, thần kinh như bị căng ra đến độ muốn đứt nhưng không đứt được, cứ lằn nhằn, khó chịu, bứt rứt, rồi đứng im, rồi hụt hẫng, chao đảo, buồn thương, tiếc nhớ. Xen lẫn một chương hiện tại với một chương quá khứ, Ăn mày dĩ vãng đúng thực là ăn mày dĩ vãng, gã ăn mày không cần tiền vàng chức tước mà chỉ cần một cái quá khứ bị đánh cắp, một cái sự thật rõ ràng, không ngại khó mà lội ngược dòng tìm người thương và những bối rối cả đời cần được tháo gỡ, cần được giải đáp. Thương lắm, cảm động lắm, tình yêu ấy đẹp lung linh và tỏa ra một thứ ánh sáng muôn vẻ... Tôi thầm lặng nhìn lại, chao, tôi đang phí hoài quá một tuổi trẻ, một tình yêu nông cạn và lầm lỗi của chính mình. Cái cách đan xen giữa quá khứ và thực tại như thế làm cuốn hút người đọc, đồng thời nó tạo bố cục hợp lý chặt chẽ giữa các tình tiết một cách tự nhiên, không gượng ép, như cái chương hai Hùng và Ba Sương yêu nhau trong căn hầm, nhờ lần đó mà hai Hùng phát hiện ra nốt rùi nhỏ phía ngực trái như "mắt đôi chim câu" của Sương, sang chương sau - chương hiện tại - đó lại là chi tiết để hai Hùng nhận ra Ba Sương một cách rõ ràng nhất... dù đau khổ và tê tái hay trong tình huống nguy nan kịch liệt, hoặc là dở khóc dở cười, giọng văn của Chu Lai vẫn hóm hỉnh, lạnh nhưng vẫn ấm. Bút pháp mạnh mẽ đến kỳ lạ, cách dùng từ lạ lẫm có sức hút người đọc độc đáo. Tôi còn nhớ mãi cái búi lãi trong bọc nước ở cái bụng mở tang hoác của Bảo khi bị B41 cướp cò từ tay Tuấn, cái họng đầy những đất cát, cỏ cây, đờm dãi và máu của một anh lính mắc ho khi đứng sát chân thằng địch, chỉ vì - cái cách tác giả giải thích cho những điều ông ấy viết ra luôn tự nhiên, tự nhiên đến đau lòng - "lôi được cậu ta ra ngoài hàng rào thì mặt mày đã tím bầm, sưng tấy, mồm miệng nhoe nhoét những dãi dớt trộn máu, trộn đất... Ở cái giây phút cuối cùng, cậu ta đã âm thầm tự nhét đất, nhét cỏ vào đầy cổ họng mình đến tắc thở để cho tiếng ho thứ hai khỏi phụt ra kéo theo cái chết của bạn bè!" Những con người hy sinh nhiều nhất là những con người sau hòa bình lập lại sẽ ẩn sâu vào cuộc sống bình dị đời thường hay ẩn náu nơi chốn nào đó thư thái tâm hồn mà nhớ chuyện ngày xưa, họ sống như một công dân bình thường... Họ không huênh hoang chiến công này, chiến tích nọ, họ luôn im lặng để mặc cho năm tháng chiến tranh, năm tháng mà họ phải chiến đấu gian khổ cực nhọc bào mòn đi tuổi trẻ và hạnh phúc của họ, để lại trên thân thể họ những vết thương đau âm ỉ. Mặc kệ luôn cả những thói đời đang từng ngày làm tổn thương họ thêm lần thứ hai, lần này là về mặt tinh thần, những sự thật méo mó, giả dối tràn ngập giữa dòng đời đang chảy dữ dội, sức người khó lội ngược, vượt qua, nếu cứ lội ngược thì không bèo nhèo thì cũng dễ chết lắm. Mà họ thì không lội ngược không được, thấy nghịch lòng trái lương tâm lắm! Ăn mày dĩ vãng có một cái kết thúc vừa có hậu vừa không có hậu. Nó hợp lý, hợp lẽ, hợp tình. Chỉ tội cái mảnh tình thủy chung của hai Hùng không ráp lại được với Ba Sương ngày gặp mặt sau 20 năm. Nhưng tâm hồn anh hai Hùng giờ đã nhẹ ra và bên anh còn những ông bạn chí cốt, thế là lẽ sống đã không tuyệt đường, vẫn đâu đó niềm hy vọng, một cuộc sống vui vẻ và hạnh phúc, mãi mãi! Cần Thơ ngày 13 tháng 04 năm 2010Dưới đây là những tác phẩm đã xuất bản của tác giả "Chu Lai":Cuộc Đời Dài LắmPhốSông XaĂn Mày Dĩ VãngĐộc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Ăn Mày Dĩ Vãng PDF của tác giả Chu Lai nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Ngang Trái Phủ Tây Hồ (Ngô Văn Phú)
Ngô Văn Phú sinh ngày 8 tháng 4 năm 1937, quê quán xã Nam Viêm, huyện Mê Linh, tỉnh Vĩnh Phúc. Ông là Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, Tốt nghiệp Đại học Tổng hợp Hà Nội (ngành ngữ văn), là Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam (1970). Nhà thơ Ngô Văn Phú vào đời văn khá sớm, ngay từ khi còn là học sinh Trường trung học Hùng Vương, ông đã có thơ in báo. Ông có sở trường về đề tài nông thôn và lịch sử. Ngoài sáng tác ông còn dịch sách. Sau khi tốt nghiệp đại học, ông về làm biên tập viên báo Văn học, (1961-1963); báo Văn nghệ (1963-1966); biên tập viên tạp chí Văn nghệ Quân đội. Năm 1972 ông giải ngũ; Từ 1972 đến 1976 phụ trách tổ thơ và tổ văn xuôi, tuần báo Văn nghệ. Từ 1976 đến 1989 là Trưởng ban thơ, Phó giám đốc Nhà xuất bản Tác phẩm mới. Hiện là Tổng biên tập Nhà xuất bản Hội Nhà văn. Nhà thơ đã nhận Giải thưởng thơ tạp chí Văn nghệ năm 1961, Giải thưởng văn xuôi báo Văn học, Giải thưởng ca dao của báo Văn học 1962, Giải thưởng văn học 5 năm của Hội Văn nghệ Hà Nội (1980-1985), Giải thưởng 5 năm Văn học Hùng Vương của Hội Văn nghệ Vĩnh Phú (1975-1980). • Tác phẩm đã xuất bản: - Về thơ: Tháng năm mùa gặt (1978); Ngọn giáp búp đa (1978); Đi ngang đồi cọ (1986); Cỏ bùa mê (1988); Đừng khóc (1991); Âm thầm (1992); Mặt trái xoan (1986); Mắt mùa thu (1994);.Hoa trắng tình yêu (1995). - Về văn xuôi: Ngõ trúc (1986); Bụi và lốc (1988); Ngôi vua và những chuyện tình (1990); Người đẹp ngậm oan (1990); Nợ đời phải trả (1990); Gươm thần Vạn kiếp (1991); Trần Hoàng làng (1993); Quán trọ giữa đời (1992); Dạo chơi núi Dục Thúy (1993); Ngang trái Phủ Tây Hồ (1993); Giấc mơ hoàng hậu (1994); Đêm rừng (1994); Quá trời (1994); Tuyên Phi họ Đặng (1996); Sao không là tình yêu? (1996).*** Tìm mua: Ngang Trái Phủ Tây Hồ TiKi Lazada Shopee Nguyễn Trãi lại được triệu về kinh đô. Vua Lê vừa mất. Ngài mất đúng năm tuổi bốn chín, còn minh mẫn lắm. Nghe nói, sau khi triệu Lê Sát, Lê Ngân vào, ở bên giường, Lê Thái Tổ dặn dò: - Ta cùng các ông dấy nghĩa ở Lam Sơn. Ta thương mình thương người mà được làm vua, các ông theo ta mà được làm tướng. Lộc trời cho mà không biết… Vua mệt, nghỉ một lúc, nói tiếp: - Nay đất nước đã sạch bóng thù, muôn dân vất vả chưa được hưởng cảnh thái bình là bao nhiêu. Các ông nên giúp rập Vua trẻ mà làm rạng rỡ huân nghiệp của mình… Lê Sát, Lê Ngân dập đầu, lạy tạ lui ra… Vua mệt thiêm thiếp ngủ. Thái giám Đinh Thắng hầu hạ bên cạnh. Ánh đèn chập chờn để Vua ngủ, càng làm cho những người gần vua, phút chót, đều lo sợ… Vua khó qua khỏi được. Đức Vua trở mình. Đinh Thắng vội đến bên giường, vua hỏi: - Nguyễn Trãi đã đến chưa? - Dạ, hình như sắp đến! - Sao lại hình như? - Tâu, quân kỵ đi từ sớm tinh mơ, chắc đến Côn Sơn đã lâu, cũng sắp về rồi… - Lê Sát, Lê Ngân có còn ngồi chờ ngoài ấy không? - Dạ quan đại tư đồ, tư khấu đều về cả rồi… Chợt có người hầu ở phòng ngoài vào báo: - Hàn lâm viện thừa chỉ đã đến! Đinh Thắng thưa: - Tâu Hoàng thượng, Nguyễn Trãi đã về. - Vời vào ngay!Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Ngang Trái Phủ Tây Hồ PDF của tác giả Ngô Văn Phú nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Ngang Trái Phủ Tây Hồ (Ngô Văn Phú)
Ngô Văn Phú sinh ngày 8 tháng 4 năm 1937, quê quán xã Nam Viêm, huyện Mê Linh, tỉnh Vĩnh Phúc. Ông là Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, Tốt nghiệp Đại học Tổng hợp Hà Nội (ngành ngữ văn), là Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam (1970). Nhà thơ Ngô Văn Phú vào đời văn khá sớm, ngay từ khi còn là học sinh Trường trung học Hùng Vương, ông đã có thơ in báo. Ông có sở trường về đề tài nông thôn và lịch sử. Ngoài sáng tác ông còn dịch sách. Sau khi tốt nghiệp đại học, ông về làm biên tập viên báo Văn học, (1961-1963); báo Văn nghệ (1963-1966); biên tập viên tạp chí Văn nghệ Quân đội. Năm 1972 ông giải ngũ; Từ 1972 đến 1976 phụ trách tổ thơ và tổ văn xuôi, tuần báo Văn nghệ. Từ 1976 đến 1989 là Trưởng ban thơ, Phó giám đốc Nhà xuất bản Tác phẩm mới. Hiện là Tổng biên tập Nhà xuất bản Hội Nhà văn. Nhà thơ đã nhận Giải thưởng thơ tạp chí Văn nghệ năm 1961, Giải thưởng văn xuôi báo Văn học, Giải thưởng ca dao của báo Văn học 1962, Giải thưởng văn học 5 năm của Hội Văn nghệ Hà Nội (1980-1985), Giải thưởng 5 năm Văn học Hùng Vương của Hội Văn nghệ Vĩnh Phú (1975-1980). • Tác phẩm đã xuất bản: - Về thơ: Tháng năm mùa gặt (1978); Ngọn giáp búp đa (1978); Đi ngang đồi cọ (1986); Cỏ bùa mê (1988); Đừng khóc (1991); Âm thầm (1992); Mặt trái xoan (1986); Mắt mùa thu (1994);.Hoa trắng tình yêu (1995). - Về văn xuôi: Ngõ trúc (1986); Bụi và lốc (1988); Ngôi vua và những chuyện tình (1990); Người đẹp ngậm oan (1990); Nợ đời phải trả (1990); Gươm thần Vạn kiếp (1991); Trần Hoàng làng (1993); Quán trọ giữa đời (1992); Dạo chơi núi Dục Thúy (1993); Ngang trái Phủ Tây Hồ (1993); Giấc mơ hoàng hậu (1994); Đêm rừng (1994); Quá trời (1994); Tuyên Phi họ Đặng (1996); Sao không là tình yêu? (1996).*** Tìm mua: Ngang Trái Phủ Tây Hồ TiKi Lazada Shopee Nguyễn Trãi lại được triệu về kinh đô. Vua Lê vừa mất. Ngài mất đúng năm tuổi bốn chín, còn minh mẫn lắm. Nghe nói, sau khi triệu Lê Sát, Lê Ngân vào, ở bên giường, Lê Thái Tổ dặn dò: - Ta cùng các ông dấy nghĩa ở Lam Sơn. Ta thương mình thương người mà được làm vua, các ông theo ta mà được làm tướng. Lộc trời cho mà không biết… Vua mệt, nghỉ một lúc, nói tiếp: - Nay đất nước đã sạch bóng thù, muôn dân vất vả chưa được hưởng cảnh thái bình là bao nhiêu. Các ông nên giúp rập Vua trẻ mà làm rạng rỡ huân nghiệp của mình… Lê Sát, Lê Ngân dập đầu, lạy tạ lui ra… Vua mệt thiêm thiếp ngủ. Thái giám Đinh Thắng hầu hạ bên cạnh. Ánh đèn chập chờn để Vua ngủ, càng làm cho những người gần vua, phút chót, đều lo sợ… Vua khó qua khỏi được. Đức Vua trở mình. Đinh Thắng vội đến bên giường, vua hỏi: - Nguyễn Trãi đã đến chưa? - Dạ, hình như sắp đến! - Sao lại hình như? - Tâu, quân kỵ đi từ sớm tinh mơ, chắc đến Côn Sơn đã lâu, cũng sắp về rồi… - Lê Sát, Lê Ngân có còn ngồi chờ ngoài ấy không? - Dạ quan đại tư đồ, tư khấu đều về cả rồi… Chợt có người hầu ở phòng ngoài vào báo: - Hàn lâm viện thừa chỉ đã đến! Đinh Thắng thưa: - Tâu Hoàng thượng, Nguyễn Trãi đã về. - Vời vào ngay!Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Ngang Trái Phủ Tây Hồ PDF của tác giả Ngô Văn Phú nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.