Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Chuộc Tội

Vào một ngày hè nóng nhất năm 1935, cô bé mười ba tuổi Briony Tallis bất chợt trông thấy chị gái Cecilia trút bỏ áo quần rồi lao mình xuống bể đài phun nước trong khu vườn rộng trước nhà. Cùng chứng kiến cảnh ấy, là Robbie Turner, người bạn của nàng từ thuở nhỏ, và cũng như nàng vừa trở về từ đại học Cambridge.  Đến cuối ngày hôm ấy cuộc đời của cả ba người đã vĩnh viễn thay đổi. Robbie và Cecilia sẽ vượt qua một biên giới mà họ chưa từng hình dung rằng có tồn tại, và trở thành nạn nhân của trí tưởng tượng của cô bé mười ba tuổi kia. Còn Briony, em đã chứng kiến những chuyện bí ẩn và phạm phải một tội ác mà để chuộc lại thì có lẽ cần nhiều hơn một đời người.  Chuộc tội được làm nên bằng từng chi tiết được khắc họa tỉ mỉ đến tinh xảo, những nhân vật và tâm hồn nhân vật được xây dựng cá biệt nhưng thống nhất cao độ, những khám phá cơ hồ thanh tân về sự dối trá của vẻ bề ngoài và sự ngây thơ ẩn tàng diệt hủy, tất cả đặt trong một kết cấu độc nhất vô nhị - dàn trải mà vẫn tập trung, phi tuyến tính nhưng hoàn toàn logic. Vẫn những chủ đề quen thuộc như tình yêu và tội lỗi, giận dữ và thứ tha, nhưng Chuộc tội đã được tạo tác tuyệt vời đến mức không gì trong cuốn sách đem lại cho người đọc cảm giác cũ mòn. Phảng phất u tối nhưng quyến rũ kỳ lạ, cho đến nay đó thực sự là tác phẩm viên mãn nhất của McEwan, xứng đáng với giải thưởng cao quý National Book Critics Circle Award dành cho thể loại tiểu thuyết vào năm 2002.   "Một tiểu thuyết tuyệt tác" - Independent "Những khám phá xuất sắc về dòng chảy của tội lỗi, nỗi hổ thẹn và sự giận dữ..." - Scotsman *** Ian McEwan sinh ngày 21/6/1948 tại Aidershot, Anh. Ông từng học ngành Văn học Anh tại Đại học Sussex và tốt nghiệp cử nhân năm 1970, sau đó lấy tiếp bằng Thạc sĩ Văn học Anh tại Đại học East Anglia. Các tác phẩm của McEwan được giới phê bình thế giới đánh giá cao. Ông đã giành giải thưởng Somerset Maugham Award năm 1976 cho tập truyện ngắn First Love, Last Rites; giải Whitbread Novel Award (1987) và Prix Femina Etranger (1993) cho tác phẩm The Child in Time; đồng thời giành được cả giải Germany’s Shakespeare Prize vào năm 1999. Ông đã nhiều lần lọt vào danh sách đề cử chốt của giải Man Booker Prize và đến năm 1998 đã giành được giải thưởng cao quý này cho tác phẩm Amsterdam. Cuốn tiểu thuyết Atonement đã giành được giải WH Smith Literary Award (2002), giải National Book Critics’ Circle Fiction Award (2003) của giới phê bình Anh, giải Los Angeles Times Prize dành cho thể loại hư cấu (2003) và giải Santiago Prize dành cho Tiểu thuyết Châu Âu (2004). Năm 2000, ông cũng được trao giải CBE, giải thưởng cao quý của Hoàng gia Anh dành cho những người có cống hiến xuất sắc. Năm 2006, cuón tiểu thuyết Saturday của ông đã giành được giải James Tait Black Memorial Prize. Còn tại lẽ trao giải British Book Awards 2008, Trên bãi biển Chesil đã giành được giải Book of the Year (Cuốn sách của năm) đồng thời đem lại cho tác giả của nó danh hiệu Author of the Year (Tác giả của năm). McEwan đã kết hôn hai lần. Người vợ thứ hai của ông, Annalena McAfee, từng là biên tập viên cho mục Bình luận của tờ The Guardian danh tiếng. Ngoài sự nghiệp, ông còn khá nổi tiếng trên mặt báo khi vào năm 1999 người vợ đầu tiên của ông bắt cóc đứa con trai 13 tuổi khi tòa trao quyền giám hộ con chỉ cho mình ông. Tiểu thuyết Chuộc tội cũng từng bị cáo buộc là đạo văn từ cuốn No Time for Romance của Lucilla Andrews. Tuy nhiên McEwan công khai khẳng định mình vô tội trên tờ The Guardian, lý do là trong ghi chú cuối tiểu thuyết của mình, ông đã nêu rõ tác phẩm của Andrews. Bộ phim cùng tên dựng lại từ tác phẩm Chuộc tội của McEwan đã được đề cử bảy giải Oscar quan trọng và giành được giải Nhạc nền xuất sắc nhất tại lễ trao giải Oscar lần thứ 80 năm 2008. Cùng năm đó, bộ phim cũng đồng thời giành được giải Phim hay nhất ở cả giải Quả cầu Vàng và giải British Academy Film Awards của Viện Điện ảnh Anh Quốc. Hiện Website chính thức của tác giả tại địa chỉ www.iannicewan.com. *** Review Thu Hoài - Trạm Đọc: Bất cứ lúc nào bàn về tội ác ấu dâm, người ta cũng chỉ nói đến nỗi đau thể chất và tinh thần của người bị hại, thế còn tinh thần của những người chứng kiến thì sao? Khi mà xã hội ngoài kia đang sôi sục về những vụ ấu dâm thì tôi cũng đọc được một câu chuyện ấu dâm khác trong thời Thế chiến thứ Hai, khi con người ta còn nhiều nỗi lo hơn so với cái xã hội rảnh như bây giờ. Bất cứ lúc nào bàn về tội ác ấu dâm, người ta cũng chỉ nói đến nỗi đau thể chất và tinh thần của người bị hại, thế còn tinh thần của những người chứng kiến thì sao?  Cấu trúc truyện lồng trong truyện trong cuốn sách Chuộc tội của Ian McEwen kể về lời khai của một cô bé mười ba tuổi khi là nhân chứng duy nhất trong vụ cưỡng hiếp người chị họ, kèm theo nỗi đau tinh thần đã kéo dài hơn sáu mươi năm, và một lời thú tội muộn màng. Mùa hè 1935, Robbie Turner bị bắt vì tội cưỡng hiếp cô bé Lola mười lăm tuổi,  một người họ hàng của gia đình Tallis. Nhân chứng và lời khai duy nhất của vụ án là con gái út mười ba tuổi, Briony Tallis, người đã chắc chắn khẳng định hung thủ là Turner, khi cô tình cờ bắt gặp cảnh tượng khủng khiếp ấy trong đêm tối tại khu vườn gần nhà. Turner là con trai người hầu và người giúp việc của gia đình Tallis, đồng thời cũng là người bạn ấu thơ của Cecilia Tallis. Qua lời tố cáo của Briony, Turner cũng là người đã bắt Cecilia cởi bỏ đồ trước mặt hắn, viết bức thư dâm đãng gửi và tra tấn Cecilia trong thư viện. Trong thời chiến tranh, để huy động hết lực lượng quân số, những người mang trọng tội như Turner đã được cho phép đi lính thay vì ngồi trong tù của chính phủ Anh.  Đọc đến đây, bạn có thể nói “Đáng đời hắn, những kẻ vô nhân tính như hắn đáng phải đền tội” hay những câu tương tự như vậy. Tôi cũng phần nào đồng cảm với bạn. Nhưng lời khai của một đứa trẻ tuổi vị thành niên có đáng tin không? Nếu là thời nay chắc cảnh sát và truyền thông còn phải mổ xẻ rất nhiều tình tiết trong lời khai ấy. Nhưng khi ấy, cảnh sát và quân đội Anh còn phải lo về thuốc súng đạn dược trong cuộc chiến tranh với Đức, ai rảnh đâu đi điều tra lời nói của một đứa bé. Họ thậm chí còn mừng thay khi có một nhân chứng, và nhân chứng ấy lại vô cùng quả quyết, chắc chắn về những gì mình nhìn được. Briony có lẽ còn xứng đáng trở thành anh hùng trong lòng các cô gái trẻ ấy chứ.  Ấy vậy mà, người “anh hùng” của chúng ta, Briony lại sống trong những năm tháng đau khổ và dằn vặt suốt phần đời còn lại của mình. Năm năm sau, cô trở thành y tá thực tập trong bệnh viện London thay vì đi học tại Cambridge. Những lần chứng kiến thời khắc cuối cùng của người lính, cô thường nghĩ đến số phận của Robbie ngoài chiến trường. Cô cũng đã viết rất nhiều bức thư gửi chị gái Cecilia, người đã từ bỏ gia đình sau khi Robbie bị bắt và trở thành y tá, nhưng chưa bao giờ nhận được hồi âm. Cô đã lo sợ nếu không gặp được chị gái, cô sẽ không bao giờ có thể nói được lời xin lỗi, vì sự thật mà cô tiết lộ vô cùng đau lòng. Hung thủ mà Briony nhìn thấy năm năm trước hóa ra lại không phải là Robbie Turner.  Đối với cô khi ấy, Robbie là một con quỷ dâm dục nhưng trước đó cũng là người mà cô vô cùng cảm mến. Briony đã từng liều mình nhảy xuống hồ chỉ để xem liệu Robbie có cứu mình không, và để nói lời yêu với anh. Nhưng hỡi ôi, một cô bé ngây thơ và nông nổi trong thâm tâm không muốn người mình yêu ở bên cạnh chị cô nên đã sẵn sàng nói dối dù đã mười mươi nhìn thấy hung thủ là ai, một lời nói dối đủ làm thay đổi cuộc đời của cả ba con người. Trong suốt những năm tháng làm y tá, Briony vẫn viết, nhưng không còn là những tiểu thuyết mộng mơ như thuở nhỏ nữa. Ngồi cô độc đánh máy trong những đêm lạnh tại bênh viện, Briony đã viết một lời thú tội chân thành không màu mè, hoa mỹ cho những người đã tin vào những lời nói dối năm xưa của cô. Lời thú tội đó sau cùng trở thành cuốn tiểu thuyết cuối đời của cô, cuốn sách mang tên Chuộc Tội.  Nhưng rốt cuộc đó vẫn chỉ là sự hèn nhát sau cuối của Briony, khi tất cả những người liên quan đều đã chết, họ mãi không được biết sự thật. Dù có viết bao nhiêu cuốn sách cũng không thể bù đắp lại được cuộc đời hạnh phúc cho Robbie và Cecilia. Vở kịch đầu tiên của Briony xuất hiện ở cuối truyện giống như nhắc lại cuộc đời hai con người ấy suy cho cùng cũng chỉ là vở kịch mà người khác dựng lên.  Briony đã nhận sai, nhưng vẫn tiếp tục làm sai, vẫn chỉ là con người hèn nhát không giống như trong cuốn tiểu thuyết kia.  Briony đã đi đến cuối đời bằng nỗi tuyệt vọng và tự lừa dối chính mình bằng ảo tưởng hạnh phúc. Không có gì sai khi lên tiếng trước một tội ác, chỉ là đừng như Briony, hãy làm người hùng thật đúng cách để không bao giờ phải nhận lấy đau khổ khi đứng trước sự thật mà thôi. *** Vở kịch - mà vì nó Briony đã thiết kế áp phích, tờ chương trình và vé, dựng quầy bán vé từ một bình phong xiêu vẹo quây lại và lót hộp thu tiền bằng giấy kếp đỏ - được em viết trong hai ngày sáng tác vũ bão, khiến em bỏ mất một bữa sáng và một bữa trưa. Khi mọi chuẩn bị đã chu tất, em chỉ còn việc thưởng ngoạn bản thảo hoàn chỉnh và đợi các em họ từ phương Bắc xa xôi đến. Sẽ chỉ có một ngày duy nhất để diễn tập trước khi anh trai em về. Lúc ớn lạnh xương tủy, khi buồn đau bén ngọt, vở kịch kể một câu chuyện của trái tim mà thông điệp được của nó, được chuyển tải trong phần mào đầu có vần điệu là tình yêu không được dựng xây trên nền tảng lý trí thì rồi sẽ lụi tàn. Nỗi đam mê bồng bột của nhân vật chính Arabella dành cho một tên bá tước ngoại quốc gian ác đã bị vận rủi trừng phạt: nàng mắc phải bệnh tả khi bốc đồng lao đến một thị trấn ven biển cùng kẻ ngỡ là sẽ cưới ấy. Bị hắn và hầu như hết thảy mọi người ruồng bỏ, nằm liệt giường trên một căn phòng gác xép, nàng khám phá ra tự trong mình khiếu hài hước. Số phận đem lại cơ hội thứ hai cho nàng xuất lộ dưới hình hài một vị thầy lang bần hàn - thực ra là chàng hoàng tử vi hành tự nguyện lao động giữa những người cùng khổ. Được chàng chữa lành bệnh, Arabella lần này chọn lựa một cách sáng suốt, và được đáp đền bằng cuộc đoàn tụ với gia đình và lễ cưới với chàng hoàng tử-thầy lang trong “một ngày xuân ngập tràn nắng và gió”. Bà Tallis đọc bảy trang vở kịch Những gian nan của nàng Arabella trong phòng ngủ, tại bàn trang điểm, với vòng tay của tác giả choàng qua vai suốt thời gian ấy. Briony chăm chú theo dõi từng dấu hiệu biến đổi cảm xúc trên khuôn mặt mẹ, và Emily Tallis chiều lòng con bằng vẻ mặt khi thảng thốt, lúc khúc khích hân hoan, rồi cuối cùng, nụ cười khích lệ và những cái gật đầu lịch duyệt, tán thành. Bà vòng tay ôm con gái vào lòng - ôi, cái cơ thể nhỏ nhắn mịn màng ấm nóng bà nhớ từ khi còn đỏ hỏn này, vẫn còn chưa lìa khỏi bà, chưa lìa hẳn - và bảo vở kịch thật “tuyệt diệu”, rồi ngay lập tức thì thầm vào vành tai đang căng ra của con gái đồng ý cho phép trích dẫn từ này lên tấm áp phích sẽ treo trên giá dựng ở tiền sảnh cạnh quầy vé. Khi đó Briony cơ hồ chưa biết, nhưng lời nhận xét ấy chính là cực điểm thành công của công trình này. Không gì đem lại cảm giác thỏa nguyện hơn thế, tất cả còn lại chỉ là mộng mơ và thất vọng. Có những khoảnh khắc chiều hè chạng vạng, khi ánh sáng phòng lụi tắt, vùi mình trong sự ảm đạm ngọt ngào của chiếc giường bốn cọc màn, em khiến tim mình rộn lên bằng những tưởng tượng lung linh, khao khát, mang trong chúng những vở kịch ngắn nho nhỏ, từng vở một đều có vai chính là Leon. Ở vở này, khuôn mặt to, hiền lành của anh nhăn lại vì đau đớn khi Arabella rơi vào cảnh cô đơn và quẫn bách. Ở vở kia, kìa anh đó, ly cocktail trên tay tại một quán bar thành phố thời thượng, đang lớn tiếng huênh hoang với đám bạn: Phải, em gái tớ đấy, văn sĩ Briony Tallis, các cậu hẳn đã nghe tiếng rồi. Vở thứ ba, anh đắc chí đấm tay vào không khí khi sân khấu hạ màn, mặc dù chẳng có tấm màn nào hết, cả khả năng tồn tại một tấm cũng không. Vở kịch em viết không phải để dành cho mấy đứa em họ, nó dành cho anh của em, để chào mừng anh trở về, để khơi dậy ở anh lòng ngưỡng mộ và hướng anh tránh xa khỏi hàng loạt cô bạn gái kế tiếp nhau một cách thiếu suy nghĩ, đến hình mẫu người vợ chân chính, người vợ sẽ thuyết phục anh về sống ở vùng quê, người vợ sẽ dịu dàng đề nghị Briony làm phù dâu cho lễ cưới. Em là đứa trẻ bị ám ảnh bởi nỗi khát khao biến thế giới thành nơi trật tự tuyệt đối. Trong khi phòng chị em là mớ hổ lốn những sách không gấp, áo quần không xếp, giường không dọn, gạt tàn không đổ, thì phòng Briony là một thánh đường cho vị thần thích kiểm soát trong em: mô hình trang trại đồ chơi trải ra trên bậu cửa sổ sâu vào phía trong, gồm những súc vật quen thuộc, nhưng tất cả đều hướng về một phía - chủ nhân của chúng - như thể toan cất lời đồng ca, và ngay cả đàn gà mái trên sân trại cũng được quây lại gọn ghẽ. Mà thực ra, phòng Briony là căn phòng ngăn nắp duy nhất ở tầng trên trong nhà. Các em búp bê lưng được đặt thẳng đứng trong biệt thự nhiều phòng của chúng dường như tuân theo một chỉ thị nghiêm ngặt là không được phép chạm vào tường; vô vàn các con giống đồ chơi to cỡ ngón tay cái trên bàn trang điểm - những chàng cao bồi, những thợ lặn biển sâu, những chú chuột hình người - được sắp xếp theo hàng lối ngay ngắn và cách nhau đều đặn như một đạo dân quân đang chờ lệnh. Thích vật thu nhỏ là một khía cạnh của tinh thần ngăn nắp. Một khía cạnh khác là đam mê bí mật: trong chiếc tủ đánh véc ni quý giá có một ngăn kéo bí mật chỉ mở ra được bằng cách nhấn vào thớ gỗ của cái mộng đuôi én khớp lại một cách khéo léo, ở đó em cất giấu cuốn nhật ký khóa bằng móc gài, và cuốn sổ viết bằng thứ mật mã do em tự chế ra. Trong cái két đồ chơi mở bằng mật mã sáu số, em lưu thư từ và bưu thiếp. Một hộp thiếc cũ đựng tiền nhỏ xíu được giấu dưới một tấm ván sàn cạy lên được dưới gầm giường em. Trong hộp là kho báu em tích trữ được trong bốn năm qua, bắt đầu từ lần sinh nhật chín tuổi: một quả sồi đôi đột biến, viên quặng pyrit, một bùa làm mưa mua tại hội chợ giải trí, một cái sọ sóc nhẹ bẫng như chiếc lá. Nhưng ngăn kéo bí mật, nhật ký khóa cài và hệ thống mật mã không che được cho Briony một sự thật giản dị: em chẳng hề có bí mật nào. Khát khao vươn tới một thế giới trật tự hài hòa tước khỏi em khả năng bốc đồng làm điều sai trái. Phá hỏng và hủy diệt là những thứ quá hỗn loạn không phù họp với sở thích của em, và bản tính em cũng không phải là người ác nghiệt. Thân phận thực tế là đứa trẻ duy nhất trong nhà, cộng với việc ngôi nhà gia đình Tallis khá hẻo lánh, đã khiến em, ít ra là trong suốt những ngày nghỉ hè dài dặc, không tham dự vào các trò con gái với đám bạn. Không gì trong cuộc sống em đủ độ hấp dẫn hay đáng xấu hổ đến mức phải giấu đi; không ai biết về cái sọ sóc dưới gầm giường, mà cũng chẳng ai buồn biết. Không gì trong số những điều vừa kể là nỗi ưu phiền gì đặc biệt; có chăng chỉ phảng phất vậy khi hồi cố lại, mà khi đó, giải pháp đã được tìm ra. Năm mười một tuổi, em viết câu chuyện đầu tay - một chuyện tình xuẩn ngốc, mô phỏng đến quá nửa tá truyện dân gian và thiếu, sau này em nhận ra, sự hiểu biết thiết yếu về cách thế giới vận hành để buộc độc giả phải ngưỡng phục. Nhưng thử nghiệm vụng về đầu tiên này mở ra cho em biết trí tưởng tượng, chỉ riêng nó thôi, đã là cả một nguồn sản sinh bí mật: một khi em bắt đầu một câu chuyện, sẽ không ai biết gì cả. Ngụy tạo thế giới bằng ngôn ngữ là việc quá không chắc chắn, quá yếu ớt, quá xấu hổ không thể để ai biết được. Ngay cả viết ra những cô nói, những và rồi cũng khiến em nhăn mặt, và thấy mình thật ngốc nghếch khi tỏ vẻ hiểu cảm xúc của một sinh vật tưởng tượng. Tự phơi bày chính mình là điều không thể tránh khỏi khi em miêu tả sự yếu mềm của nhân vật; độc giả buộc phải ngờ rằng em đang miêu tả chính em. Em còn có tư cách nào khác nữa chứ? Chỉ khi câu chuyện kết thúc, mọi số phận được dàn xếp ổn thỏa và toàn bộ vấn đề đã hoàn toàn khép lại để giống như, ít nhất ở khía cạnh này, mọi câu chuyện có kết thúc khác trên thế giới, thì em mới cảm thấy yên tâm, và sẵn sàng đục lỗ trên lề, dùng dây đóng các chương lại, vẽ bìa bằng màu hay chì đen, rồi mang tác phẩm hoàn tất đến khoe với mẹ, hoặc cha, khi ông có nhà. Mời các bạn đón đọc Chuộc Tội của tác giả Ian McEwan.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Bí Mật Một Gia Tài - Eugenie Marlitt
E. Marlitt là bút hiệu của Eugenie John (1825 - 1887), một tiểu thuyết gia nổi tiếng người Đức. Eugenie John sinh tại Arnstadt. Cha bà là một hoạ sĩ vẽ chân dung. Sự bảo trợ của bà là công chúa của Schwarzburg Sondershausen, người đã nhận nuôi bà vào năm 1841 và gửi bà đến Vienna để học nhạc trong ba năm nhờ vào giọng nói tốt của bà. Eugenie John trở nên điếc, và trở lại Sondershausen, sống 11 năm tại tòa án với tư cách là thư kí viên. Các đồng nghiệp của bà đã bị hấp dẫn bởi phong viết văn của bà, và khuyến khích Eugenie John sáng tác tiểu thuyết. Vì mục đích này, bà trở lại Arnstadt vào năm 1863, và bắt đầu sự nghiệp của mình với tư cách một nhà văn. • Tác phẩm Die zwölf Apostel (1865): Đây là cuốn tiểu thuyết đầu tiên của Eugenie John, nó xuất hiện ở Leipzig Gartenlaube. Goldelse (1866): Cuốn tiểu thuyết này đánh dấu sự nổi tiếng của Eugenie John, độc giả của nó bị thu hút bởi những miêu tả về hình ảnh và thơ mộng về cuộc đời Đức. Blaubart (1866); Das Geheimnis der alten Mamsell (1868 - Bí Mật Một Gia Tài); Thüringer Erzählungen (1869), Reichsgräfin Gisela (1870); Heideprinzeßchen (1872); Die zweite Frau (1874) *** Sáng hôm ấy, ở khắp các góc phố trong thành phố X. đều dán những tờ quảng cáo đỏ báo tin nhà ảo thuật trứ danh Ooclôpxki đã đến cùng các tiết mục kỳ diệu của anh. Một thiếu phụ đến từng nhà bán vé. Nàng rất đẹp. Bộ tóc vàng hung lộng lẫy, dáng dấp kiều diễm và quý phái, nhưng bộ mặt dịu dàng của nàng xanh, nhợt nhạt như xác chết - người ta thường nói thế và những lúc hiếm hoi nàng ngước cặp lông mi vàng óng lên, đôi mắt xám sẫm chất chứa vẻ êm dịu và gần như thê thảm làm xúc động lòng người. Nàng vào cả nhà ông Hêluy, ngôi nhà sang trọng nhất ở phố chợ. — Thưa bà, - Hăngri, người đầy tớ ở tầng dưới gọi, - vợ người làm ảo thật đến. — Chị ta muốn gì? - một giọng đàn bà nghiêm khắc hỏi. — Chồng chị ấy biểu diễn ngày mai, chị ấy muốn mời bà mua một vé vào xem. — Chúng ta là những tín đồ lương thiện, và cũng không có tiền để tiêu cho những trò hề ấy. Đuổi họ đi, Hăngri. Người đầy tớ đóng cửa phòng lại. Bác gãi tai, nét mặt bối rối, vì người biểu diễn chắc đã nghe thấy hết. Nàng đứng sững sờ trước mặt bác một lúc: mặt nàng thoáng đỏ lên và một tiếng thở dài nặng nề từ trong ngực thốt ra… Ngay lúc ấy, một cánh cửa nhỏ trổ trên cửa lớn hé ra, có tiếng đàn ông khẽ hỏi mua một vé, vé đưa ra, một đồng hai êquy nhẹ đưa vào tay thiếu phụ trước khi nàng kịp ngước mắt lên, cánh cửa nhỏ đã đóng lại. Tấm rèm xanh rủ những nếp mờ che sau cửa kính. Hăngri mở cửa và mỉm cười vui vẻ, người đàn bà đi ra với những bước chân ngập ngừng để tiếp tục con đường chông gai của mình. Hôm sau, phòng khánh tiết ở thị sảnh chật ních người xem. Hăngri lọt vào giữa đám đông, phải chen chúc mới thoát ra được để đến gần chủ. Ông ngồi cạnh một người bạn là bác sĩ Buêơm trên khán đài, giữa những người có địa vị trong tỉnh. Người xem tuôn đến cũng dễ hiểu. Chương trình hứa hẹn những tiết mục tuyệt diệu và tiết mục cuối cùng được viết như sau: “Bà Ooclôpxki sẽ xuất hiện trong vai Vankiri[1]. Sáu người lính sẽ nổ súng vào bà, bằng một nhát kiếm, bà sẽ chém đứt ngang sáu viên đạn đang bay”. Dân chúng ở X. đến đây chủ yếu để nhìn thấy điều phi thường này. Người đàn bà trẻ và đẹp đã làm cho mọi người chú ý, ai nấy muốn thấy nét mặt của nàng sẽ như thế nào khi các nòng súng chĩa vào nàng… Nhà ảo thuật cũng thu hút được sự chú ý của công chúng bằng các trò nhanh tay. Anh là người mà các bà thường gọi là một nhân vật lý thú. Người vừa phải, mềm mại dong dỏng cao, anh có nét mặt đều đặn, tóc đen, hai mắt đầy tình cảm, cử chỉ lịch sự và cách nói tiếng Đức nhấn mạnh giọng càng làm cho anh thêm hấp dẫn. Nhưng mọi giá trị ấy đều bị quên ngay khi sáu người bồng súng do một viên đội chỉ huy bước vào. Cử tọa bỗng náo nhiệt. Có thể nói đây là tiếng ầm ĩ của các ngọn sóng vỗ vào đá. Rồi tiếp đến là sự lặng lẽ đột ngột như lo sợ. Người Ba Lan tiến đến gần một cái bàn và đóng thuốc súng vào vỏ đạn trước mặt công chúng. Anh lấy búa nện lên từng viên đạn, để tiếng động ấy làm cho khán giả đang hồi hộp tin rằng đấy là những viên đạn thật. Rồi anh đưa cho mỗi người lính một viên và bảo họ nạp đạn. Nhà ảo thuật giơ chuông lắc. Một người đàn bà từ sau bức màn rộng bước ra. Nàng thong thả tiến lên dọc theo sân khấu và đến đứng trước mặt những người lính. Sự xuất hiện thật tuyệt diệu! Một chiếc mộc che trên cánh tay trái, tay phải nàng cầm kiếm. Chiếc áo dài trắng rủ thành nhiều nếp rộng xuống tận chân; chung quanh hông buộc các vảy bạc. Và tấm thân tuyệt đẹp được bảo vệ bằng chiếc áo giáp lóng lánh. Nhưng trang phục rực rỡ ấy so làm sao được với ánh vàng lóng lánh của bộ tóc tuôn như sóng từ chiếc mũ sắt xuống tận gần gấu áo dài. Khuôn mặt xanh xao và buồn rầu hướng về phía các họng súng gây chết chóc. Không một sợi lông mi rung động. Không thấy một xao động nào ở bộ áo bồng bềnh, nàng đứng đấy như một pho tượng đá. Tiếng hô cuối cùng vang lên trong gian phòng lặng lẽ, sáu tiếng súng nổ cùng một loạt… thanh kiếm chém vào không khí rít lên, và những nửa viên đạn rụng xuống sàn. ... Mời các bạn đón đọc Bí Mật Một Gia Tài của tác giả Eugenie Marlitt.
Axya
Truyện dài của Turgenev, kể về một mối tình thoảng qua giữa một cô gái Nga mới lớn sôi nổi, chưa biết yêu là gì và một anh chàng Nga tại Đức. Mối tình trong vài ngày kết thúc bằng việc cô gái tỏ tình, chàng trai không chắc chắn nên từ chối, khiến anh em cô gái bỏ đi. Chàng trai hối hận tìm kiếm nhưng không bao giờ gặp lại cô gái. *** Ngày ấy tôi mới hăm nhăm, - ông N.N mở đầu câu chuyện như vậy hẳn các bạn cũng thấy, chuyện xảy ra cách đây đã lâu. Thu xếp xong công việc, tôi bỏ ra nước ngoài ngay, nhưng không phải để “du học” như người ta thường nói thời bấy giờ, mà chỉ vì tôi muốn chu du trong thiên hạ, quan sát thế gian của các thánh thần. Tôi còn trẻ, sức lực dồi dào, và trong lòng lúc nào tôi cũng thấy vui: sản nghiệp còn nguyên vẹn và trong đầu chưa kịp gợn một chút lo âu, tóm lại là tôi đã sống những ngày hoàn toàn tự do thoải mái, muốn làm gì thì làm, những tháng năm xuân sắc nhất của con người. Thuở ấy nào tôi có nghĩ được rằng con người ta đâu có phải là thảo mộc, và tuổi xuân không thể nào cứ xanh tươi mãi. Tuổi thanh xuân cứ tiêu đi những chiếc bánh dát vàng nhưng lại tưởng đó chẳng qua cũng chỉ là thứ bánh ăn thường ngày, đã mấy ai nghĩ được rằng sẽ có lúc một mẩu bánh cũng phải ngửa tay xin. Nhưng thôi lý giải làm gì chuyện ấy. Tôi đi ngao du không hề có chương trình và cũng chẳng nhằm một mục đích gì hết. Thích đâu thì dừng lại đấy để rồi lại bỏ đi ngay, vì tôi luôn luôn cảm thấy một niềm khao khát được thấy những gương mặt mới lạ chính là diện mạo con người. Tôi chỉ lưu tâm quan sát con người, tôi căm ghét những di tích bất hủ đầy vẻ hiếu kỳ, những bộ sưu tập hiếm hoi quý giá, chỉ riêng bộ dạng của người dẫn đường[1] cũng đã gây cho tôi cảm giác buồn bực. Tôi suýt phát điên lên ở “Nhà bảo tàng xanh”[2] tại thành phố Đresđen. Thiên nhiên gây cho tôi những cảm xúc cực kỳ mạnh, nhưng tôi không yêu cái gọi là vẻ đẹp của nó, không yêu những ngọn núi hùng vĩ, những thác ghềnh. Tôi không yêu để nó khỏi ràng buộc, quấy rầy tôi. Thế nhưng con người, những con người sống động: từ lời ăn tiếng nói, dáng điệu cho đến tiếng cười, đó mới chính là cái tôi không thể nào bỏ qua. Ở giữa đám đông bao giờ tôi cũng cảm thấy thanh thản và vô cùng thích thú, tôi vui vẻ đi theo thiên hạ, hò hét theo người ta, nhưng trong lúc đó tôi lại khoái trá đứng xem đám người kia la hét. Tôi rất thích quan sát con người… cũng không phải quan sát mà là nghiên cứu con người với cặp mắt tò mò đầy vẻ háo hức và không biết chán. Nhưng tôi lại nói lạc đề rồi. Như vậy là cách đây hai mươi năm tôi đã sống trong một thị trấn nhỏ ở Đức, thị trấn Z nằm ở tả ngạn sông Ranh. Tôi đã cố náu mình ở một nơi hẻo lánh và hiu quạnh, một quả phụ vừa gieo cho tôi một vết thương lòng, tôi quen biết bà ta ở nhà nghỉ có suối nước khoáng. Đó là một thiếu phụ rất duyên dáng và thông minh, bà ta tỏ ra kiêu sa với tất cả mọi người nhưng với tôi một con người lầm lẫn thì lúc đầu bà ta thậm chí còn khích lệ tôi, nhưng sau đó lại hắt hủi tôi một cách tàn nhẫn, khi đã thí tôi vì một viên trung úy người Baviê. Thực ra vết thương ấy của tôi cũng không lấy gì làm ghê gớm lắm, nhưng tôi thấy cũng nên có một thời náu mình trong cô đơn và buồn rầu - cái mà tuổi trẻ không say mê! - và thế là tôi đã trú ngụ tại thị trấn Z. Tôi thích thị trấn này vì cái địa thế của nó ở chân hai quả đồi cao, vì trong thị trấn có những bức tường cũ nát và nhiều ngọn tháp, có những cây bồ đề cổ thụ, có chiếc cầu dốc bắc qua dòng suối chảy ra sông Ranh, nhưng cái chính là ở đây có thứ rượu vang ngon tuyệt trần. Chiều chiều, khi trời vừa tắt nắng (đó là vào khoảng tháng sáu) những cô gái Đức tóc vàng hoe nom thật xinh xắn đi dạo trên các đường phố nhỏ hẹp, mỗi khi gặp người nước ngoài các cô cất tiếng chào: “Guten Abend?”[3] với cái giọng nghe thật dễ thương, - và cho đến lúc vầng trăng đã ló ra sau những mái nhà nóc nhọn trên những căn nhà kiểu cổ, và những viên đá nhỏ trên mặt đường lát đá đã hiện lên rõ mồn một dưới ánh trăng im lìm, vậy mà một số cô vẫn chưa muốn về. Vào những lúc ấy tôi thích đi lang thang trong thành phố. Từ trên khoảng trời trong, vầng trăng dường như đang chăm chú ngó nhìn xuống thành phố: và hình như phố xá cũng cảm thấy rõ cái nhìn ấy nên đã tỏ ra ân cần và nhũn nhặn tắm mình trong ánh trăng - cái ánh sáng mịn màng tĩnh mịch nhưng đồng thời cũng khơi gợi lên trong lòng người một nỗi xốn xang êm dịu. Con gà trống trên cái tháp chuông cao vút kiểu gô-tích sáng óng ánh trong ánh trăng vàng nhàn nhạt, cả những gợn sóng lăn tăn trên mặt con suối đen bóng cũng lấp lánh trôi đi trong ánh trăng vàng, những ngọn nến nhỏ xíu (người Đức vốn tằn tiện!) sáng lờ mờ với cái vẻ khiêm nhường trong các ô cửa sổ hẹp dưới những mái nhà lợp ngói grifen. Những cây nho mọc sau hàng tường dậu xây bằng đá hộc chìa ra những sợi tay leo cong queo nom thật bí ẩn. Bên cái giếng nước cổ xưa, một vật gì lao đi trong bóng tối qua bãi đất hình tam giác, đột nhiên vang lên một hồi còi uể oải của người gác đêm, con chó hiền lành gầm gừ mấy tiếng nửa vời, và khí trời mát dịu cứ mơn man trên da mát, bồ đề tỏa hương thơm ngào ngạt đến nỗi lồng ngực ta bất giác cứ thở hít mãi mỗi lúc một sâu hơn, và tiếng: “Gretkhen”[4] - nửa như ca thán, nửa như nghi vấn cứ thế buột ra khỏi miệng ta. Thị trấn Z nằm cách sông Ranh hai véctơ. Tôi thường ra ngắm dòng sông hùng vĩ, và ngồi hàng mấy giờ liền trên chiếc ghế đá dưới gốc cây tần bì to lớn đứng trơ trọi trên bờ sông, lòng dạ bồi hồi mơ tưởng tới người quả phụ nham hiểm kia. Dưới tán lá cây tần bì, bức tượng Đức mẹ nhỏ nhắn rầu rĩ nhìn ra với nét mặt nom giống như mặt trẻ con và trái tim đỏ tươi trên lồng ngực bị nhiều nhát gươm đâm thủng. Bờ bên kia là thị trấn L, không to hơn thị trấn tôi đang ở là bao. Một chiều tôi đang ngồi trên chiếc ghế đá yêu thích của tôi và ngắm cảnh: hết nhìn ra lòng sông, lại ngước nhìn lên bầu trời hoặc ngắm những vườn nho. Trước mặt tôi mấy em bé tóc ngắn đang leo trèo trên mạn một con thuyền đã bị kéo lên cạn và nằm phơi cái bụng quét hắc ín lên trời. Những chiếc thuyền nhỏ lững lờ trôi theo những cánh buồm không đầy gió, những làn sóng xanh lướt qua, hơi cồn lên và chạy lao xao bên mạn thuyền. Bỗng nhiên có tiếng nhạc từ xa vọng lại, tôi chăm chú lắng nghe. Bên thành phố L người ta đang chơi một điệu nhạc vanxơ: tiếng côntrơ-baxơ ậm ừ trầm mặc, tiếng viôlông réo rắt mơ hồ, tiếng flutơ nghe lềnh lảng thướt tha. - Người ta làm gì mà cử nhạc thế, hả cụ? - tôi hỏi ông già mặc áo gi-lê nhung, mang tất xanh và đi đôi giày có khóa sắt, lúc ấy vừa mới đến gần chỗ tôi. - Đó là cánh sinh viên từ B về dự hội Commerxơ - ông già thong thả chuyển cái tẩu thuốc từ mép này sang mép kia rồi mới trả lời tôi. “Hay là mình sang ngó thử xem cái hội Commerxơ ấy là cái gì - tôi nhủ thầm, - hơn nữa mình cũng chưa đặt chân lên thị trấn L lần nào”. Tôi tìm người lái đò và sang sông. ... Mời các bạn đón đọc Axya của tác giả Ivan Turgenev.
Viên Ngọc Trai - John Steinbeck
Viên Ngọc Trai, có bản dịch khác với tựa Viên Trân Châu, là một trong những tiểu thuyết nổi tiếng của John Steinbeck. Vì bài học có giá trị nhân văn của nó, nó đã được dùng để giảng dạy trong trường trung học cơ sở ở một số nơi trong Hoa Kỳ. Giống như bao nhiêu câu chuyện được lưu truyền trong dân gian, “Viên ngọc trai” cũng đề cập đến hai vấn đề muôn thuở: Thiện và ác – Bóng tối và ánh sáng. Phàm đã mang kiếp con người, có lẽ ai cũng sẽ thuộc về một trong hai thái cực ấy. Ranh giới giữa thiện và ác rất mong manh, nó nằm trong bản chất nội tại của con người, lệch 1 chút về phía ánh sáng sẽ là “người”, nghiêng nhiều về phía bóng tối sẽ trở thành “con”. Từ đó, con người nhất định sẽ là con người tốt hoặc phải là một kẻ vô lại theo quan niệm chung của nhân loài. Và hiển nhiên là không có điều gì có thể thay đổi được định luật này cả. “Viên ngọc trai” – một câu chuyện ngụ ngôn đầy ý nghĩa, tuy có phần trừu tượng nhưng John Steinbeck đã xây dựng một tiểu thuyết với kỹ năng đạt đến đỉnh cao của nghệ thuật kết cấu, không chỉ hoàn thiện về ý nghĩa biểu tượng mà còn sắc bén với những chi tiết rõ nét, như được quay qua một ống kính máy ảnh. Viên Ngọc Trai có một bài học đạo đức cao bao gồm một cuộc sống của một người nông dân bình thường đã có một chút lòng tham đã đem lại điều đau khổ, thậm chí còn nghèo khổ và mất mát nhiều hơn trước khi anh có Viên Ngọc Trai. Cuốn tiểu thuyết đã cho chúng ta cái nhìn qua nhân vật thầy tu, đã tham gia vô sự đàn áp dân chúng. Cuốn truyện con nhắn cho chúng ta về sự ác bức và sự phân biệt chủng tộc qua đời sống của một thường dân. Viên Ngọc Trai, chỉ là một thứ nằm trong lòng bàn tay đã có thể mang tới cái chết và hủy diệt của một gia đình hiền hòa được mọi người yêu mến. Kino chỉ nhìn thấy một tương lai giàu có mà Viên Ngọc Trai sẽ mang lại, tuy nó mang lại sự thịnh vượng có hạn nhưng nhiều người tin rằng nó có năng lực tột cùng. *** John Ernst Steinbeck, Jr. (1902 – 1968) là một tiểu thuyết gia người Mỹ được biết đến như là ngòi bút đã miêu tả sự đấu tranh không ngừng nghỉ của những người phải bám trên mảnh đất của mình để sinh tồn. Tác phẩm đầu tiên gây tiếng vang của John Steinbeck là cuốn Của Chuột Và Người (Of Mice and Men) (1937), dựng nên một câu chuyện bi thảm về hai nông dân ít học thức hằng mong mỏi một mảnh đất cho riêng mình để canh tác. Tác phẩm được đánh giá cao nhất là Chùm Nho Phẫn Nộ (The Grapes of Wrath) (1939; đoạt giải Pulitzer năm 1940), dựng nên câu chuyện của gia đình Joad, bị nghèo khó ở vùng hoang hóa Dust Bowl của tiểu bang Oklahoma, phải chuyển đến California trong giai đoạn khủng hoảng kinh tế của thập niên 1930. Quyển tiểu thuyết gây nhiều tranh cãi, được xem không những là truyện hư cấu nhưng có tính hiện thực mà còn là lời phản kháng xã hội đầy cảm động, đã trở nên một tác phẩm kinh điển trong nền văn học Mỹ. Là một trong những "tượng đài" văn học từ thập kỷ 1930, Steinbeck lấy chủ đề trung tâm là phẩm giá trầm lặng của những người cùng khổ, những người bị áp bức. Dù những nhân vật của ông thường bị vây bọc trong thế giới thiếu công bằng, họ vẫn giữ mình như là những con người đầy cảm thông và có anh hùng tính, tuy có thể bị khuất phục. John Steinbeck nhận Giải Nobel Văn học năm 1962. Tiểu thuyết của John Steinbeck đã được dịch ra tiếng Việt gồm có: Của chuột và người (Of Mice and Men, 1937) Chùm nho nổi giận, còn được dịch Chùm nho phẫn nộ hay "Chùm nho uất hận", (The Grapes of Wrath, 1939) Đoạt Giải Pulitzer năm 1940 Phía đông vườn địa đàng (East of Eden, 1952) Đồng cỏ nhà trời (The Pastures of Heaven, 1932) Tôi, Charley và hành trình nước Mĩ (Travels with Charley in search of America, 1961) *** Trong thị trấn ấy người ta vẫn kể lại câu chuyện về một viên ngọc trai thật quái đản - về xuất sứ như thế nào nó được tìm thấy cũng như lý do tại sao nó lại bị mất đi. Người ta kể về Kino, một người đàn ông sống bằng nghề thuyền chài, cùng với vợ của anh là chị Juanna. Đứa con nhỏ bé của họ là Coyotio. Câu chuyện được kể đi kể lại nhiều lần, cuối cùng đã bén rễ, ăn sâu vào tâm trí của những con người sinh sống nơi đây. Giống như bao nhiêu câu chuyện được lưu truyền lại từ ký ức của con người khác, câu chuyện này nhắc đến hai điều: Thiện và Ác. Bóng đêm và ánh sáng. Cái tốt và sự Quỷ quyệt. Phàm đã mang kiếp con người, ai cũng sẽ thuộc về một trong hai thái cực ấy. Khó mà có chuyện anh bạn sẽ là người ba phải. Anh bạn nhất định sẽ là con người tốt hoặc phải là một kẻ vô lại. Tất nhiên là không có điều gì thay đổi được định luật này cả. Nếu câu chuyện về viên ngọc trai sắp đuợc kể ra dưới đây, như là một chứng tích hay là một câu truyện ngụ ngôn, hy vọng bạn có thể sẽ sẽ rút ra được cho mình một bài học ý nghĩa riêng biệt. Bạn sẽ thấy mình là một nhân vật của câu chuyện. Tóm lại như thế này, trong một làng chài bình dị ấy, người ta kể rằng... Mời các bạn đón đọc Viên Ngọc Trai của tác giả John Steinbeck.
Trăng Lặn - John Steinbeck
John Ernst Steinbeck, Jr. (1902 – 1968) là một tiểu thuyết gia người Mỹ được biết đến như là ngòi bút đã miêu tả sự đấu tranh không ngừng nghỉ của những người phải bám trên mảnh đất của mình để sinh tồn. Tác phẩm đầu tiên gây tiếng vang của John Steinbeck là cuốn Của Chuột Và Người (Of Mice and Men) (1937), dựng nên một câu chuyện bi thảm về hai nông dân ít học thức hằng mong mỏi một mảnh đất cho riêng mình để canh tác. Tác phẩm được đánh giá cao nhất là Chùm Nho Phẫn Nộ (The Grapes of Wrath) (1939; đoạt giải Pulitzer năm 1940), dựng nên câu chuyện của gia đình Joad, bị nghèo khó ở vùng hoang hóa Dust Bowl của tiểu bang Oklahoma, phải chuyển đến California trong giai đoạn khủng hoảng kinh tế của thập niên 1930. Quyển tiểu thuyết gây nhiều tranh cãi, được xem không những là truyện hư cấu nhưng có tính hiện thực mà còn là lời phản kháng xã hội đầy cảm động, đã trở nên một tác phẩm kinh điển trong nền văn học Mỹ. Là một trong những "tượng đài" văn học từ thập kỷ 1930, Steinbeck lấy chủ đề trung tâm là phẩm giá trầm lặng của những người cùng khổ, những người bị áp bức. Dù những nhân vật của ông thường bị vây bọc trong thế giới thiếu công bằng, họ vẫn giữ mình như là những con người đầy cảm thông và có anh hùng tính, tuy có thể bị khuất phục. John Steinbeck nhận Giải Nobel Văn học năm 1962. Tiểu thuyết của John Steinbeck đã được dịch ra tiếng Việt gồm có: Của chuột và người (Of Mice and Men, 1937) Chùm nho nổi giận, còn được dịch Chùm nho phẫn nộ hay "Chùm nho uất hận", (The Grapes of Wrath, 1939) Đoạt Giải Pulitzer năm 1940 Phía đông vườn địa đàng (East of Eden, 1952) Đồng cỏ nhà trời (The Pastures of Heaven, 1932) Tôi, Charley và hành trình nước Mĩ (Travels with Charley in search of America, 1961) *** Tin tức được lan truyền mau chóng trong thị trấn, qua những lời thầm thì trước cửa, bằng cái liếc nhanh đầy ngụ ý― “Thị trưởng bị giam giữ”. Khắp cả thị trấn lan ra một sự rộn ràng thầm lặng, một sự rộn ràng nhỏ nhoi nhưng mãnh liệt; người ta tụm lại thầm thì trò chuyện với nhau rồi tản đi; người đi mua thực phẩm nghiêng đầu sát vào người bán hàng và trong khoảnh khắc họ trao nhau lời nói. Dân chúng đi vào đồng ruộng, vào những khu rừng, tìm kiếm chất nổ. Và những đứa trẻ chơi đùa trong tuyết cũng tìm thấy chất nổ, đến lúc này cả những đứa trẻ cũng biết đến những lời chỉ dẫn. Chúng mở gói hàng, ăn phần sô-cô-la, và sau đó chúng chôn những thanh chất nổ trong tuyết rồi nói lại cho cha mẹ chúng vị trí chôn dấu. Ở tận ngoài đồng xa một người nhặt được ống chất nổ, hắn đọc lời chỉ dẫn và tự nói với mình, “Không hiểu nó có nổ được không.” Hắn cắm ống chất nổ vào trong tuyết và châm mồi, rồi vừa chạy lui ra xa vừa đếm. Nhưng hắn đếm hơi nhanh, nó nổ khi hắn đếm được đến 68. Hắn nói, “Ðược đấy,” rồi hắn vội bỏ đi, tìm những ống chất nổ khác. Gần như là có một hiệu lệnh, dân chúng đi vào trong nhà và đóng cửa lại, đường phố lặng ngắt. Ở hầm mỏ, quân lính cẩn thận lục soát từng người thợ đi vào trong hầm, lục soát rồi lại lục soát, và quân lính trở nên cáu kỉnh, cộc cằn, họ nói với những người thợ mỏ bằng những lời lẽ thô bạo. Những người thợ nhìn họ bằng ánh mắt lạnh căm, và đằng sau ánh mắt ấy có chút ít sôi sục rộn ràng. Trong phòng khách của dinh Thị trưởng chiếc bàn đã được dọn dẹp sạch sẽ, một người lính đứng gác ở ngay trước cửa phòng ngủ của Thị trưởng. Annie đang quì trước vỉ lò sưởi, gắp từng mẩu than bỏ vào lò. Bà ngước lên nhìn người lính gác đang đứng trước cửa phòng Thị trưởng Orden và bà nói với hắn bằng giọng gay gắt, “Này, mi làm cái gì với ông ấy đây?” Người línhh không trả lời. Cánh cửa ngoài mở ra một người lính khác bước vào, hắn nắm cánh tay của Bác sĩ Winter. Hắn đưa Bác sĩ Winter vào, đóng cánh cửa lại, đứng bên trong phòng chắn ngay trước cánh cửa. Bác sĩ Winter nói, “Chào Annie, Ðức ông khoẻ chứ?” Và Annie chỉ vào phòng ngủ nói, “Ông ấy ở trong đấy.” “Ông ấy không bệnh chứ?” Bác sĩ Winter nói. “Không, ông ấy chẳng có vẻ gì bệnh cả,” Annie nói. “Ðể tôi coi thử, có thể nói ông ấy biết là Bác sĩ ở đây.” Bà bước đến người lính gác và nói như ra lệnh. “Nói với Ðức ông là Bác sĩ Winter ở đây, mi có nghe không?” Người lính gác không trả lời và không cử động, nhưng từ phía sau, cách cửa mở và Thị trưởng Orden đứng ở ngưỡng cửa. Ông đi lướt qua, không để ý đến người lính, bước vào trong phòng. Trong thoáng chốc người lính như có ý kéo ông trở lại, nhưng rồi hắn qua lại vị trí cũ bên cạnh cửa. Orden nói, “Cám ơn, Annie. Ðừng đi xa đấy? Tôi có thể cần đến bà.” Annie nói, “Không đâu, thưa ngài. Phu nhân khoẻ chứ?” “Bà ấy đang làm tóc. Bà có muốn gặp bà ấy không, Annie?” “Vâng, thưa ngài,” Annie nói, và bà lại đi lách qua người lính gác, vào trong phòng ngủ, đóng cửa lại. Orden nói, “Ông có cần gì không Bác sĩ?” Winter nhếch môi cười mỉa mai và chỉ ra về người lính đứng phía sau lưng. “Vậy đấy, tôi đoán là tôi đã bị bắt. Ông bạn này dẫn tôi đến.” Orden nói, “ Tôi nghĩ rồi cũng đến nước này thôi. Tôi tự hỏi họ sẽ làm gì đây?” Hai người nhìn nhau một lúc lâu và người này chợt hiểu người kia đang nghĩ gì. Rồi Orden nói tiếp như ông chưa từng ngừng lời. “Ông biết không, tôi không thể ngăn được chuyện đó cho dù tôi có muốn đi nữa.” “Tôi biết,” Winter nói, “nhưng bọn họ thì không.” Ông nói tiếp điều ông đang suy nghĩ. “Một dân tộc coi trọng giờ giấc,” ông nói, “và giờ giấc đã gần điểm. Họ nghĩ rằng chỉ vì họ chỉ có một lãnh tụ và một cái đầu nên họ cho tất cả chúng ta cũng như vậy. Họ biết nếu mười cái đầu bị chặt đi họ sẽ bị tiêu diệt, nhưng chúng ta là những người tự do, chúng ta có bao nhiêu người thì có bấy nhiêu cái đầu, và đến lúc cần những lãnh tụ sẽ mọc lên trong chúng ta như nấm.” Orden đặt tay lên vai của Winter và ông nói, “Cám ơn. Tôi biết điều đó, nhưng nghe ông nói thật hay. Dân chúng thấp bé kia sẽ không bị khuất phục, đúng không?” Ông bồn chồn nhìn khuôn mặt của Winter dò hỏi. Bác sĩ Winter khẳng định với ông, “Sao, không, không đâu. Sự thực là họ sẽ trở nên lớn mạnh hơn với sự giúp đỡ từ bên ngoài.” Căn phòng im lặng một lát. Người lính gác hơi chuyển thế đứng, cây súng va vào một hạt nút nghe lanh canh. Orden nói, “Tôi có dịp nói chuyện với ông, Bác sĩ, và có lẽ tôi sẽ không thể nói chuyện với ông lần nữa. Trong đầu tôi đã nghĩ đến những điều hơi hổ thẹn.” Ông ho và liếc nhìn người lính đang đứng nghiêm, nhưng người lính không có vẻ nghe thấy gì hết. “Tôi đã nghĩ đến cái chết của tôi. Nếu họ cứ theo trình tự thông tường, họ phải giết tôi, và họ sẽ phải giết ông.” Và khi thấy Winter im lặng, ông nói, “Ðúng không?” “Ðúng, tôi đoán vậy.” Winter bước đến bên một chiếc ghế bịt vàng, vừa lúc sắp ngồi xuống, để ý thấy thảm bọc ghế bị rách, ông dùng ngón tay vuốt chỗ đệm ngồi như thể làm vậy sẽ vá nó lại được. Ông se sẽ ngồi xuống vì chiếc ghế đã rách. Orden nói tiếp, “Ông cũng biết, tôi sợ, tôi đã từng nghĩ những phương cách để trốn thoát, phủi tay. Tôi đã từng nghĩ đến việc bỏ chạy. Tôi đã từng nghĩ đến việc van xin tha mạng, và chuyện ấy làm tôi hổ thẹn.” Mời các bạn đón đọc Trăng Lặn của tác giả John Steinbeck.