Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Truyện Kể Genji - Murasaki Shikibu

Truyện kể Genji (源氏物語), là một trường thiên tiểu thuyết của nữ sĩ cung đình Nhật Bản có biệt danh là Murasaki Shikibu sống dưới trướng của thứ phi Akiko trong cung Fujitsubo, triều đại Thiên hoàng Nhất Điều (986-1011), không rõ tên thật của bà là gì. Truyện được sáng tác vào khoảng những năm 1010 thời đại Heian bằng chữ viết kana, theo thể loại monogatari (truyện) cổ điển đã có lịch sử phát triển từ 200 năm trước đó của Nhật Bản. Xoay quanh hình tượng nhân vật hoàng tử Genji trong phần chính và Kaoru, người con trai trên danh nghĩa của Genji trong phần thập thiếp cùng mối quan hệ của họ với những người phụ nữ, tác phẩm gồm 54 chương, thuộc một trong những truyện rất lớn về dung lượng, rất phức tạp về nội dung và rất quyến rũ về mặt hình thức trong lịch sử văn học thế giới. Trở thành một hiện tượng có một không hai đối với văn học nhân loại vào thời kỳ trung cổ tiền Phục Hưng: về mặt lịch sử truyện được đánh giá là tiểu thuyết theo nghĩa hiện đại đầu tiên của nhân loại, sớm hơn rất nhiều so với sự ra đời của tiểu thuyết ở châu Âu với tác phẩm Đôn Kihôtê của Miguel de Cervantes vào thế kỷ 16 *** Murasaki Shikibu (Kana: むらさきしきぶ; Kanji: 紫式部, Hán Việt: Tử Thức Bộ; 978 - 1016) là biệt hiệu của một nữ văn sĩ cung đình thời Heian Nhật Bản, tác giả của cuốn tiểu thuyết theo nghĩa hiện đại đầu tiên của nhân loại, kiệt tác Truyện kể Genji, được viết bằng tiếng Nhật vào khoảng năm 1000 đến 1012. Cái tên Murasaki Shikibu chỉ là biệt hiệu của bà, không ai biết rõ tên thật của bà là gì và bà sinh ra ở đâu, chỉ biết bà thuộc dòng dõi dòng họ Fujiwara và mất tại Tokyo, tuy một địa điểm tham quan phía Bắc Kyoto hiện nay được coi như mộ của bà. Murasaki Shikibu thuộc cành thứ của dòng họ lớn đang trị vì đất nước là họ Fujiwara. Thành viên của gia tộc này làm chức nhiếp chính thay cho các Thiên hoàng trong suốt phần lớn thời Heian, cùng tổ phụ về phía họ nội 6 thế hệ trước đó với Fujiwara Michinaga, quan đại chưởng ấn điều khiển việc nước trong buổi đầu thế kỷ 11. Tuy nhiên khi Murasaki Shikibu mới ra đời chi họ của bà bị tụt xuống hạng thứ trong giới quý tộc cung đình. Cha bà, ông Fujiwara no Tametoki (藤原為時) chỉ là một nhà thơ, người có địa vị khiêm nhường ở thủ đô và đã 2 lần làm tỉnh trưởng tỉnh Echizen. Không ai biết gì nhiều về thời thơ ấu của Murasaki Shikibu ngoài những điều bà tự nói với chúng ta. Trong lời mào đầu nổi tiếng của cuốn Nhật ký Murasaki Shikibu (Murasaki Shikibu nikki) mô tả các biến cố triều đình từ cuối 1008 đến đầu 1010 cho chúng ta biết cha bà, thấy con gái có khả năng trong việc học hành, đã than phiền bà không sinh ra là con trai. Cha bà trở thành tỉnh trưởng Echizen ở duyên hải Biển Nhật Bản, phía bắc Tokyo, vào năm 990 và bà đã đi theo cha đến nơi nhậm chức cho đến khi lấy chồng thì trở về. Murasaki vào triều hầu hạ thứ phi Akiko, con gái của Michinaga, trong cung điện Fujitsubo thời Thiên hoàng Ichijō (986-1011) trong khoảng giữa thập niên đầu của thế kỷ 11. Cuốn Nhật ký Murasaki Shikibu của Murasaki có nhắc đến sự ra đời của hai người con trai hoàng hậu và cả hai hoàng tử sau đó đều trở thành vua. Trong nhật ký của mình Murasaki cho biết bà vào triều ngày 29 tháng 12 âm lịch nhưng không cho biết năm, có thể là năm âm lịch 1005 và/hoặc 1006. Hoàng hậu Akiko góa chồng năm 1011, khi Thiên hoàng Ichijo băng hà, và Murasaki Shikibu còn ở lại trong cung phục vụ hai năm tiếp theo. Chịu sự giáo dục chu đáo, tỉ mỉ của một phụ nữ trẻ cùng tầng lớp trong cung, và mặc dầu có một trí tuệ khác thường, Murasaki Shikibu đã phải tiếp thu một cách chậm chạp nhưng chắc chắn tất cả những kiến thức văn hóa rộng lớn đương thời mà người thiếu phụ này truyền cho, từ lịch sử Trung Hoa, thơ ca trữ tình Trung Hoa và Nhật Bản cho đến các trước tác triết học Khổng giáo và Phật giáo. Về truyện hư cấu bằng văn xuôi, bà cũng chỉ biết không nhiều hơn là những trước tác buổi đầu của chính người Nhật Bản vào thế kỷ 10 và ngay cả văn xuôi trong văn học Trung Hoa đương thời, vốn không phải là loại hình được người Trung Hoa ca ngợi hay thành thạo vào thời đó. Murasaki Shikibu lấy chồng khoảng năm 998 hoặc năm 999, chồng là một người bà con xa với bà. Có lý do để tin rằng, so với thời bấy giờ bà lấy chồng khá muộn, có lẽ vào tuổi 20. Bà sinh được một con gái vào năm 999 và góa bụa vào năm 1001. Chịu nhiều đau khổ sâu sắc trong đời tư nên Murasaki Shikibu đã sớm rút lui khỏi thế giới trần tục và dồn sinh lực của đời mình vào việc học tập cũng như sáng tạo nghệ thuật. Bà đã đạt được những thành tích xuất sắc trong âm nhạc, thơ, hội họa, và đặc biệt là cuốn tiểu thuyết nổi tiếng Truyện kể Genji 54 chương, viết xong vào khoảng năm 1004, một kiệt tác đứng vào hàng lớn nhất của văn xuôi cổ điển Nhật Bản cũng như văn xuôi nhân loại. *** KIRITSUBO Dưới triều của một vị vua không rõ thời nào, trong số rất nhiều thứ phi và cung nữ, có một người tuy không thuộc dòng dõi quý tộc có đẳng cấp cao nhưng lại được nhà vua hết mực yêu chiều. Ngay từ đầu, nàng đã bị những người có địa vị cao và tự đắc về thân thế của mình ganh ghét, cho là vô lễ. Những người ngang bằng hoặc thấp hơn nàng về địa vị thậm chí còn khó chịu với nàng hơn. Ngày ngày, khi phụng sự nhà vua trong cung, nàng đã làm cho những người khác bực mình vì ghen tỵ. Và có lẽ vì những hờn giận ấy chồng chất quá nhiều nên sức khỏe của nàng cứ yếu dần. Nàng cảm thấy buồn phiền, cô đơn và hay trở về quê. Nhà vua lại càng thấy tội nghiệp cho nàng, không để tâm đến những lời đàm tiếu xung quanh. Tình cảm của nhà vua dành cho nàng trở thành một đề tài đàm tiếu quen thuộc của người đời. Tình yêu ấy khiến cho cả các vị quan lớn trong triều cũng cảm thấy bất ổn và cứ ngoảnh đi không muốn nhìn trực tiếp. Ở Trung Quốc thời Đường cũng xảy ra một chuyện như thế đã làm cho tình hình xã hội xấu đi dẫn đến loạn lạc. Dần dà, người đời cũng cho rằng đây là chuyện không hay và đem ví với chuyện nàng Dương Quý Phi với vua nhà Đường. Nàng cung phi ấy rất đau khổ nhưng vẫn sống nhờ vào tình cảm cao quý hiếm có mà nhà vua dành riêng cho nàng. Bố nàng là quan Dainagon nhưng đã qua đời. Mẹ nàng - được gọi là phu nhân sống ở cung phía Bắc - là một người nệ cổ và có hiểu biết. Nàng được bố mẹ dạy dỗ để có thể đảm đương mọi chuyện lễ nghĩa trong cung đình không kém gì những người được xã hội đương thời trọng vọng nhưng nếu có chuyện gì thì vẫn thiếu người hậu thuẫn, nên không khỏi cảm thấy cô đơn vì thiếu nơi nương tựa mỗi khi có chuyện bất ngờ. Có lẽ vì duyên nợ sâu nặng từ tiền kiếp, nàng cung phi Kiritsubo đã sinh hạ một hoàng nam có vẻ đẹp rực rỡ lạ thường và trong sáng như một viên ngọc quý. Nhà vua rất nóng lòng mong được gặp con nên khi vừa hết thời gian ở cữ là ngài vội vã mời cung phi và hoàng tử về cung. Trông thấy hoàng tử lúc ấy mới là một đứa trẻ sơ sinh, nhà vua đã nhận thấy con mình có khí sắc phi thường. Hoàng tử thứ nhất của nhà vua là con của hoàng phi con gái quan Hữu đại thần, có thế lực hậu thuẫn rất tốt tại triều đình và theo sự ngưỡng vọng của dân tình lúc đó thì "chuyện chàng được kế thừa ngôi vua không còn gì có thể nghi ngờ nữa". Nhưng hoàng tử mới ra đời lại có vẻ đẹp không ai sánh bằng. Vì thế nhà vua vẫn hết lòng yêu quý hoàng tử thứ nhất như một người con bình thường, còn với hoàng tử mới sinh thì ngài dành cho một tình yêu vô hạn và nâng niu như một báu vật của riêng mình. Mẹ của chàng hoàng tử vốn không phải thuộc loại cung nữ tầm thường chỉ chuyên làm công việc hầu hạ. Mọi người đều biết rằng nàng được nhà vua hết mực yêu thương và cũng có địa vị khá cao trong cung đình. Nhà vua lúc nào cũng muốn giữ nàng bên cạnh. Bất cứ cuộc vui tao nhã nào trong cung, nhà vua cũng cho gọi nàng trước hết. Cũng có lúc nhà vua qua đêm với nàng, và hôm sau lại tiếp tục giữ nàng ở lại không cho về, nên tất nhiên nàng bị những người khác coi thường, cho là loại người thiếu ý tứ và hời hợt. Sau khi nàng sinh hạ hoàng nam thì tình yêu thương của nhà vua đối với nàng càng sâu đậm hơn bao giờ hết. Vì vậy mẹ của hoàng tử thứ nhất cũng lo lắng nghĩ rằng "biết đâu hoàng tử nhỏ này chiếm được vị trí đông cung". Hoàng phi này vào cung sớm nhất và cũng được nhà vua rất yêu thương, quý trọng. Nàng cũng đã sinh cho nhà vua hoàng tử và các công chúa nhưng đôi khi những điều nàng hay phàn nàn không khỏi làm cho nhà vua cảm thấy "phiền toái, buồn lòng". ... Mời các bạn đón đọc Truyện Kể Genji của tác giả Murasaki Shikibu.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Cuộc Tình Bỏ Đi - F. Scott Fitzgerald
Đây là cuốn tiểu thuyết Scott Fitzgerald khởi viết ngay sau Gatsby vĩ đại (The Great Gatsby – 1925) nhưng mất đến 9 năm (1934). Tên sách Tender Is the Night được dịch thành Cuộc tình bỏ đi (bản dịch của Mặc Đỗ, NXB Hội Nhà Văn in lại 2003), trong khi một số bài báo hoặc website tạm dịch thành Đêm dịu dàng (hoặc Dịu dàng là đêm). Có lẽ, NXB / dịch giả phần nào lấy ý từ khái niệm “thế hệ bỏ đi” mà chính nhà văn là chứng nhân của “thời đại nhạc jazz” và cũng là người mô tả rất hay qua Gatsby vĩ đại. Xin mở ngoặc: dịch giả Mặc Đỗ cũng là người đã dịch cuốn The Great Gatsby vào thập niên 1950 với tựa đề Con người hào hoa. Mặc dù tên tuổi Fitzgerald được xem như một trong những nhà văn Hoa Kỳ xuất sắc nhất, nhưng dường như cuốn sách này không gây được tiếng vang tại Việt Nam, thậm chí ít người biết đến. Tender Is the Night là một tiểu thuyết hay nhưng không quá hấp dẫn (ít nhất là qua bản tiếng Việt). Thật ra, những trăn trở, hoang mang của những cuốn sách trước được tác giả nhìn lại và đưa ra những hướng đi mới hơn. Câu chuyện là cuộc sống của Dick Diver, một bác sỹ tâm thần trẻ tuổi và vợ là Nicole, cũng từng là một bệnh nhân của chồng mình. Họ sống trong một biệt thư xa hoa ở miền Nam nước Pháp. Những diễn biến kịch tính sau đó đã cho thấy sự bế tắc trong tâm hồn của mỗi nhân vật. Cuộc tình của Dick với Rosemary, của Nicole với Tommy không chỉ là chuyện tình cảm, mà chứa đựng nhiều bi kịch của con người và xã hội. (Lưu ý vợ của nhà văn cũng bị bệnh tâm thần). Bản dịch tiếng Việt viết theo giọng điệu và phương ngữ miền Nam kiểu cũ (chẳng hạn “bịnh nhân”), nên có thể bạn đọc ngày nay không quen tai lắm. Cá nhân tôi thấy phần cuối sách phần dịch không được trơn tru lắm, giống như dịch vội vàng hoặc do người khác thực hiện. In một cuốn sách từng được bình chọn trong danh sach 100 cuốn tiểu thuyết hay nhất nước Mỹ, nhưng NXB chẳng có lấy một dòng giới thiệu (thật ra họ tự ý lấy bản dịch cũ và xuất bản lại), kể cả xuất xứ của tên sách (trích từ bài thơ Ode to a Nightingale của John Keats). Thật hết sức đáng tiếc! Như vậy, “Cuộc tình bỏ đi” không chỉ là câu chuyện tình, không phải là cuốn sách dễ đọc dễ hiểu. Mỗi độc giả, với kinh nghiệm sống và vốn đọc khác nhau, sẽ có những rút tỉa và niềm vui thú khác nhau khi đọc tác phẩm này. *** Francis Scott Key Fitzgerald là một nhà văn Mỹ, nổi tiếng với các tác phẩm về "thời đại nhạc Jazz". Sinh ra trong một gia đình theo đạo Cơ đốc Ireland. Năm 1913 Fitzgerald vào Đại học Princeton nhưng sắp tốt nghiệp thì bỏ học vào lính. Thời gian phục vụ trong quân đội Fitzgerald bắt đầu viết cuốn tiểu thuyết đầu tiên This Side of Paradise (Phía bên kia địa đàng, 1920). Sau khi xuất bản cuốn tiểu thuyết này Fitzgerald cưới vợ và bắt đầu nổi tiếng. Cũng trong thời gian này ông in tập truyện ngắn đầu tay Flappers and Philosophers (Những cô nàng và những triết gia, 1920). Tiểu thuyết thứ hai The Beautiful and Damned (Đẹp và đáng nguyền rủa, 1922) kể về cuộc hôn nhân khổ sở của hai con người tài năng và quyến rũ. Năm 1923 ông viết và dựng vở kịch Vegatable (Rau cỏ, 1923) bị thua lỗ nhưng sau đó viết tiểu thuyết The Great Gatsby (Gatsby vĩ đại, 1925) được giới phê bình đánh giá là kiệt tác, là một trong những tiểu thuyết hay nhất nước Mỹ.   Mời các bạn đón đọc Cuộc Tình Bỏ Đi của tác giả F. Scott Fitzgerald.
Con Sẻ Vàng - Donna Tartt
Tác phẩm của Donna Tartt mang đến suy nghiệm về những đau đớn, mất mát làm nên số phận một con người. Con sẻ vàng của Donna Tartt mang đến cho độc giả một "bom tấn" của văn học đương đại. Tác phẩm của tiểu thuyết gia Mỹ vừa được dịch sang tiếng Việt. Hơn chín trăm trang sách dày đặc những trải nghiệm và đợt sóng cảm xúc, đưa độc giả vào hành trình đầy sóng gió của Theodor Decker (hay còn gọi là Theo), từ khi ở tuổi thiếu niên đến khi trưởng thành. Cuộc đời của Theo gắn liền với bức họa Con sẻ vàng, như lời tâm sự của cậu: "Nhìn bức tranh tôi lại trải qua cảm giác vạn vật đang tụ về một điểm: một giây phút nắng chói thoáng qua, tồn tại chớp mắt và vĩnh viễn. Chỉ thi thoảng lắm tôi mới nhận ra sợi xích buộc chân chú chim, hay nhận ra cuộc đời thật tàn nhẫn đối với một sinh linh bé bỏng như thế...". Con sẻ vàng được chuyển ngữ từ tiểu thuyết The Goldfinch (2013) của nhà văn Mỹ Donna Tartt (1963). Amazon chọn tác phẩm là Cuốn sách hay nhất năm 2013. Tiểu thuyết thứ ba này được Donna Tartt viết trong 11 năm, đoạt giải Pulitzer năm 2014. Warner Bros và Amazon Studios đang chuyển thể sách thành phim, do John Crowley đạo diễn. *** "Con sẻ vàng" là cuốn tiểu thuyết với lối kể chuyện đầy sinh lực, gây sửng sốt. Những nhân vật sống động gây ấn tượng mạnh, giọng văn mê hoặc, xen với những khúc chờ nín thở, lại có khi trùng xuống với cái bình thản triết gia với những bí ẩn sâu lắng nhất của tình yêu, con người, nghệ thuật. Tiểu thuyết này được giới phê bình và độc giả đánh giá cao, được Amazon bình chọn là Cuốn sách của năm 2013, lọt vào danh sách Best-seller của tờ The New York Times suốt 39 tuần. Ngoài ra, tiểu thuyết "Con sẻ vàng" sẽ được đưa lên màn bạc sau khi Warner Bros Studio đã giành được quyền làm phim. Và Brett Ratner (đạo diễn phim Giờ cao điểm) sẽ đảm nhiệm vai trò đồng sản xuất phim cùng với Brad Simpson và Nina Jacobson, nhà sản xuất từng đoạt giải BAFTA với phim The Hunger Games.  *** Donna Tartt là một nhà văn người Mỹ, tác giả của tiểu thuyết Lịch sử bí mật, Người bạn nhỏ và The Goldfinch. Tartt đã giành giải thưởng văn học WH Smith cho Người bạn nhỏ năm 2003 và Giải thưởng Pulitzer dành cho tiểu thuyết Goldfinch năm 2014.   Mời các bạn đón đọc Con Sẻ Vàng của tác giả Donna Tartt.
Biển - John Banville
Ngay từ khi ra đời, cuốn sách đã gây nhiều dư luận trái chiều, nhưng vượt lên những lời phủ định thành kiến, The Sea (Biển) của John Banville đã giành giải thưởng Man Booker 2005 và được hàng triệu người trên thế giới biết đến như một áng văn chương tuyệt đẹp làm lay động lòng người bởi tinh thần bi tráng và nỗi hồ nghi sắc bén. Câu chuyện không bắt đầu bằng sự kiện mà khởi đầu bằng tâm trạng, nỗi mất mát, sự từ bỏ và hoang mang xáo trộn. Max Morden, một trí thức trung niên, nhà nghiên cứu nghệ thuật, sau cái chết của người vợ, đã quyết định khép kín cuộc sống của mình, làm chuyến du hành về quá khứ.  Và từ đây mở ra thế giới của hồi ức, nhưng là những hồi ức đã bị cắt lìa khỏi sự quy chiếu thực tại, khỏi những cảm xúc và sự chủ động của con người thực tại, thế giới của những kẻ thực ra là đã chết ngay từ khi họ còn hít thở, ăn uống, thậm chí yêu đương… Như chính lời của họ, “chỉ còn như những bức tượng chân dung bị đổ ngã của chính mình”.  Ngay từ khi trở về ngôi nhà nghỉ thuở ấu thơ bên bờ biển, sau gần nửa thế kỷ, Max Morden đã chán chường bực tức vì cảnh vật và mọi điều vẫn y sì như cũ, chi tiết tưởng như vô lý này cho ta hiểu một ý nghĩa khác, cái khả năng chủ động lục tìm hồi tưởng lại cảnh cũ người xưa của anh ta đã hoàn toàn bị vô hiệu hay là không hề được đề cập tới.  Và quả thực suốt phần đầu của tác phẩm, Max Morden giống như bị trôi dạt nhồi dập trên những kỷ niệm và rãnh mòn của đời sống quá khứ. Chỉ cần nghĩ tới việc phải đi cắt cỏ, là anh ta đã “thấy mình ở đó rồi, sơ mi xắn tay, quần ống rộng, nhễ nhại mồ hôi, bước thấp bước cao sau cái máy cắt, mồm dính cỏ, ruồi bu trên đầu”.  Dường như chỉ có những “rãnh mòn" ngơ ngẩn tức cười như thế là cái còn lại, sau chừng ấy năm sống. Và những kỷ niệm, cũng chẳng phải là cái gì ngọt ngào êm dịu mà giống như một xô xốc những hình dung về cái tréo nghoe, bất mãn, tồi tệ, xấu xí, một cách hiển nhiên, trong đó nổi bật lên cảm giác bơ vơ nhỏ nhoi của thân phận và những ẩn ức tính dục ngùn ngụt được giãi bày một cách tự nhiên và mạnh mẽ.  Nhân vật của Biển là tù nhân của những khiếm khuyết đau buồn, ẩn ức tính dục và cả những bí ẩn ngẫu nhiên trong cuộc sống thời thơ ấu của mình. Và John Banville đã miêu tả một cách tuyệt vời khéo léo cái thế giới đóng kín hoá thạch của những hồi ức, với vẻ vừa tức cười vừa quái lạ của con người và cảnh vật, được tái hiện bằng những cảm giác và tâm trạng siêu hình.  “Tôi đã ở đó mà không phải ở đó, là chính mình và hài lòng, vừa bị giam cầm chặt chẽ trong cái khoảnh khắc ấy mà lại vẫn lửng lơ sẵn sàng từ bỏ nó ra đi. Có lẽ toàn bộ cuộc đời cũng chỉ là một cuộc chuẩn bị dài để từ bỏ nó mà thôi.”  Cảm giác vô nghĩa về thực tại, sự mất sạch những cảm xúc hiện sinh trở đi trở lại trong phần đầu tác phẩm càng được nhấn mạnh khi Max Morden kinh ngạc nhận ra rằng những gì anh ta hình dung từ thuở bé về tương lai của mình đã hoàn toàn đúng như những gì diễn ra; và cái hình dung đó thực ra là một khuôn mẫu sẵn có đã được vạch sẵn từ trước như một tinh thần xã hội, mà nếu tại thời điểm này cho anh ta chọn lại như thuở bé thơ chắc chắn cũng không thể có lựa chọn nào khác.  Khép lại một vòng luẩn quẩn của của tồn tại, nỗi đau đớn và cảm giác bất lực như những thứ duy nhất còn lại sau gần nửa thế kỷ tiêu phí và trải nghiệm cuộc sống, phần đầu tác phẩm cho người đọc hình dung những cố gắng gần như tuyệt vọng mà cảm động của con người khi bị nhồi lắc trên sóng biển vô minh, kiếm tìm một điểm đến của tinh thần, kiếm tìm điều khả dĩ có thể coi là bản lai diện mục.  Phần sau của tác phẩm, nhà văn đã để cho bạn đọc chùng lại nghỉ ngơi với việc kể nốt câu chuyện, những ham muốn tình dục đầu tiên của cậu bé Max Morden rất tự nhiên đúng lối gửi vào bà mẹ Grace đẫy đà phốp pháp đã nhanh chóng chuyển thành tình yêu đầu vụng dại với cô con gái Chloe. Cái chết vừa ngẫu nhiên bất ngờ vừa tự nguyện của Chloe và cậu em sinh đôi, vừa là chết thực vừa đùa bỡn với cái chết, đã gieo vào tâm trí cậu bé Max đang lớn còn chưa kịp khám phá trò chơi thân thể lần đầu tiên, ý niệm về sự tuyệt đối bất khả cưỡng của cái chết.  Cái chết của Anna, người vợ hiền sau đó chính là sự tước bỏ cuối cùng đối với Max Morden, vốn đã chẳng có nhiều nhặn gì những người thân ở bên, nhưng lại được sống qua một cuộc đời quá đỗi yên bình.  Giả định mà nhà văn đặt ra qua lời của Anna, mỗi con người chỉ được tạc nặn nên nhờ vào mối quan hệ của anh ta với những người khác, đã hoàn toàn đúng với Max. Tại sao anh không là những gì anh thích, mà lại cứ phải trở thành một người nào đó, như thế này hoặc như thế kia?  Câu hỏi của Anna dành cho Max cũng sẽ là câu hỏi cứ vấn vương trong tâm trí nhiều người, khi mà thực ra chúng ta cũng giống như Max, suốt đời là tù nhân của những ẩn ức, của những mất mát hay khiếm khuyết, của ham muốn được sống trưởng giả yên bình và của những cá nhân khác? Đặt ra câu hỏi này, nhưng chính nhà văn cũng là người hiểu rõ hơn hết, sự bất lực vô minh của con người trong thế giới đương đại trước hình dung về bản ngã chính mình.  Không có biến cố, hay nói cách khác là đã dìm kể cả những biến cố lớn như cái chết vào dòng chảy phẳng lặng của biển tồn tại muôn đời; không có thiện ác, có phần buông lơi cả trách nhiệm cá nhân; câu chuyện của Banville về đời sống bình thường, thậm chí tầm thường của một người đàn ông run rảy với bản năng sinh tồn, siêu hình và bế tắc trong kiếm tìm bản ngã, chính là ẩn dụ xác thực cho thời đại chúng ta đang sống.  *** John Banville sinh tháng 12 năm 1945 tại Wexford, Ireland. Cuốn sách đầu tiên của ông, Long Lankin, được xuất bản năm 1970. Các cuốn khác là Nightspawn, Birchwood, Doctor Copernicus (đoạt giải James Talt Black Meomorial Prize năm 1976), Kepler (đoạt giải Guardian Fiction Prize năm 1981), The Newton Letter, Mefisto, The Book of Evidence (lọt vào chung khảo Booker Prize năm 1989 và giành giải Guinness Peat Aviation Award), Ghosts, Athena, The Untouchable, Eclipse và Shroud. Hiện John Banville sống tại Dublin. John Banville được trao giải thưởng Franz Kafka năm 2011. Ông cũng viết tiểu thuyết tội phạm dưới bút danh Benjamin Black. Mời các bạn đón đọc Biển của tác giả John Banville.
Tình Yêu Màu Hoa Anh Túc - Tần Vô Y
Tình yêu màu hoa anh túc là một câu chuyện tình yêu nhẹ nhàng và sâu lắng của tác giả Tần Vô Y. Hoa anh túc – đặc biệt là hoa anh túc màu cam là loại hoa mà nhân vật nữ chính Hà Như yêu thích. Hoa tượng trưng cho sự trân trọng tình cảm của người khác. Đó cũng chính là sắc thái chung của những tình yêu trong truyện. Một Hà Như thông minh, mạnh mẽ, xinh đẹp, yêu thích cuộc sống tự do, luôn thấy tình yêu là chuyện xa vời và không coi trọng chuyện hôn nhân nhưng thực sự trong lòng luôn chất chứa những kỷ niệm và trân trọng tình cảm mà Tiếu Thiên – người yêu của tám năm trước để rồi dằn vặt, đau khổ và khó xử với tình cảm tha thiết chân thành của Đông Khởi ở hiện tại. Một Đông Khởi đã từng kết hôn vội vã, có con bất ngờ và ly hôn cũng nhanh chóng luôn cố gắng vun đắp và nắm giữ tình cảm hiện tại. Một Tiếu Thiên luôn giằng xé giữa tình cảm xưa cũ với Hà Như và bối rối, hoang mang trước tình cảm của Thu Địch - hai người con gái đã bỏ anh sang Mỹ và anh phải sang tận nước Mỹ xa xôi để tìm lại họ. Bạch Qủa, Giang Cốc, Phi Phi, Thu Địch… cũng chất chứa trong mình những tình cảm tiếc nuối, trân trọng quá khứ và hoang mang trước hiện tại. Họ cố gắng sống, yêu và lắng nghe lời trái tim và lý trí mách bảo để tìm được tình yêu thật sự …​ *** Lễ Phục Sinh qua thì tết Tây lại đến, các cửa hàng bắt đầu trang hoàng rực rỡ để đón chào lễ tạ ơn và giáng sinh tiếp theo đó. Không khí vui tươi háo hức tràn ngập khắp nơi. Hà Như gọi điện cho Tôn Ánh báo chuyện Michelle đã đồng ý giúp. Nhưng điều bất ngờ hơn là sau khi cảm ơn cô, Tôn Ánh nói cô đang làm thủ tục di dân sang Canada, tình hình có vẻ khả quan nên có thể không kịp đến Los Angeles biểu diễn. Hà Như nghe vậy có phần hơi tiếc và buồn nhưng vì sao buồn thì chính bản thân cô cũng không rõ. Vào tháng 11 thì công việc và chuyện cá nhân của Lưu Đông Khởi ngày một khởi sắc, nhưng còn việc tranh chấp quyền nuôi dưỡng bé Cầm lại làm cho anh buồn lo. Riêng Phi Phi, tháng mười về nước, ở Thượng Hải hai tuần. Trong thời gian này cô cứ chạy tới chạy lui như ngựa không đứng vó. Cô muốn lấy danh tiếng tập đoàn bảo hiểm đa quốc gia của mình tìm thêm đối tác ở Trung Quốc, mở thêm chi nhánh. Cô tìm đến rất nhiều công ty, trong đó có cả công ty bảo hiểm Viễn Đông, muốn hùn mua ít cổ phần để mở đại lý của mình. Không biết nhờ ai giới thiệu, cô gặp được Cố Thôn. Nhờ Cố Thôn giúp, cuối cùng chuyện mở chi nhánh của cô cũng đã tiến triển khá khả quan. Sau đó đầu tháng mười một cô đi Lộc Đảo để gặp con. Nhưng cô không ngờ rằng hai mẹ con sau bảy năm cách biệt lại gặp nhau ở một hoàn cảnh éo le, đó là bệnh viện nhi đồng. Lưu Cầm tiền sử đã có bệnh khó thở, cứ được một thời gian lại tái phát, mức độ nặng nhẹ khác nhau. Bình thường uống vài viên thuốc là khỏi. Nhưng lần này cuối thu đầu đông, trời trở lạnh, không cẩn thận nên cháu bị nhiễm lạnh. Ban đầu là húng hắng ho, sau đó sốt cao. Ông bà Lưu Đông Đào không nghĩ bệnh của cháu nội mình lại nghiêm trọng thế nên cứ như trước, cho cháu uống vài viên thuốc. Hai ngày sau đó, cổ họng bé Cầm bắt đầu viêm, tiếp theo sau là viêm phổi cấp tính. Lúc này hai Ông bà mới cuống lên,vội vàng đưa cháu đi cấp cứu, tiêm thuốc và truyền nước biển. Ròng rã suốt hai ngày trời hai ông bà không hề chợp mắt mà cũng không dám báo cho Đông Khởi, sợ anh lo. ... Mời các bạn đón đọc Tình Yêu Màu Hoa Anh Túc của tác giả Tần Vô Y.