Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Lược Sử Đời Tôi

Stephen Hawking đã khiến độc giả trên khắp thế giới phải sửng sốt bởi loạt sách rất được yêu thích về chủ đề khám phá những bí ẩn của vũ trụ. Giờ đây, có lẽ là lần đầu tiên nhà vũ trụ học thông thái nhất trong thời đại của chúng ta đang nhìn lại cuộc đời mình cũng như quá trình tiến bộ về tư duy khoa học của bản thân. Tác phẩm Lược Sử Đời Tôi thuật lại chặng đường gần như không tưởng của Stephen Hawking, từ thời niên thiếu ở London sau chiến tranh cho đến giai đoạn ông trở nên nổi tiếng trên khắp thế giới và được ca ngợi. Với một lượng lớn hình ảnh chưa được công bố cùng lời chú thích ngắn gọn, hóm hỉnh và chân thật, Lược Sử Đời Tôi đã đưa độc giả đến với một Stephen Hawking được nói đến rất ít trong những cuốn sách trước đây: một cậu học sinh luôn tọc mạch được các bạn cùng lớp đặt cho biệt danh Einstein; một tay cá cược khi đã từng đánh cược với một đồng nghiệp về sự tồn tại của một lỗ đen đặc biệt, và một người cha, người chồng trẻ đang đấu tranh để có được một vị trí trong giới vật lý và vũ trụ học. Với sự khiêm tốn và hóm hỉnh chỉ có ở riêng Hawking, ông đã cho độc giả thấy được những thách thức mà ông phải đối mặt sau khi bị chẩn đoán đoán nhiễm chứng bệnh ALS ở tuổi hai mươi mốt. Miêu tả về sự tiến bộ của bản thân như một nhà tư tưởng, ông giải thích làm thế nào mà cuộc sống rất có thể phải sớm kết thúc của ông lại thôi thúc ông tiến lên để đạt được những bước đột phá về trí tuệ, đồng thời cũng nói về nguồn gốc kiệt tác Lược sử thời gian - một trong những cuốn sách tiêu biểu của thế kỷ 20. Tinh tường, sâu sắc và khéo léo, Lược Sử Đời Tôi  mở ra cánh cửa cho chúng ta tiến vào vũ trụ của chính Hawking. *** Nếu tôi không có quyết tâm đủ, bây giờ tôi sẽ không ở đây. Stephen Hawking Stephen Hawking đã trở thành biểu tượng bất tử của một thiên tài khuyết tật, như mọi người đều biết, tên tuổi vang danh từ Đông sang Tây, chỉ sau Albert Einstein. Cuộc đời ông đầy trắc trở và bi kịch. Ông lấy nguồn cảm hứng từ trên trời, định mệnh lại luôn luôn muốn kéo ông xuống đất, nhưng ông không chịu đầu hàng. Ông ngước nhìn trăng sao, thiên hà, vũ trụ, “lỗ đen” , “lỗ sâu đục” , “du hành thời gian” , những định luật nền tảng của vũ trụ, nhưng vất vả, vấp ngã rồi lại đứng lên trong thân phận của một kẻ bị định mệnh “xử” bất lực cơ thể mình do chứng bệnh ALS nghiệt ngã gây ra. Chưa đủ, ông lại mất đi vĩnh viễn tiếng nói sau một ca phẫu thuật cứu cấp khi đi dự Hội nghị tại CERN năm 1985. Từ đó ông chỉ còn giao tiếp được qua chiếc máy tính điện tử với những chương trình phần mềm đặc biệt dành cho ông. Với tình trạng vô cùng chật vật ấy, vậy mà ông đã viết bảy cuốn sách nổi tiếng cho thế giới. Nhưng ông cũng có những “thiên thần” hộ mạng. Jane Wilde là người vợ đầu tiên của ông, Elaine Mason là người vợ thứ hai. Mỗi người đã cứu giúp ông một cách. Jane Wilde, yêu và cưới Stephen Hawking dù biết chồng tương lai mình bị căn bệnh hiểm nghèo ALS, đã giúp đẩy lùi nỗi tuyệt vọng ở tuổi xuân 21. Cô đã đem lại ý nghĩa sống cho ông, làm sống lên khát vọng khám phá khoa học như ý nghĩa của cuộc đời. Cô cũng quyết định không chịu rút ống thở ra cho Hawking, ngược lại lời khuyên từ sự tuyệt vọng của các bác sĩ, cô tìm cách cứu ông, “còn nước còn tát”. Cô cho ông ba đứa con kháu khỉnh và thành đạt. Còn Elaine Mason cũng đã cứu ông ba lần với tư cách một y tá điều dưỡng. Mỗi người như muốn kê vai gánh bớt gánh nặng của ông. Năm nay ông đã 72 tuổi, nửa thế kỷ vượt qua chẩn đoán hai năm sống sót của bác sĩ dành cho ông. Một điều kỳ diệu. Và lại nổi tiếng khắp thế giới. Lại kỳ diệu hơn. Tình yêu của ông mạnh mẽ đối với vũ trụ, nhưng cũng không thiếu phần sôi nổi với người yêu. Tinh thần ông dường như đã kéo lê cơ thể ông, buộc phải sống tiếp trong mọi tình huống để phụng sự cho khoa học. Đó là mệnh lệnh. Ông phải sống cho khoa học. Giống như nhà thơ Friedrich Schiller, đáng lẽ đã chết mười năm trước, như bác sĩ chẩn đoán, nhưng vẫn còn sống tiếp vì những ý tưởng văn chương của ông chưa viết hết. Stephen càng bị tước mất khả năng vật lý, thì các ý tưởng của ông lại càng phát triển thêm, tên tuổi ông càng nổi bật, quyết không chịu thua định mệnh. Hawking thường tự hào là người sinh đúng 300 năm sau ngày mất của Galilei (8 tháng 1,1642 của Galilei, và 8 tháng 1, 1942 của Hawking). Một sự tình cờ đặc biệt? Cũng như sự tình cờ Newton sinh đúng vào năm Galilei mất? Hawking cảm nhận có điểm chung giữa hai người đã phải chịu những nghịch cảnh nhưng luôn sôi sục sức sống, muốn cống hiến cho khoa học, và cho nhân loại. Nếu Galileo Galilei là nhà khoa học lớn nhất và đầu tiên của đại chúng trong lịch sử vào thế kỷ 17 - không phải Isaac Newton - thì Stephen Hawking là nhà khoa học lớn nhất của đại chúng thế kỷ 20, chỉ sau Albert Einstein. Tác phẩm Lược sử thời gian của ông bán trên 10 triệu bản, được dịch ra trên 40 thứ tiếng trong đó có tiếng Việt, một kỷ lục chưa từng có trong lịch sử khoa học. Hawking là người có vinh dự lớn thừa kế vị trí của Newton và Dirac trên chiếc ghế giáo sư toán Lucas được thành lập năm 1663-64. Ông cũng là thành viên của Hàn lâm viện Anh, Royal Society, một trong những tổ chức học thuật lâu đời nhất (1660) , và thành viên của Hàn lâm viện khoa học Hoa Kỳ, một tổ chức rất danh giá và uy tín. “Chúng ta hằng lo cuộc sống hàng ngày nhưng không hiểu hầu như chuyện gì của vũ trụ. [... ] Trong xã hội chúng ta, các bậc cha mẹ và thầy cô vẫn thường có thói quen trả lời những câu hỏi [về vũ trụ] với sự nhún vai, hay với sự viện dẫn các giáo huấn tôn giáo được nhắc lại mơ hồ. [... ] Đây là một quyển sách về Chúa... hay có lẽ về cả sự vắng mặt của Chúa. [... ] Hawking lao vào cuộc tìm kiếm câu trả lời cho câu hỏi nổi tiếng của Einstein rằng Chúa có sự chọn lựa nào hay không khi tạo ra vũ trụ.” Đó là những lời của nhà thiên văn học Mỹ Carl Sagan viết trong lời tựa cho quyển Lược sử thời gian. Tuy ông đi tìm ý Chúa, muốn hiểu bản đồ vũ trụ của Ngài, nhưng một trong những kết luận nổi tiếng của ông cuối cùng là, với kỹ thuật thời gian ảo, vũ trụ không có điểm khởi đầu cũng như kết thúc, và không có gì để cho Đấng Sáng thế làm cả. Trong một chương trình truyền hình, ông nói: “Chúng ta là những sinh linh tầm thường trên một hành tinh thứ yếu của một vì sao trung bình trong các vùng ngoại ô của một trong ngàn triệu thiên hà. Cho nên rất khó để tin vào một Chúa chăm lo chúng ta, hay ghi nhận sự tồn tại của chúng ta.” Cũng giống như Einstein, Hawking có sự thôi thúc phải đi tìm những định luật vĩnh cửu của thế giới trên trời. “Tôi có thể thấy các vì sao đã thu hút nó thế nào” , mẹ ông thuật lại. Ông nhớ lại những ấn tượng đẹp, đó là vào những lúc ông đi về nhà khuya từ London, đèn đường đã tắt vào nửa đêm để tiết kiệm điện, “Tôi nhìn bầu trời đêm chưa bao giờ như trước đó, với dải Ngân Hà nằm vắt ngang.” Đi tìm một lý thuyết cắt nghĩa được mọi thứ sẽ giúp chúng ta “hiểu thêm ý Chúa”. Cái nghiệt ngã của bệnh tình và quyết tâm chống trả số phận để vươn lên từ vực thẳm của tuyệt vọng với những khuyết tật kinh khủng như vậy, cùng việc kết hợp thuyết tương đối rộng và cơ học lượng tử để sáng tạo ra công thức bức xạ cho lỗ đen, cho biết độ bức xạ thoát ra lỗ đen, nghĩa là lỗ đen không còn là đen tuyền như người ta nghĩ nữa, một trong những công trình tuyệt vời, cùng với tài diễn tả và trình bày độc đáo trong sách đại chúng như trong Lược sử thời gian và những cuốn sách khoa học khác khiến cho Hawking xứng đáng là thần tượng của mọi người. Ở Pháp và nhiều nơi trên thế giới vừa chiếu cuốn phim về ông, The Theory of Everything (Lý thuyết của mọi thứ) , tên một quyển sách của ông, nhưng câu chuyện dựa trên quyển tự truyện của người vợ đầu Jane Hawking có tên Travelling to infinity: My life with Stephen, (Du hành về miền vô cực: Đời tôi với Stephen) rất cảm động làm bao người mủi lòng Mời các bạn đón đọc Lược Sử Đời Tôi của tác giả Stephen Hawking.

Nguồn: dtv-ebook.com

Đọc Sách

Đêm Giới Nghiêm: Hồi ức về cuộc sống, tình yêu và chiến tranh ở Kashmir - Basharat Peer
Nằm giữa Ấn độ và Pakistan, Kashmir là một trong những nơi đẹp nhất trên Trái đất. Tuy nhiên, cuộc sống ở đây lại là một thực tế hoàn toàn khác. Kể từ khi phong trào ly khai bùng phát vào năm 1989, hàng vạn người đã bị giết trong cuộc chiến giành quyền kiểm soát khu vực này. Basharat Peer đã tái dựng hiện thực kinh hoàng của vùng đất này trong cuộc xung đột. Đó là câu chuyện về bước đầu gia nhập trại huấn luyện vũ trang ở Pakistan của một thanh niên, về một người mẹ chứng kiến con trai mình bị toán quân Ấn Độ buộc ôm một trái bom, về một nhà thơ đi tìm đức tin tôn giáo khi toàn bộ gia đình ông bị giết, về các chính khách sống trong các phòng tra tấn được tân trang, những ngôi làng bị xé toang bởi mìn và các đền thờ Sufi cổ kính bị đánh bom tan hoang… Tác phẩm là một thiên phóng sự của một cây bút trẻ can đảm, người mang cả một thế giới mới – sống động và chân thực – đến với độc giả. *** “Con người bị mắc kẹt trong lịch sử và lịch sử bị mắc kẹt trong con người.” • Những ghi chép của người con trai bản xứ, - James Baldwin “Cái thành phố, nơi không tin tức nào có thể đến được, lúc này hiện ra mồn một trong đêm giới nghiêm của nó đến nỗi thứ tồi tệ nhất cũng trở nên xác thực: Từ cầu Zero, một cái bóng bị rượt đuổi bởi ánh đèn pha đang bỏ chạy để đi tìm thân xác của nó.” • Đất nước không có bưu điện, - Agha Shahid Ali *** Tôi sinh ra vào mùa đông ở Kashmir. Làng tôi nằm trên rìa một rặng núi ở vùng phía nam của Anantnag. Bao quanh những ngôi nhà được đắp bằng bùn và gạch là những cánh đồng lúa xanh mướt vào đầu hè và vàng ươm khi thu đến. Vào mùa đông, tuyết trượt chầm chậm từ trên mái nhà của chúng tôi rồi đổ uỵch xuống mặt cỏ. Tôi và đứa em trai cùng đắp những thằng người tuyết với đôi mắt làm bằng những mẩu than vụn. Và khi mẹ bận rộn với việc nội trợ và Ngoại đi ra ngoài, chúng tôi phóng lên mái nhà, bẻ mấy cục nước đá trên đó, trộn chúng với hỗn hợp sữa và đường ăn cắp ở nhà bếp rồi cùng ăn món kem tự chế của mình. Bọn tôi thường đi trượt tuyết trên sườn đồi, nhìn xuống làng mình hoặc chơi cricket trên một cái hồ đóng băng. Chúng tôi cũng liều, vì chơi như thế có thể bị Ngoại, cũng là hiệu trưởng của trường tôi, mắng mỏ hoặc đánh đòn. Nếu bắt gặp chúng tôi chơi cricket vào mùa đông, ông sẽ bộc lộ chủ trương chú trọng sách vở hơn là cricket bằng tiếng quát tháo khiếp đảm: “Cái lũ ăn hại!” Nghe tiếng quát quen thuộc của ông, mấy đứa chơi cricket tản ra và lẩn đi mất. Không chỉ lũ cháu ngoại mà tất cả trẻ con trong làng đều sợ ông thầy hiệu trưởng như lính sợ quân luật. Những chiều mùa đông, Ngoại và mấy người hàng xóm ngồi trước những cửa tiệm và sưởi ấm bằng kangris, một loại bình giữ lửa tiện dụng, rồi tán gẫu, hoặc nói chuyện tuyết rơi sẽ ảnh hưởng thế nào đến vụ mù tạt vào mùa xuân. Sau khi thầy tu báo giờ triệu tập cuộc lễ chiều, họ rời các cửa tiệm để về nhà, cho đàn gia súc ăn, cầu nguyện ở đền thờ trong làng, rồi quay lại mấy cửa tiệm đó để trò chuyện tiếp. ... Mời các bạn đón đọc Đêm Giới Nghiêm: Hồi ức về cuộc sống, tình yêu và chiến tranh ở Kashmir của tác giả Basharat Peer.
Mê Cung (Trích hồi ký của trùm tình báo đối ngoại phát xít Đức) - Walter Schellenberg
Chiến tranh Thế giới thứ II đã đi qua hơn nửa thế kỷ, nhưng những hồi ức đẫm máu của sự kiện bi thảm đó vẫn hằn sâu trong ký ức nhân loại. Biết bao cuốn sách đã phơi bày, phân tích mọi mặt chính trị, kinh tế, quân sự của cuộc chiến tranh khốc liệt ấy. Riêng về mặt tình báo, chúng ta cũng đã được biết đến bao câu chuyện ly kỳ của những điệp viên Liên Xô, Anh, Mỹ, Pháp v.v… nổi tiếng thế giới, nhưng có lẽ trình bày vai trò của hoạt động tình báo, ảnh hưởng của nó tới tiến trình chiến tranh một cách trung thực và cuốn hút thì phải kể đến cuốn Hồi ký của Walter Schellenberg. Cuốn sách thật đáng được đọc và có thể được coi là một tập tài liệu quan trọng lịch sử tình báo, về hoạt động tình báo ở nước Đức quốc xã, một trong những hung thủ gây ra cuộc chiến nhất là sự việc lại được đặt dưới góc nhìn của một trong những nhân vật hàng đầu trong làng tình báo phát xít, nguyên là cục trưởng Cục Tình báo Đối ngoại của nước Đức quốc xã. Khi bọn phát xít lên cầm quyền vào tháng 9 năm 1933, Schellenberg mới là một chàng trai 22 tuổi đang tuyệt vọng tìm kiếm việc làm trong tình trạng kinh tế kiệt quệ của một nước Đức thất trận trong Thế chiến thứ I. Ba năm trời học tại trường Đại học Tổng hợp Bonn, hết Khoa Y lại sang Khoa Luật, rốt cuộc cũng không đem lại cho chàng thanh niên một trình độ chuyên môn vững vàng nào. Giống như hàng nghìn sinh viên của các trường đại học Đức thời đó, Schellenberg chỉ còn cách trông cậy vào trí tuệ của bản thân, khi mà việc làm trong thời đó còn khó kiếm hơn sao trên trời. Giống như hàng ngàn người khác lâm vào hoàn cảnh đó, Schellenberg gia nhập Đảng Quốc xã không phải vì niềm tin, không phải vì chống đối, mà chỉ vì thấy đó là con đường triển vọng nhất để tiến thân. Để vận dụng học vấn đã thu nhận được một cách tốt nhất, Schellenberg cố len vào được hàng ngũ SS, được coi là đội ngũ tập hợp “những con người ưu tú nhất của nước Đức” thời đó, và tìm mọi cách để được vào làm việc ở SD - Cơ quan Tình báo và An ninh do Heydrich, một người trẻ tuổi khác cũng đang tìm cách ngoi lên trong chế độ phát xít, tổ chức và lãnh đạo. Cho đến cuối con đường công danh của mình (kết thúc khi Schellenberg mới 35 tuổi cùng với sự sụp đổ của nước Đức phát xít), thế giới của Schellenberg là thế giới của tình báo và cảnh sát mật, một thế giới mà những điều xảy ra ở đó vượt quá sức tưởng tượng, nơi mà những hành vi nhân bản bình thường và lòng chân thành là của hiếm, nơi khó thể tin vào bất cứ ai, một thế giới mà trong đó sự dối trá, hối lộ, âm mưu, phản trắc và bạo lực là những điều xảy ra hàng ngày. Schellenberg đã đắm mình trong vầng hào quang, lãng mạn không vững chắc của thế giới gián điệp và mật vụ đó và đã thuật lại tất cả một cách chân thực. Cuốn sách của Schellenberg là một bức tranh về chế độ quốc xã được mô tả bởi chính một người nằm trong tầng lớp lãnh đạo chóp bu của nó, như một chứng nhân lịch sử, nắm được mọi thông tin và trực tiếp thấy mọi điều xảy ra nơi trung tâm của quyền lực. Để có thể đánh giá được cuốn sách một cách đầy đủ và hiểu được các sự kiện và nhân vật có lẽ cũng nên nói sơ qua vài nét về vị trí và ý nghĩa của cái tổ chức mật vụ mà Schellenberg đã tạo lập công danh cho mình thời đó - tổ chức SD hay Cục An ninh SS. Tháng giêng năm 1929, khi Hitler bổ nhiệm Heinrich Himmler làm Thống chế đội SS, tổ chức này mới chỉ là đội bảo vệ riêng của Hitler và chỉ có hơn 300 người. Tới tháng giêng năm 1933 quân số của nó đã lên đến hơn 52 nghìn người và biến thành một đội quân tinh nhuệ của “Đội Xung kích áo nâu Quốc xã” SA. Trong thời gian xảy ra các cuộc đàn áp đẫm máu 30 tháng 6 năm 1934, khi lãnh đạo SA là Rohm bị ám sát, các phân đội SS của Himmler được giao toàn quyền bắt bớ, bắn giết và một tháng sau đó được công nhận là một lực lượng độc lập. Năm 1931 nội bộ SS tách ra một bộ phận chuyên về tình báo và an ninh gọi là SD dưới sự chỉ huy của Heydrich, phó thứ nhất của Himmler, sau đó bộ phận này được coi là cơ quan tình báo và phản gián duy nhất của Đảng Quốc xã. Suốt 15 tháng sau khi Hitler lên nắm quyền đã diễn ra một cuộc tranh chấp khốc liệt giữa Goering với cương vị bộ trưởng - thống đốc Phổ và Himmler, người đứng đầu cảnh sát Bavaria trên danh nghĩa và còn là thống chế lực lượng SS nhằm nắm quyền kiểm soát cơ quan Ghestapo[1]. Sự liên minh chặt chẽ giữa Heydrich và Himmler đã thắng, Goering phải nhường quyền kiểm soát Ghestapo cho Himmler vào tháng 4 năm 1934 và Himmler dần nắm trong tay toàn bộ lực lượng cảnh sát Đức vào tháng 7 năm 1936. Chức vụ này đã giúp cho Himmler xây dựng đế chế riêng của mình, và tới những năm cuối của cuộc chiến tranh đã lấn át cả nhà nước, Đảng Quốc xã và quân đội nhờ vào vị thế đặc biệt của lực lượng an ninh trong một chế độ độc tài. Sức mạnh của một nhà nước cảnh sát dựa trên nền tảng của hai nền tảng gắn bó khăng khít: tuyên truyền lừa mị và đàn áp. Công cụ đàn áp của nước Đức Hitler là RSHA - Tổng cục An ninh Đế chế - được thành lập vào năm 1939 bằng cách hợp nhất Cảnh sát An ninh Quốc gia, Ghestapo và Cục An ninh SS (SD) thành một tổ chức thống nhất. RSHA là con đẻ của Reinhard Heydrich, vị phó của Himmler. Nó tập trung toàn bộ lực lượng gián điệp và tình báo, thẩm vấn và bắt bớ, tra tấn và hành hình dưới quyền kiểm soát của sáu, bảy nhân vật, trong đó có Schellenberg, mà nhờ vào đó chế độ độc tài mới tồn tại. Chức năng của nó chia đều cho bảy cục mà trong sách chỉ nhắc tới bốn. Cục AMT-IV, nơi lúc đầu Schellenberg được bổ nhiệm công tác, phân thành nhiều ban. Schellenberg, với tư cách là trưởng ban AMT-IVE, được giao công tác phản gián cho Ghestapo trên lãnh thổ nước Đức và các nước bị chiếm đóng. Tháng 6 năm 1941, khi Đức bắt đầu tấn công Liên Xô, Schellenberg được bổ nhiệm đứng đầu AMT-IV và cải tổ nó thành Cục Tình báo Đối ngoại. Mùa hè năm 1944, sau khi giải tán Abwehr - Cục Tình báo của Bộ Tổng tư lệnh Đức, Schellenberg nhận thêm trách nhiệm hoạt động tình báo quân sự, và điều đã làm thỏa mãn tính hiếu danh của ông là được lãnh đạo cơ quan tình báo đối ngoại duy nhất của đế chế Đức. Schellenberg không dược liệt vào danh sách các lãnh tụ quốc xã. Ảnh của ông ta không xuất hiện trên báo, tên của ông ta ít người biết đến, Schellenberg thuộc số các nhà chính khách hoạt động sau hậu trường, “nhân vật kỹ thuật” của chế độ độc tài, và là người duy nhất trong số đó viết hồi ký. Dưới chế độ phát xít của Hitler luôn diễn ra cuộc đấu tranh giành quyền lực gay gắt giữa các cơ quan tranh chấp nhau như Tổng cục An ninh Đế chế, Bộ Ngoại giao, Bộ Tuyên truyền, Bộ Chỉ huy tối cao của quân đội, và Đảng Quốc xã, rồi cả trong ngay chính nội bộ của các cơ quan đó. Schellenberg sống giữa các âm mưu đó, biết rất rõ và bản thân cũng phải làm thế để tồn tại. Khôn khéo luồn lách để giành được sự tin cậy của Himmler và Heydrich, ông phải vật lộn với các đối thủ cạnh tranh ngay trong RSHA như Kaltenbrunner (người nắm Cơ quan Mật vụ của Đảng Quốc xã và kế vị Heydrich) và trùm Ghestapo - Muller. Những nhân vật đầu sỏ của ngành mật vụ Đức quốc xã đã được mô tả một cách sinh động và rõ nét với tất cả tính cách, đặc điểm riêng trong khung cảnh cuộc chiến tranh cũng như cuộc tranh chấp nội bộ và chính điều đó làm nên giá trị của cuốn sách. Vì điều kiện không cho phép, chúng tôi không thể giới thiệu toàn bộ cuốn sách mà chỉ chọn một số chương tiêu biểu với những sự kiện ít được biết đến trong hoạt động của Cơ quan Tình báo Đối ngoại của nước Đức phát xít trong Thế chiến thứ II. Alan Bulloc *** Mùa xuân 1942, trong một lâu đài tại Gradhams, thành phố Praha, Heydrich chủ trì một vài cuộc họp mà tôi nhất thiết phải có mặt. Khi tôi đã định bay về Berlin, Heydrich đề nghị tôi nán lại một ngày để cùng dùng bữa trưa với ông. Tôi mệt mỏi và bực bội: viễn cảnh một bữa tiệc phè phỡn và lúc tàn cuộc là cảnh say mèm khiến tôi cảm thấy rùng mình. Nhưng tôi nhầm: bữa ăn thật thú vị khi chúng tôi cùng trao đổi nhiều vấn đề mà Heydrich quan tâm. Điều làm tôi ngạc nhiên là ông ta phê phán kịch liệt quyết định của Hitler nắm quyền chỉ huy quân đội. Heydrich không nghi ngờ khả năng cầm quân của Hitler, nhưng ông e rằng Quốc trưởng khó có thể kham nổi gánh nặng đè thêm lên vai. Sau đó ông bắt đầu chửi bới đám tướng lĩnh ở Bộ Tổng Tư lệnh. Có mặt Hitler, trước mọi vấn đề họ chỉ biết có vâng dạ. Khi chưa bước chân ra khỏi phòng, không ai dám nói ra bất kỳ khó khăn nào. Heydrich phẫn nộ trước những thiếu sót trong công tác cung ứng cho quân đội. Cuộc vận động “áo ấm cho tiền phương” của Goebbells - phong trào thu gom và gửi ra tiền tuyến cho quân đội các loại quần áo mùa đông của dân thường - diễn ra không chỉ với sự rầm rộ thường thấy mà với cả một nhiệt tình khá cao xuất phát từ đáy lòng. Tuy nhiên, dù thế nào đi nữa, điều đó cũng không thể bù lại những tổn thất đã phải gánh chịu. Heydrich đề xuất cứ 100 lính Đức bị rét cóng phải xử bắn một ai đó ở Cục Hậu cần, bắt đầu từ cấp cao nhất. Đưa binh lính với quân phục mùa hè sang chiến đấu trong điều kiện thời tiết của mùa đông nước Nga là một tội ác. Thống chế Von Brauchitsch (bị Hitler thải hồi) chỉ là kẻ giơ đầu chịu báng. Dĩ nhiên, chính ông ta cũng có phần trách nhiệm, nhưng những kẻ trực tiếp có tội vẫn cứ chễm chệ trong các văn phòng ấm áp, sang trọng. Trong một chừng mực nào đó họ đã hoàn hồn, tuy nhiên vẫn chưa hết vênh vang với ngôi vị của mình. Càng ngày Hitler càng dựa vào Himmler, vốn là một người có tài đối xử, ông ta có thể lợi dụng ảnh hưởng của mình đối với Quốc trưởng. — Giá như Hitler chỉ cần cho phép tôi được góp ý với ông ấy. - Heydrich nói lắp bắp.  Rồi ông ta quay sang nói vắn tắt về tình hình ở Pháp và Bỉ. Về việc này, lợi dụng phía quân đội không có biểu hiện gì phản đối, ông ta muốn tự mình chỉ định các chức vị chỉ huy cao cấp của lực lượng cảnh sát SS ở hai nước trên. Tôi thấy ý định của ông ta chẳng có ý nghĩa gì. Trong trường hợp như vậy, hệ thống điều hành sẽ trở nên vô cùng phức tạp, vả lại ngay cả việc tìm người thích hợp vào các chức vụ trên lúc này cũng không đơn giản. Heydrich gật đầu lơ đễnh và bỗng nhiên nói: — Himmler khăng khăng giữ ý kiến như vậy, vì thế chính vào thời điểm này tôi cần tỏ rõ thiện chí của mình. Hiện giờ quan hệ giữa hai chúng tôi rất căng thẳng. ... Mời các bạn đón đọc ​Mê Cung (Trích hồi ký của trùm tình báo đối ngoại phát xít Đức) của tác giả Walter Schellenberg.
Khuôn Mặt Bị Đánh Cắp - Latifa
Khuôn mặt bị đánh cắp là cuốn hồi ký cảm động của Latifa - một thiếu nữ mười sáu tuổi kể về thân phận khốn cùng của bản thân và những người dân Afghanistan vô tội khi Taliban lên nắm chính quyền. Bất chấp những hiểm nguy rình rập… Bất chấp mạng sống bị đe dọa… Bất chấp phải trốn chạy, từ bỏ quê hương với gia đình, người thân yêu dấu… Cô bé Latifa vẫn quả cảm để nói thay cho tất cả những thiếu nữ và phụ nữ Afghanistan. Những người mẹ, người chị, và cả em nhỏ bị bó buộc, cầm tù, thậm chí đã bị hành quyết giữa cộng đồng, không xét xử và không ai trắc ẩn, trước mắt cả con cái lẫn những người thân. Họ bị tước đoạt mọi quyền lợi ngay trên chính xứ sở quê hương của mình, dù là những quyền lợi cơ bản nhất của một con người, một phụ nữ. Thế nhưng bất chấp tất cả họ vẫn giữ gìn nhân phẩm của mình, với tất cả sự hãnh diện, sức lực và tinh thần cho đến hơi thở cuối cùng. Bi kịch cuộc đời của Latifa chỉ là một phần nhỏ trong tất cả những mãnh đời bất hạnh của người phụ nữ dưới thời Taliban phải hằng ngày hằng giờ chịu đựng. Latifa còn may mắn khi cuối cùng cô bé cũng có thể bắt đầu một cuộc đời mới. Của mình! Cho riêng mình! Nhưng còn đó biết bao số phận của những người phụ nữ Afganistan khác thì sao? Họ phải làm gì? Còn phải chịu đựng những gì? Và cuối cùng ai/ cái gì sẽ cứu rỗi cuộc sống của họ khỏi những tăm tối ràng buộc khắc nghiệt này đây? Khuôn mặt bị đánh cắp, vì thế, càng chứng tỏ giá trị của mình khi gióng lên một hồi chuông cảnh báo về tệ nạn bạo hành phụ nữ dưới chế độ Taliban hà khắc. Một cuốn hồi kí chân thực với sức lay động mạnh mẽ. Để tương lai sẽ không còn những Latifa nào nữa… *** Những chiếc khăn xếp đen ngòm của Taliban đang dần biến mất khỏi những cơn ác mộng của chúng tôi: giờ đây quan trọng là nói về hy vọng và tự do - mà cuối cùng lại có. Tôi đang làm điều đó. Từ lúc tôi nghe thấy tiếng cười ở Kabul, nhìn thấy một khuôn mặt phụ nữ trên tivi, thấy những chiếc máy cạo râu của những người thợ cạo lại đang làm việc, tôi biết rằng tôi phải quay về và ôm tổ quốc vào lòng mình. Tôi chỉ đang chờ những cánh diều sẽ thay thế máy bay oanh tạc trên bầu trời Kandahar mà thôi. Có nhiều điều đáng vui mừng tại Hội nghị Bonn(15): các đại diện mỗi nhóm dân tộc - Tajik, Uzbek, Pashtun, Hazar - đều hứa là sẽ nghiêm túc tập hợp lại dưới một chính phủ lâm thời và chấp nhận viện trợ của Liên hợp quốc cho công cuộc tái thiết đất nước chúng tôi, một quốc gia bị tàn phá đến mức hiếm có trong lịch sử. Tôi thật lấy làm vui mừng. Giờ đây anh Wahid đang mong mỏi được rời Moskva về nước. Anh Daoud và vợ anh, và chị Soraya đều đang ở đâu đó trên đoạn đường giữa Pakistan và Afghanistan: đã lâu chúng tôi không hay tin họ và tôi lấy làm lo lắng. Về phần mình, lúc này tôi là một người lưu vong được biệt đãi, được ăn uống no nê, không sợ mùa đông giá lạnh, và ngang hàng với những người phương Tây. Vì thế, giờ tôi có thể bày tỏ, mà không phải sợ hãi, những lo lắng bản năng của tôi về tương lai - và đó cũng là một biệt đãi. Hàng thế kỷ nay những người đàn ông của đất nước tôi được đưa cho dao rựa, súng lục, súng trường, súng Kalashnikov để chơi như chơi những cái trống lúc lắc của trẻ nhỏ. Hàng thế kỷ nay các thế hệ bị đem bày ra trên một bàn cờ, các kỳ thủ lớn kế tiếp nhau, hết người này đến người khác, như thể chiến tranh giữa các dân tộc là một môn thể thao toàn quốc vậy. Cũng hàng thế kỷ nay phụ nữ sinh ra để mặc áo burqa. Và những tham vọng xâm lược của các thế lực nước ngoài ủng hộ cho những truyền thống này. Tôi muốn nói - cùng với tất cả hy vọng của tôi về giấc mơ về hòa bình và dân chủ, giấc mơ cháy bỏng của thế hệ tôi - rằng tôi cầu cho phụ nữ sẽ được đại diện đầy đủ hơn trong các cuộc đàm phán tương lai. Trong ba mươi người tham dự Hội nghị Bonn, ba phụ nữ vẫn là chưa đủ. Tôi cũng cầu cho người cầm lái đất nước tôi sẽ, trong trái tim ông, mang chất Pashtun cũng như Tajik, Uzbek, Hazar; rằng vợ ông sẽ cố vấn và trợ giúp cho ông; rằng ông sẽ hiểu là ông phải tập hợp quanh mình những người phụ nữ giỏi giang nhất và thông thái nhất. Tôi cầu cho những cuốn sách sẽ thay thế vũ khí; rằng nền giáo dục sẽ dạy chúng tôi biết tôn trọng lẫn nhau; rằng các bệnh viện sẽ làm tròn sứ mệnh của mình; và rằng nền văn hóa của chúng tôi sẽ lại vực dậy từ đống tro tàn của các bảo tàng bị cướp bóc và đốt cháy. Tôi cũng cầu nguyện cho các trại đầy những người tị nạn đang khổ sở vì đói sẽ biến mất khỏi các biên giới của chúng tôi, và một ngày gần đây bánh mì họ ăn sẽ được nướng bằng chính bàn tay họ, trong chính những ngôi nhà của họ. Cầu nguyện thôi vẫn là chưa đủ. Ngay khi tên Taliban cuối cùng treo chiếc khăn xếp đen sì của hắn lên và tôi lại có thể là một phụ nữ tự do ở một đất nước tự do, tôi sẽ trở về với cuộc sống của tôi ở Afghanistan và tiếp tục những nghĩa vụ của mình như một công dân, một phụ nữ - và tôi hy vọng, một ngày nào đó, một người mẹ nữa. Một hôm, một phụ nữ Âu trích dẫn cho tôi lời một bài hát: “Phụ nữ là tương lai của nam giới.” Ở Afghanistan, hơn bất cứ nơi nào khác, tôi cầu nguyện rằng đàn ông cũng sẽ sớm cất tiếng hát lên câu ca này. Tháng Mười hai 2001 Mời các bạn đón đọc Khuôn Mặt Bị Đánh Cắp của tác giả Latifa.
Ký Ức Phiên Lãng - Tô Hoài
Trong làng văn học Việt Nam rất hiếm có nhà văn nào nhận được sự yêu thương, mến mộ từ nhiều thế hệ độc giả khác nhau như nhà văn Tô Hoài. Nếu các bạn nhỏ biết đến ông như một người bạn dí dỏm, đáng yêu qua kiệt tác Dế mèn phiêu lưu ký và series truyện ngộ nghĩnh về loài vật, thì độc giả lớn tuổi biết đến ông như một cây đại thụ của làng văn với nhiều tác phẩm đã trở thành những tượng đài bất tử như Vợ chồng A Phủ, Cứu đất cứu mường, Chuyện đầm sen đền Đồng Cổ… Tưởng nhớ một năm ngày Cụ trở về với cát bụi, Công ty Sách Phương Nam đã cho xuất bản và tái bản những tuyệt phẩm để đời của nhà văn, như một lời tri ân sâu sắc kính dâng lên Cụ. Ký Ức Phiên Lãng ghi lại những hồi ức đẹp về con người, về những vùng đất khác nhau trong ký ức của nhà văn Tô Hoài. Ông có dịp đi qua nhiều nước, được gặp gỡ nhiều người và bằng ngòi bút chân thực của mình ông đã ghi lại những con người vừa chân chất, vừa mền khách, vừa anh dũng không chịu khuất phục trước gông xiềng nô lệ. Đó là đất nước Lào với những con người hiền hòa mến khách, là một Campuchia vừa thoát khỏi chế độ diệt chủng Pôn Pốt đang từng bước xây dựng lại đất nước, là một Ê-ti-ô-pi-a dù đang đương đầu với chiến tranh nhưng vẫn luôn hiền hòa tràn đầy hi vọng... Với bút pháp miêu tả bậc thầy nhà văn Tô Hoài đã tái hiện lại mảng ký ức đẹp về con người và đất nước bạn. Giờ đây nó không chỉ là ký ức của riêng ông mà còn sống mãi trong lòng người đọc Việt. *** Tô Hoài (tên khai sinh: Nguyễn Sen; 27 tháng 9 năm 1920 – 6 tháng 7 năm 2014) là một nhà văn Việt Nam. Một số tác phẩm đề tài thiếu nhi của ông được dịch ra ngoại ngữ. Ông được nhà nước Việt Nam trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học - Nghệ thuật Đợt 1 (1996) cho các tác phẩm: Xóm giếng, Nhà nghèo, O chuột, Dế mèn phiêu lưu ký, Núi Cứu quốc, Truyện Tây Bắc, Mười năm, Xuống làng, Vỡ tỉnh, Tào lường, Họ Giàng ở Phìn Sa, Miền Tây, Vợ chồng A Phủ, Tuổi trẻ Hoàng Văn Thụ.     Tô Hoài sinh ra tại quê nội ở thôn Cát Động, Thị trấn Kim Bài, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Đông cũ trong một gia đình thợ thủ công. Tuy nhiên, ông lớn lên ở quê ngoại là làng Nghĩa Đô, huyện Từ Liêm, phủ Hoài Đức, tỉnh Hà Đông (nay thuộc phường Nghĩa Đô, quận Cầu Giấy, Hà Nội, Việt Nam. Bút danh Tô Hoài gắn với hai địa danh: sông Tô Lịch và phủ Hoài Đức. Bước vào tuổi thanh niên, ông đã phải làm nhiều công việc để kiếm sống như dạy trẻ, bán hàng, kế toán hiệu buôn,… nhưng có những lúc thất nghiệp. Khi đến với văn chương, ông nhanh chóng được người đọc chú ý, nhất là qua truyện Dế Mèn phiêu lưu ký. Năm 1943, Tô Hoài gia nhập Hội Văn hóa cứu quốc. Trong chiến tranh Đông Dương, ông chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực báo chí, nhưng vẫn có một số thành tựu quan trọng như Truyện Tây Bắc. Từ năm 1954 trở đi, ông có điều kiện tập trung vào sáng tác. Tính đến nay, sau hơn sáu mươi năm lao động nghệ thuật, ông đã có hơn 100 tác phẩm thuộc nhiều thể loại khác nhau: truyện ngắn, truyện dài kỳ, hồi ký, kịch bản phim, tiểu luận và kinh nghiệm sáng tác. Ông mất ngày 6 tháng 7 năm 2014 tại Hà Nội, hưởng thọ 94 tuổi. *** HÀ NỘI - QUẢNG CHÂU, Air Việt Nam bay một tiếng ba mươi phút. Cất cánh bờ sông Hồng chân Tam Đảo, uống một lon bia thì trông thấy thành phố Quảng Châu bên sông Châu Giang với núi Bạch Vân mùa đông mù mịt. Trong các phương tiện đi lại ngày nay, con ngựa, con thuyền, tàu thủy, tàu hỏa, chiếc xe và đôi chân người thì cái tàu bay đã làm cho kẻ lữ hành nhãng mất cảm tưởng xa gần nơi đến nơi đi. Quảng Châu tôi chưa bao giờ được tới mà đã sẵn gần gũi rồi. Dẫu cho dọc đường dưới kia có nhọc nhằn ngày đi đêm nghỉ biết mấy thì phương trời này với tôi không phải từ hồng hoang. Khi mới biết mặt chữ, những trang vỡ lòng đã cho chúng tôi thuộc làu làu những Lĩnh Nam, những Ngũ Lĩnh, những Lĩnh Nam trích quái , những quân quan tuần thú phương nam trong sử sách mà bao nhiêu năm về sau còn cảm thấy trập trùng thiên sơn vạn thủy khi nghe bài hát Nhị Lang Sơn . Thành Phiên Ngung bây giờ là một thị trấn vệ tinh của Quảng Châu. Trên đại lộ giữa Quảng Châu hiện đại, năm 1983 mới phát hiện mộ Nam Việt Vương - mối tình bi thảm Mỵ Châu - Trọng Thủy xa gần nguồn gốc từ đây. Công viên đồi Hoàng Hoa, mộ liệt sĩ Phạm Hồng Thái (1904 - 1924), bia khắc năm ông hy sinh, tôi khi đó mới chập chững biết đi. Trước mặt, doi đất Sa Diện bờ Châu Giang, địa phận tô giới Pháp - Anh ngày trước, khách sạn Victoria vẫn như xưa. Phạm Hồng Thái ném bom định giết Mec-lanh toàn quyền Đông Dương rồi băng ra sông Châu - chỗ ấy ngã ba kênh đào, liệt sĩ đã bỏ mình giữa nơi sông nước mênh mang này. Đến đây, hôm nay mới thấy, nhưng chúng tôi đã nghe được kỳ tích anh hùng Phạm Hồng Thái từ tuổi thanh niên. Lịch sử thế nào, con người và thời gian thì vừa ngắn ngủi vừa lâu dài. Nơi Bác Hồ đã sáng lập và làm báo Việt Nam Thanh niên Cách mệnh Đồng chí Hội ở phố Văn Minh, một phố cũ như Hàng Đường, Hàng Giấy Hà Nội. Nhà ở và cửa hàng chen khít, một cổng ngách sâu vào nhà trong. Nghĩ về hang đá Pác Bó ở rừng Hà Quảng Cao Bằng hơn hai mươi năm sau. Thì đây đã là một hang Pác Bó giữa nơi phồn hoa, Người vì lý tưởng, sá gì ở chỗ nào, thế nào. ... Mời các bạn đón đọc Ký Ức Phiên Lãng của tác giả Tô Hoài.