Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Tôi Là Con Mèo

Ở Việt Nam, sách văn học tầm cao, có ảnh hưởng lớn đến tâm tư tình cảm người Nhật qua nhiều thế hệ chưa xuất hiện nhiều. Đúng như nhận định của ông Mitsuyoshi Numano, giáo sư văn học của Đại học Tokyo trong Hội thảo văn học Nhật Bản tháng 9-2009 tại Hà Nội: "Hình như phần lớn các tiểu thuyết (của Nhật) được dịch đều thuộc về các nhà văn ăn khách hiện đại trong khi các nhà văn quan trọng trước đó với những tác phẩm có ý nghĩa vượt thời gian thì hầu như chưa được dịch sang tiếng Việt Nam." Trong số lượng rất lớn các tác giả văn học Nhật trong hơn 100 năm từ thời Minh Trị đến nay vị giáo sư này đã lựa chọn ra 10 tác giả văn học mà ông cho là quan trọng nhất ở Nhật gồm có: Mori Ogai (1862-1922), Akutagawa Soeki (1867-1916), Tanizaki Junnichiro (1886-1965), Akutagawa Ryunosuke (1892-1927), Dazai Osamu (1909-1948), Kawabata Yasunari (1899-1972 - giải Nobel văn học), Mishima Yukio (1925-1970), Abe Kobo (1924-1993), Oe Kenzaburo (1935 - giải Nobel văn học), Murakami Haruki (1949). Để người Việt Nam hiểu và thấy được cái hay của văn học Nhật, cần thiết phải dịch văn học Nhật sang tiếng Việt nhiều hơn nữa để người Việt Nam có cơ hội tìm hiểu và tiếp xúc nhiều hơn với các tác phẩm và tác giả quan trọng của văn học Nhật. Chính các dịch giả sẽ là cầu nối để tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau giữa hai dân tộc. Tôi vui mừng ghi nhận sự xuất hiện của những dịch giả mới người Việt, có nghiên cứu cẩn thận và hiểu sâu về con người, văn hóa Nhật Bản, với niềm say mê văn học Nhật, đã đem đến cho bạn đọc Việt Nam những kiệt tác được dịch trực tiếp từ nguyên bản. Đây là một điểm rất cần khuyến khích và nhiệt tình cổ vũ. Tiểu thuyết Tôi là con mèo của văn hào Natsume Soeki, do bà Bùi Thị Loan dịch từ bản tiếng Nhật, là một trong chưa nhiều trường hợp tôi vừa nói ở trên. Vị trí và vai trò của các tác phẩm của Natsume Soeki trong nền văn học Nhật bản là rất quan trọng, nó ảnh hưởng sâu sắc đến nhiều thế hệ người Nhật Bản, bất cứ người Nhật Bản cũng biết đến các tác phẩm Botchan,Wagahai wa neko dearu, Kokoro… của ông. Ông được coi là nhà văn dân tộc lớn nhất trong nền văn học cận đại ở Nhật Bản kể từ thời Minh Trị. Các nhà phê bình văn học đánh giá ông là một trong ba trụ cột của văn học hiện đại Nhật Bản cùng Mori Ogai và Akutagawa Ryunosuke. Năm 2006 bạn đọc Việt Nam đã được đọc cuốn Cậu ấm ngây thơ (Botchan) và bây giờ lại được cầm trên tay bản dịch kiệt tác Tôi là con mèo (Wagahai wa neko dearu) của đại văn hào Natsume Soeki, cả hai đều do dịch giả Bùi Thị Loan chuyển ngữ sang tiếng Việt và do Nhà xuất bản Hội Nhà văn ấn hành. Việc Quỹ Giao lưu Quốc tế Nhật Bản (Japan Foundation) tài trợ cho bản dịch tiểu thuyết Tôi là con mèo lần này của bà Loan là một trong những hoạt động rất tích cực trong việc thúc đẩy giao lưu văn hóa giữa hai dân tộc Nhật Bản và Việt Nam. Tác phẩm dịch này ra đời là món quà ý nghĩa để tiến tới kỷ niệm 40 năm thiết lập quan hệ Việt Nam - Nhật Bản (2013). Tôi là con mèo (Wagahai wa neko dearu) là cuốn tiểu thuyết đầu tay của Natsume Soeki. Mượn lời kể của một con mèo sống trnog nhà một thầy giáo dạy trung học, tác giả đã vẽ nên bức tranh trào phúng về diện mạo điển hình của tầng lớp trí thức Nhật thời Minh Trị. Con mèo lắng nghe và quan sát các nhà khoa học tranh cãi trong căn phòng của "ông giáo" Kushami, thực chất đó là những cuộc thảo luận về triết học và nghệ thuật cũng như thói đời trong thế giới mà mãnh lực đồng tiền đang xâm chiếm tình cảm con người trong buổi giao thời và xung đột giữa văn hóa Đông - Tây ở Nhật Bản. Độc giả sẽ dễ dàng nhận ra sự tẻ nhạt và kệch cỡm trong lối sống, sự nửa vời và lười nhác trong học thuật của những nhân vật chính như ông giáo Kushami, nhà mỹ học Meitei, cử nhân khoa hoạc tự nhiên Kangetsu, rồi một vài nhà thơ, nhà phê bình… từ các cuộc tranh luận như bất tận của họ, xoay quanh nhiều vấn đề nghệ thuật kinh điển và hiện đại, của Nhật cũng như của thế giới. Ở khía cạnh khác, bạn đọc có thể tìm thấy trong cuốn sách này những chi tiết văn hóa đặc trưng của Nhật, được miêu tả tinh tế, tròn trặn và trầm tĩnh. Điểm nổi bật trong kiệt tác này, chính là bạn đọc được làm quen và thưởng thức giọng văn châm biếm hóm hỉnh mang nhiều nét tự trào của một bút pháp bậc thầy. Nhưng lưu ý rằng cái hóm hỉnh lại "rất Nhật" nên người đọc Việt Nam đôi khi cần có chút hiểu biết về văn hóa Nhật mới thấy hết cái hay cái hóm của nó. Dịch giả Bùi Thị Loan là một người Việt Nam am hiểu văn hóa văn học Nhật, hiện tại bà vẫn đang sinh sống và làm việc tại xứ sở hoa anh đào. Bà là một người dịch mới, trong thế hệ các dịch giả văn học thời hiện đại, được tiếp xúc và chuyển ngữ trực tiếp từ nguyên bản. Bản dịch của bà Bùi Thị Loan, mà theo tâm nguyện bà muốn cố gắn chuyển tải một cách trung thực văn phong của một đại văn hào Nhật Bản, có thể, đôi chỗ còn làm cho bạn đọc Việt Nam, nhất là lớp trẻ, cảm thấy hơi có gì đó khác lạ, hơi khó dung nạp. Nhưng dụng ý của người dịch quyết tâm giúp bạn đọc Việt Nam dần khám phá đỉnh núi Natsume Soeki một cách thuần chất và nguyên vẹn, dù không dễ. Như đã nói, vốn dĩ tác phẩm Tôi là con mèo - một tác phẩm được viết ra ở Nhật Bản cách đây hơn một thế kỷ, dù rằng là kiệt tác của nhân loại, sống mãi với thời gian, đã đi vào tâm hồn bao thế hệ người Nhật, nhưng chính người Nhật hiện đại cũng cảm thấy nhiều chỗ khó đọc, vì vậy chuyển ngữ sang tiếng Việt là một công việc đầy gai góc. Đối với độc giả nước ngoài, trong đó có Việt Nam, để thấy hết cái hay, cái đẹp của tác phẩm này thiết nghĩ cũng cần có thời gian. Mọi phán xét xin dành lại cho độc giả. Thúy Toàn *** "Tôi là con mèo" là tác phẩm đầu tay của nhà văn Natsume Soseki (1867-1916). Trong tác phẩm Cậu ấm ngây thơ (NXB. Hội Nhà văn phát hành năm 2006), tôi đã có dịp giới thiệu qua về ông. Có thể nói, đây là tác phẩm rất quan trọng không chỉ đối với cuộc đời và sự nghiệp của Natsume Soseki mà còn đối với cả đời sống văn học Nhật Bản và quốc tế. Bởi vì nó là tác phẩm đã giúp phát hiện ra một đại văn hào, sau đó ảnh hưởng của nó và nhà văn lớn này đã góp phần gieo mầm, tạo ra nhiều nhà văn, nhà văn hóa, học giả có giá trị cho Nhật Bản. Trong số đó có người rất nổi tiếng, như văn hào Akutagawa Ryunosuke, một đệ tử của Natsume Soseki. Trên thế giới, đặc biệt là Hàn Quốc và Trung Quốc, cũng có nhiều nhà Soseki học khá nổi tiếng. Bối cảnh và nội dung của Tôi là con mèo là đời sống hiện thực xảy ra xung quanh nhà văn Soseki. Những nhân vật chính trong truyện cũng lấy nguyên mẫu từ bạn bè, học trò, những người xung quanh ông. Một số được đưa nguyên tên thật vào trong tác phẩm như nhà thơ Masaoka Shiki, nhà thơ Takahama Kyoshi. Nhưng tất cả đều được miêu tả qua lăng kính trào lộng, đùa vui, mang đậm tính chất Rakugo (một loại tấu hề), đại diện tiêu biểu của nền văn hóa Edo. Con mèo và thầy giáo Kushami cũng là nhân vật dựa vào nguyên mẫu là tác giả và con mèo nhà ông. Chính con mèo này đã gợi hứng cho ông viết tác phẩm. Lúc đầu chỉ là ý định viết thử cho vui, ông bắt đầu bằng câu "Tôi là con mèo,…" rồi đưa bản thảo cho tạp chí, nhờ góp ý và đặt tên. Ông Takahama Kyoshi, người phụ trách của tạp chí, đã góp ý lấy câu mở đầu này làm tên của tác phẩm. Kiệt tác "Wagahaiwa neko dearu" (Tôi là con mèo) đã được ra đời như vậy và trở thành một cái tên rất thân quen với bất kỳ người Nhật nào cũng như bất kỳ ai hiểu biết về Nhật Bản. Natsume Soseki lúc nhỏ đã học chữ Hán, sau đó học tiếng Anh và văn học Anh. Ông là người thuộc thế hệ Hán học cuối cùng và thế hệ Tây học đầu tiên của Nhật Bản. Vì vậy trong ông có một khối lượng đồ sộ kiến thức đông tây kim cổ mà ông đã tích lũy được qua nhiều năm bằng trí tuệ của một thiên tài. Trong tác phẩm đầu tay này, những kiến thức ấy được dịp xuất hiện trong mọi cơ hội, khi thì nghiêm túc, khi thì hài hước, đùa bỡn nhưng tất cả đều giúp độc giả khám phá ra những tư tưởng, kiến thức, những trăn trở uyên thâm, cao đẹp, đầy nhân văn của một thiên tài rất nặng lòng với thời thế. Tác phẩm bắt đầu được viết năm 1905, khi cuộc chiến tranh Nhật-Nga (1904-1905) đang ở đỉnh điểm. Truyện in dần trên tạp chí Hototogisu cho đến cuối năm 1905 thì ông định kết thúc truyện ở chương 5. Nhưng do độc giả tha thiết yêu cầu nên ông lại viết tiếp và hoàn thành vào năm 1907 với 11 chương hầu như độc lập với nhau… Đây là tác phẩm văn học quá lớn đối với khả năng của một dịch giả văn học không chuyên như tôi nên bản dịch chưa thể gọi là hoàn hảo trong việc chuyển tải đầy đủ tất cả cái hay, cái đẹp, cái quý của tác phẩm, hòng làm xiêu lòng độc giả Việt Nam như nó đã chinh phục độc giả Nhật Bản. Vả lại, cũng cần phải có thêm điều kiện hiểu biết lịch sử, văn hóa, tính cách tâm lý của người Nhật thì mới tiếp nhận được hết những giá trị của tác phẩm. Bởi vì đối với người Nhật, cái hay của văn học Natsume Soseki cũng giống như cái hay của Truyện Kiều đối với người Việt Nam, người ta thích thú không chỉ vì nội dung mà còn do ngôn ngữ và nhạc điệu của tác phẩm. Người Nhật Bản mỗi tầng lớp mỗi thế hệ, từ các em học sinh tiểu học năm thứ 5 trở đi cho đến các vị cao niên, từ những người lao động bình thường đến bậc học rộng, uyên bác, ai cũng có thể tìm thấy trong tác phẩm này những điều lý thú, cần thiết, bổ ích hay tâm đắc với mình. Mặc dù việc tiếp thu qua bản dịch gặp phải những hạn chế chủ quan từ dịch giả và khách quan từ độc giả, nhưng tôi mong rằng Tôi là con mèo cũng phần nào làm được như vậy với bạn đọc Việt Nam. Hơn nữa, ngoài chức năng là một tác phẩm văn học để giải trí, tôi hy vọng cuốn sách này còn là một nguồn tài liệu tham khảo bổ ích cho những người có nguyện vọng tìm hiểu về Nhật Bản. Để có được thành quả nhỏ này là nhờ công lao rất lớn của nhiều người đã giúp đỡ tôi. Trước hết là chị Lê Thị Bình, bạn tôi, người đã phát hiện bản dịch thảo của tôi và quyết tâm giới thiệu nó với bạn đọc. Chị Bình đã dành nhiều thời gian, công sức và khắc phục nhiều trở ngại để tổ chức thực hiện việc này. Chị là người rất quan tâm đến văn hóa và văn học Nhật Bản, luôn hoạt động tích cực trong Ban văn hóa Hội Hữu nghị Việt - Nhật và trong Câu lạc bộ thơ Haiku Việt Nam. Nhờ công lao và nhiệt tình của chị Bình, với sự giúp đỡ của NXB. Hội Nhà văn, bản dịch Tôi là con mèo đã nhận được tài trợ của Quỹ giao lưu Quốc tế Nhật Bản (Japan Foundation) để cho ra mắt kiệt tác này. Nhân đây tôi cũng xin trân trọng cảm ơn sự quan tâm của quý Quỹ và Nhà xuất bản. Trong quá trình dịch, tôi may mắn được một người bạn đồng nghiệp người Nhật đã tận tình giúp đỡ tôi. Không những chỉ đọc duyệt, anh còn dạy cho tôi biết thêm nhiều về tiếng Nhật và kiến thức về nhiều lĩnh vực của Nhật Bản, khiến bản dịch nhuần nhuyễn hơn. Cũng nhân dịp này, chúng tôi còn nhận được sự giúp đỡ của nhà thơ Nguyễn Bao và nhà văn, dịch giả nổi tiếng Thúy Toàn. Những lời nhận xét và chỉ dẫn rất quý báu của hai ông về kiến thức dịch văn học, giúp cho người ngoại đạo như tôi khắc phục được nhiều yếu kém trong công việc. Và biên tập viên Nhà xuất bản đã luôn nhiệt tình và trách nhiệm khi làm việc, trao đổi với tôi từ xa. Xin trân trọng giới thiệu Tôi là con mèo với độc giả. Xin kính dâng bản dịch này lên hương hồn Đại văn hào Natsume Soseki, nhà văn Nhật Bản tôi rất kính phục, nhân ngày giỗ lần thứ 95 của ông (9-12-1916/ 19-12-2011). 7-12-2011 Bùi Thị Loan *** Natsume Soseki (1867 - 1916) là nhà văn, nhà thơ, nhà lý luận văn học và chuyên gia văn học Anh. Ông sinh ngày 9-2-1867 trong một gia đình Danh chú (“Nanushi"- một loại cường hào địa phương thời phong kiến) tại Tokyo. Tên chính thức của ông là Natsume Kinnosuke (Na-chư-mê Kin-nô-su-ke). Bút danh Soseki chữ Hán là “sấu thạch” có nghĩa là súc miệng bằng đá, lấy từ điền tích “sấu thạch trầm lim” của Trung Quốc, mang ý nghĩa là kiên cường, cứng rắn. Bút danh này có từ sau năm 1889, khi ông gặp Masaoka Shiki, người bạn thân thiết nhất, có ảnh hưởng quyết định đến con người và văn học của Soseki. (Masaoka Shiki (1867 - 1902) là nhà thơ nổi tiếng của Nhật Bản). Ngay sau khi ra đời, Soseki đã bị cho đi làm con nuôi một gia đình thương gia nghèo nên không được nuôi nấng, chăm sóc đầy đủ. Thấy thế, gia đình cha mẹ đẻ đưa ông về, rồi lại cho làm con nuôi một gia đình khác. Cho đến năm 21 tuổi, Soseki mới trở lại nhập tịch gia đình Natsume. Thời kỳ học tiểu học, ông phải chuyển hết trường nọ đến trường kia. Năm 12 tuổi Soseki vào học trường trung học công lập tỉnh Tokyo. Ông bỏ dở năm thứ 2 trung kọc để theo học Hán học trường tư thục. Ở đây, ông đã học được nhiều văn thơ Đường, Tống, Hán thư, sử thư và văn hóa cổ điển Trung Quốc, có ảnh hưởng lớn đến văn học của ông sau này về văn phong, về tư tưởng, giá trị thẩm mỹ v.v... Năm 1883, Soseki lại bỏ Hán học, theo học trường tiếng Anh tư thục để chuẩn bị vào trường dự bị đại học. Năm 1884, Soseki vào trường dự bị đại học. Trong thời gian học dự bị, ông đã từng bị bệnh, không thể đi dự thi, đã từng đi dạy cho các trường tư thục để trang trải học phí. Năm 1890, Soseki vào học trường Đại học đế quốc Tokyo (tiền thân của Đại học Tokyo ngày nay), là trường quốc lập mới mở trước đó không lâu. Ổng bắt đầu sáng tác thơ từ thời sinh viên. Năm 1893, Soseki tốt nghiệp khoa văn trường đại học Tokyo. Ông được bổ nhiệm làm giáo viên tiếng Anh trường cao đẳng sư phạm Tokyo. Ngay sau đó ông bị bệnh lao phổi và bệnh suy nhược thần kinh nặng. Để chạy trốn khỏi Tokyo nhằm dưỡng bệnh, năm 1895, ông thôi dạy ở trường cao đẳng, chuyển đến trường trung học Matsuyama, tỉnh Ehime, quê hương của Shiki. Chính trường trung học này là bối cảnh và đề tài để mười năm sau ông viết tác phẩm “Cậu ấm ngây thơ” (Bốt chang) vào năm 1906. Từ 1896, Soseki được bổ nhiệm làm giáo viên tiếng Anh trường cao đẳng số 5 ở tỉnh Kumamoto. Năm 1900, Soseki được Bộ Giáo dục Nhật Bản cứ đi nghiên cứu văn học Anh 2 năm ở Luân Đôn. Năm 1903, về nước ông được bổ nhiệm dạy tại trường cao đẳng số I, đồng thời dạy văn học Anh tại trường đại học Tokyo. Việc dạy lý luận văn học Anh ở Đại học Tokyo gặp trục trặc làm cho bệnh suy nhược thần kinh và tình trạng tinh thần của Soseki trở nên trầm trọng. Theo lời khuyên của Takahama Kyosi, chú bút tạp chí "Chim Tứ Quý”, Soseki sáng tác tiểu thuyết để thư giãn tinh thần. Truyện “Tôi là cơn mèo” ra đời, lập tức được hoan nghênh nồng nhiệt và bệnh tình của ông cũng thuyên giảm. Từ đó, Soseki có ý định đi theo nghề viết văn. Ổng viết tiếp “Tháp Luân Đôn” rồi “Cậu ấm ngây thơ”, tất cả đều là những kiệt tác, xác lập chỗ đứng chắc chắn của ông trên văn đàn. Tháng 2-1907, được báo Asihi mời, ông bỏ hẳn nghề giáo viên, vào làm ờ báo Asihi, chuyên viết tiểu thuyết và sáng tác văn học cho đến khi qua đời vào ngày 9-12-1916. Cuộc đời 49 năm với 10 năm viết văn chuyên nghiệp, Natsume Soseki đã để lại nhiều kiệt tác, trong đó có các tác phẩm tiêu biểu là: Cuộc nổi loạn ngoạn mục Ngày 210 Nỗi Lòng “Tôi là con mèo", 1907 “Tháp Luân Đôn”, 1904 “Cậu ấm ngây thơ”, 1906 ‘Hoa thuốc phiện’’, 1907 “Gối Đầu Lên Cỏ”, 1907 “Chàng trai Sanshiro", 1908 ‘Tù đó", 1909 “Cái cổng", 1910 “Người đi đường", 1912 -1913 “Cỏ ven đường", 1915 “Sáng tối", 1916 ... Mời các bạn đón đọc Cậu Ấm Ngây Thơ của tác giả Natsume Soseki.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Kể Xong Rồi Đi
Những khi ta còn sống, còn thở, ta thường nghĩ về cái chết như là một điều gì xa xôi lắm. Và cái điều xa xôi ấy chắc phải “chừa mình ra” độ vài chục năm nữa. Nhưng cuộc đời có ai lường trước được chữ “ngờ”? Có điều, cái chết cũng chẳng đợi đến khi ta “ngờ” xong. Chúng ta sẽ dễ dàng bắt gặp điều đó trong tiểu thuyết mới của nhà văn Nguyễn Bình Phương - tiểu thuyết Kể xong rồi đi. Tiểu thuyết là lời kể của Phong - cậu cháu bồ côi bồ cút mắt lác của vị đại tá về hưu. Cậu kể chuyện với một con chó tên Phốc, về những sự kiện xảy ra từ khi đại tá đột quỵ, nằm viện, được đưa về nhà và đi tới cái chết. Lấy điểm nhìn từ góc độ cái chết, tiểu thuyết đưa ra một bức tranh đầy đủ hơn về cõi nhân quần bề bộn. Phong không chỉ kể về cái chết của ông mình, mà còn kể về cái chết của những người xung quanh. Những cái chết đến mỗi ngày, trong bệnh viện mà Đại Tá nằm, tưởng như bất chợt, nhưng cũng lại là một lẽ tự nhiên. Các nhân vật chết theo nhiều cách khác nhau: vì chiến tranh, thù hận, tai nạn, bất đắc kỳ tử…  Chú Khoa chết vì đánh nhau với tay Voong người Hoa… Chú Khoa chết lúc tảng sáng, trước khi chết hay nói hoảng, van vỉ cầu xin đổ nước vào miệng mình vì thấy lửa hun rần rật trong người. Nhưng tớ chưa kịp mang bi tới thì thằng Tuấn đã chết. Nó chết đúng lúc lũ từ mạn ngược tràn về dìm lút cả vùng Tuyệt Sơn… Những thần chết tưởng như luôn chờ đến khi ta sống hết cuộc đời dài mới tới đón lại bất thình lình lao vào giữa cuộc sống của ta mà không một lời báo trước. Dù biết vậy, nhưng cuộc đời con người vẫn luôn xoay quanh những tranh cãi, hơn thua, những tư lợi tầm thường. Khi chết đi ai cũng chỉ còn bộ xương trắng, còn nắm tro tàn, vậy cớ sao lúc sống lại cứ phải cố tranh giành? Giọng văn Nguyễn Bình Phương trong Kể xong rồi đi có gì đó như hững hờ, bình thản lại ma mị huyền bí. Lời kể của nhân vật Phong - đại diện cho tác giả có đôi chút trẻ con, nhưng đôi khi lại ẩn chứa những triết lí sâu xa về người, về đời và về cái chết. Phong nhận ra mọi góc tối luôn được che đậy kĩ càng xung quanh mình, nhưng kì lạ là Phong cũng không can thiệp. Phong im lặng, quan sát, ghi nhớ và bàng quan như một người ngoài cuộc. Đó phải chăng cũng chính là thái độ của chính Nguyễn Bình Phương giữa chốn hỗn độn xô bồ này? Đây là một câu trả lời mà không ai có thể giải đáp ngoài chính bản thân tác giả. Phong cách của Nguyễn Bình Phương vốn luôn là như thế. Tác giả không lớn tiếng chỉ trích, không thẳng thắn phê bình; tác giả lặng lẽ giữ những ưu tư của mình trên trang chữ, chờ người đọc phân giải. Một cuốn sách thành công, là một cuốn sách khơi gợi được những suy ngẫm từ chính bản thân người đọc. Và đó cũng là lý do Kể xong rồi đi được chúng tôi lựa chọn. Cuốn sách khơi gợi ở người đọc những suy tư sâu lắng về điều “vô thường” trong cuộc đời bình thường, về cuộc sống mà chúng ta đang sống, và thậm chí có thể là về cả thái độ sống của mỗi người. Nhà thơ, nhà văn Nguyễn Bình Phương sinh năm 1965 tại một làng quê ở Thái Nguyên. Tốt nghiệp trường viết văn Nguyễn Du, Nguyễn Bình Phương bắt đầu viết văn từ năm 1986. Anh đã trải qua những năm tháng rèn luyện trong quân đội nên có một vốn sống rất phong phú.  Là nhà văn quân đội, Nguyễn Bình Phương vẫn không ngừng sáng tác, anh còn làm thơ. Dĩ nhiên, nhà xuất bản thơ của anh cũng cảnh báo trong lời nói đầu với độc giả: thơ của Nguyễn Bình Phương không phải dễ đọc. Nhưng người yêu thơ có thể tìm thấy trong đó, những vần thơ thoáng buồn, không như thế giới rờn rợn trong tiểu thuyết của anh. *** Nguyễn Bình Phương sinh tại Thái Nguyên từng nhiều năm công tác tại biên giới phía Bắc. Từng biên kịch tại đoàn kịch nói Tổng cục Chính trị, biên tập văn học tại Nhà xuất bản Quân đội Nhân dân. Hiện công tác tại Tạp chí Văn nghệ Quân đội.  Nguyễn Bình Phương xuất thân lính. Thi đậu trường viết văn Nguyễn Du khóa 4 anh vẫn mang quân phục lính. Ra trường chuyển về đoàn kịch quân đội, và sau đó là Nhà Xuất bản QÐND. Ở cương vị này Nguyễn Bình Phương là bà đỡ cho nhiều nhà văn với mảng văn học chiến tranh.  Những năm 90, “Những đứa trẻ chết già” là một bước tiến vượt bậc của Nguyễn Bình Phương nhưng giới văn chương tiếp nhận dè dặt, cánh phê bình im tiếng. Chỉ khi Phương thành danh với một loạt tiểu thuyết không lẫn vào ai thì họ mới ào ạt tiếp cận với đủ chủng loại lý luận gán vào thậm chí là phong thánh cho tác giả một mình một ngựa một con đường này. Sau “Những đứa trẻ chết già”, Phương tiếp tục cho ra đời một loạt tiểu thuyết cùng một phong cách không lẫn vào người khác như “Người đi vắng”, “Thoạt kỳ thủy”, “Ngồi”…và mới nhất là cuốn tiểu thuyết có số phận kỳ lạ, “Mình và họ”. Ðây là cuốn tiểu thuyết được Phương viết xong năm 2010 nhưng bị các nhà xuất bản trong nước từ chối in ấn và nó được xuất bản ở Mỹ dưới cái tên “Xe lên xe xuống”. Mãi đến năm 2014 nó mới được nhà xuất bản Trẻ chấp nhận. Ngay lập tức “Mình và họ” nhận được hoan nghênh hưởng ứng của giới văn chương và độc giả.  Mời các bạn mượn đọc sách Kể Xong Rồi Đi của tác giả Nguyễn Bình Phương.
Wittgenstein Của Thiên Đường Đen
Tóm tắt & Review (Đánh Giá) sách Wittgenstein Của Thiên Đường Đen của tác giả Maik Cây. Cuộc sống này tiếp diễn như thế nào? Những chuyện đau thương diễn ra, mầm sống mới ra đời, hoa nở trên đống hoang tàn, người ta chết rồi yêu nhau, người ta dạt vào đời nhau rồi tạm biệt. Một cậu trai giỏi giang nhưng nhạy cảm với những nỗi đau và mất mát trong đời, một đứa trẻ không có tuổi thơ vẹn nguyên khiến nó cả đời lang bạt, một nhà khoa học tài năng cực đoan với quan niệm cuộc đời của mình, một ông lão với những ám ảnh quá khứ lựa chọn cách mãi mãi im lặng... tất cả dạt vào nhau thành một gia đình kỳ lạ nhưng không thiếu tình yêu, giữa thiên đường đen chết chóc - khu cấm địa sau một vụ nổ hạt nhân. *** Câu chuyện kể về Bô, một thanh niên tuyệt vọng sau cái chết của người anh yêu thương nhất. Từ hố sâu đen tối đối mặt với nỗi đau của sự chia lìa, anh bơi qua biển để đến với thành phố Lê, một khu cấm địa hoang tàn sau vụ nổ hạt nhân kinh thiên động địa, nơi dành cho những kẻ muốn cả thế giới bị hủy diệt, nơi dành cho những ai muốn chết. Tới Lê, Bô không những không thể chết mà còn gặp được gia đình của mình. Ở đó có Mẹ, nhà khoa học viện trưởng Viện Nghiên cứu Lai tạp Sinh học Cấp tiến của thành phố Lê, sau vụ nổ bom, thế giới quanh bà trở lại con số 0 tròn trĩnh khi cô con gái 19 tuổi, rồi cả chồng và cả chó cưng đều rời bỏ bà để ra đi về miền miên viễn. Có Lúk, cậu em trai mang trong mình nhiều vết sẹo của tuổi thơ bất hạnh và thời niên thiếu lang bạt kỳ hồ, người đã vớt Bô từ biển cả và mang Bô về nhà bên Mẹ. Có Bố, một cụ già câm nhỏ thó, đen đúa, “hôi rình” được Bô và Luk “nhặt” được từ trong mớ đổ nát của thành phố, lúc nào cũng cười “ơ hơ i khi” trong chuỗi ký ức của riêng mình. Tất cả bọn họ, đều là những tâm hồn “cô độc tuyệt đối, đau khổ tuyệt đối, những kẻgối đã mỏi, chân đã chùn, mắt đã nhàu và tim đã rã, sống nương nhờ vào nhau, vô thức chọn bãi lầy nguyên tử này làm nơi dừng chân cuối cùng”. Rồi một ngày, đến cả tổ ấm nơi Thiên đường đen cũng mất   Đó là ngày mà mọi người nhận được thư thông báo dời đi, vì chính quyền sẽ làm một cuộc san bằng tất cả thành tro bụi để chuẩn bị cho một cuộc tái thiết mới. Người Mẹ, sau tất cả mọi sự cố chấp và lời thề sẽ trụ mãi với thành phố Lê, đã quyết định bước lên chiếc thuyền của những ni cô già. Quyết định của Mẹ để lại trong lòng Bô những câu hỏi lớn, cả sự tổn thương và mất mát vì phải chia lìa thêm lần nữa, những xúc cảm tưởng như đã biến mất sau cái chết của Che, người anh yêu hơn tất cả chính ai khác trong quá khứ. Tạm biệt và vĩnh biệt, những cuộc chia ly cứ thế đến, không ngăn được như điều tất yếu. Những cuộc chia ly mang theo trong lòng nó những vết thương khó lành. Có người chọn sống với chuỗi hồi ức, có người gạt hết để làm lại, có người tìm đến cái chết và sự siêu thoát. Cũng có người buông xuôi để mặc thân thể cho biển cả cuốn đi. Cuối cùng, điều còn lại vẫn chính là dòng hồi ức đẹp đẽ và miên viễn. Mà suy cho cùng, hồi ức cũng chính là thứ nhân vật vẽ ra chính lúc này, ngay bây giờ, là mọi kỷ niệm yêu thương và tất thảy những gì khiến người ta nhớ đến, là kết quả của cuộc sống hiện tại, chứ không phải là của một cái chết nhẹ nhàng quá dễ dàng để chấm dứt tất cả. “Tôi từng tuyệt vọng, còn giờ thì không, tôi chỉ thấy trống hoác và thanh thản. Thế giới vẫn khét mùi tàn bạo, nhưng ta hoàn toàn có thể chọn quên thế giới.” Đằng sau những trang văn gai góc, là chuỗi suy tư về tuổi trẻ và cuộc đời Đằng sau những được và mất, tuổi trẻ còn lại gì? Có phải tất cả đều là ảo ảnh, như màn sương đêm bao phủ lấy tất cả nhân vật, giơ tay ra là bóng tối, là đại dương rộng lớn đen ngòm. Đến chúa tể của đại dương giờ cũng chỉ còn lại là một cái xác thối rữa, nằm chơ vơ trên bờ biển và trở thành bữa đại tiệc cho hàng ngàn sinh vật phù du khác. Thế nhưng, cảm thức được sống vẫn vô cùng mãnh liệt trên từng trang văn. Những sự tái sinh, những lần hạnh ngộ. Nơi thiên đường đen chết chóc, trẻ con đã cất tiếng khóc chào đời, mầm sống vẫn lên xanh rờn như sức trẻ của chú bê con Tô Tô mỗi lần rúc tìm vú mẹ. Lần đầu tiên, Bô sống được nhờ những điếu thuốc Mẹ đưa, nhờ thứ hợp chất nicotin để lãng quên mọi mất mát. Lần thứ 2, sau khi tưởng chết chìm giữa đại dương, hai anh em Bô và Lúk thực sự hạnh phúc với đôi cây xúc xích và túi trà chanh, mớ đồ ăn “giản dị như một con thỏ nhảy trên bãi cỏ”. Và giấc ngủ say buông bỏ hết mọi đau đớn của quá khứ, như đứa trẻ ở Niết bàn, bên gia đình mà Bô hằng yêu mến. Suy cho cùng, tình thân vẫn là thứ có sức mạnh vô biên, nó khiến người ta tồn tại và phải tồn tại, cho dù đang ở trong mõm trống hoác đen ngòm của cá voi hay nơi tận cùng thế giới. “Chúng tôi sẽ chết. Nhưng  chúng tôi sẽ sống vĩnh hằng. Nếu không thể từ chối luân hồi, thì đành vui lòng mà buông xuôi theo dòng chảy sâu thẳm của vũ trụ mà thôi.” *** Tóm tắt Cuốn tiểu thuyết Wittgenstein Của Thiên Đường Đen của tác giả Maik Cây kể về câu chuyện của Bô, một thanh niên tuyệt vọng sau cái chết của người anh yêu thương nhất. Anh bơi qua biển để đến với thành phố Lê, một khu cấm địa hoang tàn sau vụ nổ hạt nhân kinh thiên động địa. Tại đây, anh gặp được gia đình của mình, bao gồm Mẹ, Lúk và Bố. Tất cả bọn họ đều là những tâm hồn cô độc, đau khổ, nhưng họ đã tìm thấy nhau và cùng nhau tạo dựng nên một gia đình nhỏ trong thế giới đổ nát. Tuy nhiên, rồi một ngày, đến cả tổ ấm nơi Thiên đường đen cũng mất. Mọi người nhận được thư thông báo dời đi, vì chính quyền sẽ làm một cuộc san bằng tất cả thành tro bụi để chuẩn bị cho một cuộc tái thiết mới. Quyết định của Mẹ để lại trong lòng Bô những câu hỏi lớn, cả sự tổn thương và mất mát vì phải chia lìa thêm lần nữa. Cuối cùng, Bô và gia đình anh đã rời khỏi Thiên đường đen. Họ mang theo những kỷ niệm đẹp đẽ về nơi đây, về những người đã yêu thương họ, và về những gì họ đã học được. Review Wittgenstein Của Thiên Đường Đen là một tác phẩm có nhiều điểm nhấn. Thứ nhất, tác phẩm có một cốt truyện hấp dẫn, với những tình tiết bất ngờ và lôi cuốn. Thứ hai, tác phẩm có những nhân vật được xây dựng rất thành công, với những tâm lý và tính cách phức tạp. Thứ ba, tác phẩm có những thông điệp sâu sắc về cuộc sống, về tình yêu và về sự mất mát. Về mặt cốt truyện, tác phẩm có thể được chia thành hai phần chính. Phần đầu của tác phẩm kể về cuộc sống của Bô tại Thiên đường đen. Phần thứ hai của tác phẩm kể về cuộc sống của Bô và gia đình anh sau khi rời khỏi Thiên đường đen. Phần đầu của tác phẩm khá hấp dẫn, với những tình tiết bất ngờ và lôi cuốn. Người đọc sẽ bị cuốn theo câu chuyện của Bô, từ lúc anh bơi qua biển đến Thiên đường đen, đến lúc anh gặp được gia đình mình, và đến lúc anh phải đối mặt với sự chia ly. Phần thứ hai của tác phẩm cũng có nhiều điểm nhấn. Người đọc sẽ được theo dõi cuộc hành trình của Bô và gia đình anh, từ khi họ rời khỏi Thiên đường đen, đến khi họ tìm được một nơi mới để sống. Về mặt nhân vật, tác phẩm có những nhân vật được xây dựng rất thành công. Bô là một nhân vật phức tạp, với những tâm lý và tính cách mâu thuẫn. Anh là một người thông minh, nhạy cảm, nhưng cũng rất cô đơn và đau khổ. Mẹ là một người phụ nữ mạnh mẽ, nhưng cũng rất yếu đuối. Lúk là một người anh trai yêu thương Bô, nhưng cũng rất phức tạp và khó hiểu. Bố là một người đàn ông trầm lặng, nhưng cũng rất ấm áp và yêu thương gia đình. Những nhân vật trong tác phẩm đều có những câu chuyện riêng của mình, những nỗi đau riêng của mình. Những câu chuyện và nỗi đau của họ đã tạo nên một bức tranh đa chiều về cuộc sống. Về mặt thông điệp, tác phẩm mang đến cho người đọc những thông điệp sâu sắc về cuộc sống, về tình yêu và về sự mất mát. Tác phẩm cho thấy rằng cuộc sống là một hành trình đầy thử thách, nhưng cũng đầy hy vọng. Tình yêu là thứ có sức mạnh vô biên, có thể giúp con người vượt qua mọi khó khăn. Sự mất mát là một phần tất yếu của cuộc sống, nhưng nó cũng là cơ hội để con người trưởng thành và mạnh mẽ hơn. Đánh giá cá nhân Tôi đánh giá cao cuốn tiểu thuyết Wittgenstein Của Thiên Đường Đen. Đây là một tác phẩm có nhiều điểm nhấn, với một cốt truyện hấp dẫn, những nhân vật được xây dựng rất thành công và những thông điệp sâu sắc. Tôi đặc biệt ấn tượng với những câu chuyện và nỗi đau của các nhân vật trong tác phẩm. Những câu chuyện và nỗi đau của họ đã tạo nên một bức tranh đa chiều về cuộc sống, về tình yêu và về sự mất mát. Tôi nghĩ rằng cuốn tiểu thuyết này sẽ là một lựa chọn phù hợp cho những ai yêu thích văn học Việt Nam đương đại. Mời các bạn mượn đọc sách Wittgenstein Của Thiên Đường Đen của tác giả Maik Cây.
Nàng Nadja
Tóm tắt & Review (Đánh Giá) sách Nàng Nadja (Tiếng Việt) của tác giả André Breton. Nadja là cuốn tiểu thuyết nổi tiếng của nhà văn người Pháp André Breton. Tác phẩm được sáng tác vào năm 1928. Cuốn tiểu thuyết dựa trên cuộc đời của một có gái tên là Nadja (tên thật của cô là Léona Camile Ghislaine Delacourt). Đây là cuốn tiểu thuyết thể hiện rõ phong cách siêu thực của Breton. *** André Breton (1896-1966) là nhà văn và nhà thơ người Pháp. Ông là người khai sinh ra nghệ thuật siêu thực, chủ nghĩa nghệ thuật làm nên nền văn học Pháp trong giai đoạn từ năm 1922 đến Chiến tranh thế giới thứ hai. Một trong những tác phẩm nổi tiếng của ông đó là Nadja. *** Tóm tắt Cuốn tiểu thuyết Nadja kể về cuộc gặp gỡ giữa nhà văn André Breton và một cô gái trẻ tên là Nadja. Breton gặp Nadja trong một buổi dạo chơi ở Paris. Cô gái trẻ này gây ấn tượng với Breton bởi vẻ ngoài kỳ lạ và tính cách lập dị. Breton và Nadja bắt đầu gặp gỡ và trò chuyện, họ nhanh chóng có cảm tình với nhau. Breton và Nadja cùng khám phá Paris, họ đi dạo trên những con đường, ghé thăm những quán cà phê, và tham dự những buổi biểu diễn nghệ thuật. Trong những cuộc gặp gỡ này, Breton dần dần nhận ra rằng Nadja là một người có khả năng nhìn thấy những điều bí ẩn. Cô gái trẻ này có thể thấy những linh hồn, những con vật kỳ lạ, và những hiện tượng siêu nhiên. Tuy nhiên, mối quan hệ giữa Breton và Nadja không thể kéo dài. Nadja bị bắt vào bệnh viện tâm thần, và Breton buộc phải rời xa cô gái trẻ. Cuốn tiểu thuyết kết thúc với việc Breton trở về Paris một mình, mang theo những hồi ức về Nadja. Review Nadja là một cuốn tiểu thuyết đặc biệt, nó không có một cốt truyện rõ ràng, mà chỉ là những dòng hồi ức của Breton về cuộc gặp gỡ của mình với Nadja. Cuốn tiểu thuyết thể hiện rõ phong cách siêu thực của Breton, với những hình ảnh và ý tưởng kỳ lạ, phi logic. Nadja là một cuốn tiểu thuyết mang tính cá nhân sâu sắc. Nó là một câu chuyện về tình yêu, về sự khao khát tìm kiếm cái đẹp, và về những điều bí ẩn của cuộc sống. Ưu điểm Cuốn tiểu thuyết thể hiện rõ phong cách siêu thực của Breton. Cuốn tiểu thuyết mang tính cá nhân sâu sắc. Cuốn tiểu thuyết có những hình ảnh và ý tưởng kỳ lạ, phi logic. Nhược điểm Cuốn tiểu thuyết không có một cốt truyện rõ ràng. Cuốn tiểu thuyết có thể gây khó hiểu đối với một số độc giả. Kết luận Nadja là một cuốn tiểu thuyết đáng đọc đối với những ai yêu thích văn học siêu thực. Đây là một cuốn tiểu thuyết độc đáo và ấn tượng, mang đến cho người đọc những trải nghiệm mới mẻ. Đánh giá cá nhân Tôi đánh giá cao cuốn tiểu thuyết Nadja. Đây là một cuốn tiểu thuyết xuất sắc, thể hiện rõ phong cách siêu thực của Breton. Tôi rất thích những hình ảnh và ý tưởng kỳ lạ, phi logic trong cuốn tiểu thuyết. Tôi cũng rất ấn tượng với tình yêu của Breton dành cho Nadja, một tình yêu chân thành và mãnh liệt. Tuy nhiên, tôi cũng nhận thấy rằng cuốn tiểu thuyết có thể gây khó hiểu đối với một số độc giả. Cuốn tiểu thuyết không có một cốt truyện rõ ràng, và nó có thể khiến người đọc cảm thấy lạc lõng. Nhìn chung, tôi nghĩ Nadja là một cuốn tiểu thuyết đáng đọc. Đây là một cuốn tiểu thuyết độc đáo và ấn tượng, mang đến cho người đọc những trải nghiệm mới mẻ.   Mời các bạn mượn đọc sách Nàng Nadja (Tiếng Việt) của tác giả André Breton.
Năm Mươi Người
Trên chiếc bàn thấp rộng rãi không có bất cứ thứ gì đặt trên đó, tôi muốn đổ thật nhiều những miếng ghép hình ra và dành thật nhiều thời gian để ghép chúng lại với nhau. Tôi nghĩ dù là mùa thu hay mùa đông thì cũng đều là những mùa thích hợp để làm việc đó. Khi thử ghép chúng lại với nhau, tôi mới thấy đến cuối cùng, thường chỉ còn lại những mảnh ghép xanh da trời nhạt gần với màu trắng mà thôi. Những mảnh ghép màu xanh da trời có in hình mặt người, hoặc có đường nét rõ ràng của sự vật, hay có màu sắc nổi bật thì dễ tìm được đúng vị trí. Nhưng những mảnh ghép màu xanh da trời nhạt lại chẳng dễ chút nào. Khi cầm những mảnh ghép đó, bỗng dưng tôi có suy nghĩ muốn viết một cuốn tiểu thuyết mà không có nhân vật chính, hoặc là một cuốn tiểu thuyết với khoảng 50 nhân vật chính. Vì tất cả đều là nhân vật chính nên dù mỗi người đều không có gì ngoài màu trắng ngà thì họ cũng sẽ sát cánh bên nhau để tìm ra vị trí của mình. Tôi muốn viết những câu chuyện như thế. Trích từ “Lời tác giả” ĐOẠN TRÍCH TRONG SÁCH Bà đến đặt túi đậu đỏ vào đầu giường con dâu thì thấy con bé đang ngủ. “Đừng đánh thức nó dậy”, bà nghĩ như thế, vậy nên chỉ nhẹ nhàng đặt chiếc túi nhỏ cạnh gối rồi thôi. “Cái này là gì thế mẹ? Bên trong đựng gì vậy ạ?” Chắc mới ngủ chưa sâu nên con dâu của bà đã tỉnh. “Là đậu đỏ đấy.” Nghe xong câu trả lời của bà, Yoon Na đã cười sau một thời gian dài. “Lúc mà con vẫn còn sống một mình trước khi kết hôn ấy, con đã nhận được một cuộc điện thoại từ mẹ vào ngày sinh nhật. Mẹ bảo là dù sao đi nữa cũng hãy ăn món gì đó làm từ đậu đỏ. Mẹ cứ nhắc đi nhắc lại mãi rằng phải như thế mới không bị ma quỷ bám theo. Nhưng hôm ấy, vì công việc kết thúc muộn nên con đã không thể mua được gì ăn cả, rồi mẹ biết con đã ăn gì không?” “Con đã ăn gì?” “Kem Bibibik ạ.” Lần tới đến lượt Ae Seon cười. “Mẹ mua cho con nhé? Kem Bibibik ấy?” “Vâng, con muốn ăn ạ.” Ae Seon vừa đi thang máy xuống cửa hàng vừa ngọ nguậy ngón chân. Vì là thang máy thuỷ lực nên rất chậm. Ở cửa hàng trong bệnh viện không có loại kem ấy nên bà đã phải đi mấy siêu thị gần đó, nhưng chẳng sao cả. Cuối cùng khi tìm mua được kem Bibibik mang về, Ae Seon đã không thể kìm nén mà đung đưa túi đựng đồ trong tay, bệnh viêm dính khớp vai cũng tạm thời phải nhượng bộ. Nếu có ai nhìn thấy cảnh này, chắc hẳn họ sẽ nói đó là điệu nhảy chim sẻ vì trông bà phấn khích quá. “Con à, cười lên đi. Đừng sợ, hãy ném nỗi sợ hãi đi thật xa, giống như những đứa trẻ đang cố gắng để làm vỡ quả bóng hình trái bí trong ngày hội thể dục thể thao. Con hãy chiến đấu nhé, đừng để bị thương và rơi xuống hố.” Khi Ae Seon nói ra những điều đó, bà nhớ lại rằng mình đã từng mong muốn có một đứa con gái đến như thế nào. Khi nghĩ đến hai cô con dâu của mình, bà cảm thấy chúng chẳng khác gì so với con gái ruột. Thật ra là bà có tới bốn đứa con, bốn đấy. Dù cho có trở thành thần Atula chứ không phải Bồ Tát thì những đứa trẻ mà bà muốn bảo vệ cũng vẫn là bốn. Thế nhưng thứ sẽ bảo vệ những đứa trẻ ấy thì không có gì ngoài đậu đỏ, chỉ có duy nhất đậu đỏ mà thôi. Mời các bạn mượn đọc sách Năm Mươi Người của tác giả Chung Serang & Lê Thị Thu Hương (dịch).