Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Kẻ Tẩy Não

Những gì mắt thấy tai nghe chưa chắc đã là sự thật.   Xác chết của một phụ nữ trẻ tuổi cùng hai bộ xương tình cờ được phát hiện tại một khu vực vốn biệt lập và nổi tiếng yên bình của Thụy Điển. cả ba đều có những thương tích như nhau, đều bị hành hạ một cách có hệ thống suốt một thời gian dài trước khi bị giết chết. Vụ việc giống như quả bom làm đảo lộn hoàn toàn nhịp sống của mọi người. Những khách du lịch đang háo hức với kỳ nghỉ nhanh chóng rời, chính quyền địa phương đứng ngồi không yên… Câu chuyện mở ra những bí mật khủng khiếp ẩn sâu dưới vẻ bề ngoài tĩnh lặng của cộng đồng. Tất cả dẫn tới hậu duệ của một nhà truyền giáo đã qua đời - người đã truyền “khả năng chữa bệnh” của mình cho hai con trai. Được nhào nặn trong tay một nữ tác giả được coi là Agatha Christie của Thụy Điển cuốn sách trở nên một tiểu thuyết tâm lý tội phạm nổi bật, điên rồ và ám ảnh.   “Cốt truyện thông minh và khả năng khắc họa nội tâm nhân vật thật cá tính đã nâng Kẻ tẩy não lên trên tầm những cuốn tiểu thuyết trinh thám khác. - Washington Post   “Bậc thầy trong sự kết hợp giữa nội tâm ấm áp và những kinh hoàng đổ máu.” - The Guardian *** Mình đã kết tác giả Camilla Lackberg từ khi đọc tiểu thuyết trinh thám “Công Chúa Băng” của bà (là tập đầu tiên trong series xoay quanh cặp đôi nhà điều tra Erica Falck và Patrik Hedstrom). Cuốn “Công Chúa Băng” mình đọc thấy cuốn hút thiệt luôn, tình huống dẫn tới cuộc điều tra, các ngóc ngách trong đời sống cá nhân và đời tập thể ở vùng Fjällbacka của Thụy Điển được miêu tả rất lôi cuốn, sự thật phơi bày thì vừa lạnh gáy vừa đau lòng, cái kết hợp lý, nên là khi thấy Nhã Nam xuất bản tập tiếp theo trong series này, mình phải lật đật mua ngay về đọc. Tuy nhiên, trải nghiệm của mình với “Kẻ Tẩy Não” lại không được như mong đợi… Bối cảnh vụ án trong cuốn này phải nói là khá hấp dẫn: xác chết của một thiếu nữ không mảnh vải che thân, cơ thể có nhiều vết thương do bị hành hạ liên tục trong nhiều ngày được phát hiện ở Khe Vua, bên dưới xác chết, người ta đào được 2 bộ xương của 2 thiếu nữ khác cũng bị sát hại theo cùng cách thức, nhưng thời gian là vào 20 năm trước. Nghe là ly kỳ rồi ha, vì có thể có 2 trường hợp: có 1 kẻ thủ ác chịu trách nhiệm cho các vụ án trong quá khứ và ở hiện tại, hay là 1 kẻ là hung thủ trong quá khứ, 1 kẻ khác ở hiện tại tiếp tục gây án theo cách thức tương tự… Tuy nhiên, diễn tiến các giai đoạn điều tra các vụ án này được miêu tả khá là chậm chạp và máy móc, và chả hiểu sao mà mình có cảm giác không có mấy bất ngờ ở cuốn này. Có thể do khi đọc tiểu thuyết trinh thám vùng bán đảo Scandinavia, các nước Bắc Âu (Scandinavian crime fiction) thì mình hy vọng bối cảnh sẽ có cái gì đó lạnh lẽo, rùng rợn, kiểu giống “Công Chúa Băng”, mùa đông tháng giá đồ đó, mà câu chuyện trong “Kẻ Tẩy Não” lại diễn ra vào mùa hè, nên mất đi một phần nét lôi cuốn vốn có của tiểu thuyết trinh thám Bắc Âu… Nhưng mà thiệt sự là mình không thích mấy cái nhịp điệu kể chuyện chầm chậm, từ từ đó của tác giả ở cuốn này. Chưa hết, mình có cảm giác công cuộc điều tra của Patrik – đáng lẽ phải là nội dung chính của tác phẩm – lại bị lu mờ trước những chi tiết có phần hài hước về đời sống riêng của bà bầu Erica, bầu bí tới tháng thứ 8 mà vẫn phải một thân một mình đối mặt với mấy người thân không tốt đẹp gì cho cam, vô cùng bất lịch sự. Mình vốn rất thích đọc thêm về các chi tiết thuộc đời sống riêng của nhân vật là thám tử điều tra trong các cuốn tiểu thuyết trinh thám, vì theo mình, các chi tiết này có thể soi rọi thêm ánh sáng vào những góc khuất trong tâm trí của nhân vật chính, làm tăng thêm độ hấp dẫn và đóng góp sự đa dạng vào cốt truyện. Nhưng trong mọi trường hợp, công cuộc điều tra phải luôn là đối tượng chính của một cuốn tiểu thuyết trinh thám, chứ không phải mấy câu chuyện đời tư lặt vặt này… Hồi mình đọc tiểu thuyết trinh thám của một tác giả Scandinavian khác là Samuel Bjork, mình thấy bác này cũng đưa các chi tiết về đời tư, tính cách, suy nghĩ, cảm nhận của nhân vật điều tra viên vào tác phẩm, nhưng nó hoàn toàn không gây loãng mạch truyện chút nào; ngược lại, nó mang thêm độ thấu cảm và u ám cho câu chuyện vốn đã khá ghê rợn. Chứ còn cuốn này thì mình thấy tác giả giống như cố tình cho độc giả “hít drama” của các nhân vật để chuẩn bị cho đoạn sau bùng nổ hơn hay sao á… Mà mấy cái drama này đọc một lần thì thấy cũng hài hài, chứ đọc hoài thiệt mắc mệt… Thêm câu chuyện tình duyên luôn chả đâu vào đâu của Anna, em gái của Erica nữa… Tinh hoa/phần hay nhất của cuốn này nằm ở những trang cuối và gần cuối, khi việc điều tra tiến đến giai đoạn sau cùng là tìm ra chân tướng thủ phạm. Trước phần hạ màn này thì tác giả có cố gắng cài cắm một chút red herring, để Patrik và đồng sự cùng độc giả nghĩ rằng sẽ có thể có một cú twist, hoặc một điều gì đó chưa ai nghĩ ra hay dự tính trước sẽ xuất hiện. Nhưng cuối cùng thì chân tướng hung thủ không nằm ngoài dự đoán và cảm nhận của mình, nên thành ra mình không thấy thực sự muốn lật bàn hay té ghế gì lắm :D Chỉ ấn tượng nhất là cái độ điên loạn của tên hung thủ (hay là các tên hung thủ ta? ^^ bạn đọc sẽ rõ :)))), và những tội ác ghê tởm nào mà con người có thể thực hiện nhân danh tôn giáo. Nói chung mình đánh giá cuốn này ở tầm khá, không phải hay (thua xa “Công Chúa Băng”) nhưng cũng không phải là dở. Đọc để giải trí trong mấy ngày Tết thì chắc ổn. Mình đánh giá tầm 3/5 hoặc 6.5/10, đó là nhờ đoạn phá án thì nhịp truyện bắt đầu dồn dập lên, mình đọc một lèo tới hết luôn đó ^^ Chứ mấy đoạn trước mình nhơi nhơi vì thực sự không thấy có nhiều điều hấp dẫn, đọc từ hồi trước Tết mà giờ hết Tết tới nơi rồi mới xong :D Mà trùng hợp là gã hung thủ (hay là các gã hung thủ nhỉ? :D Again, bạn đọc sẽ rõ ^^) của cuốn này trùng tên với gã hung thủ của một cuốn trinh thám Bắc Âu khác mà mình đọc hồi cuối năm ngoái (mà mình không nói là cuốn nào đâu, nói ra là spoil hết rồi :D). Nhi Nguyễn's Reviews *** Review sách Kẻ Tẩy Não - Phuc Hieu Truyện bắt đầu khi một cậu bé trốn nhà đi chơi thì tình cờ phát hiện ra thi thể của một phụ nữ trẻ trong hẻm núi. Khi cảnh sát đến hiện trường, họ phát hiện ra thêm hai bộ xương được chôn bên dưới thi thể đó. Hai bộ xương đó nhiều khả năng là của hai cô gái đã mất tích từ những năm 1970. Còn người phụ nữ vừa mới chết kia? Không ai biết cô ta là ai… Từ đó, cuộc điều tra về những cô gái bị bắt cóc và tra tấn tới chết được mở ra, bóc tách những bí mật khủng khiếp trong một gia tộc được che giấu trong nhiều thế hệ… Thường thì điều làm nên cái hay ho, đặc sắc ở một cuốn truyện trinh thám là quá trình phá án gay cấn, căng thẳng và đoạn kết thật bất ngờ, bất ngờ đến mức độc giả ngã ngửa ra sau. Nhưng Kẻ Tẩy Não thì không có cả hai điều đó. Điều đặc biệt tạo nên vị trí của nó, cũng như những cuốn truyện khác của cùng tác giả, trên bản đồ trinh thám thế giới là sự chân thực. Sự chân thực khi mô tả vẻ nhàm chán buồn ngủ của thị trấn Fjällbacka. Sự chân thực khi khắc họa mỗi nhân vật, cả chính lẫn phụ, từ nạn nhân, hung thủ, nghi can cho đến cảnh sát, ai cũng được dành cho một phần (dù có thể rất nhỏ) để bộc lộ những suy nghĩ của riêng mình. Nỗi đau của những người thân của các cô gái mất tích có thể khiến độc giả xúc động muốn khóc. Mấy vị khách phiền nhiễu đến quấy rầy Patrik và Erica khiến độc giả cũng điên đầu luôn. Những cảnh sát tầm thường (đến vô dụng) khiến độc giả phát ngán. Chẳng có một chút nào thần thông quảng đại, đoán đâu trúng đó như các hình mẫu ngời ngời của Holmes, của Poirot. Ngay cả Patrik là cảnh sát có năng lực nhất đồn cũng nhiều lần phán đoán sai tùm lum. Còn mấy người khác thì khỏi nói đi, đã làm ăn không nên hồn, lại chỉ phá team là giỏi. Nhưng như vậy mới chân thực. Trong các truyện trinh thám khác, thường thì nhân vật chính, là thám tử hoặc cảnh sát, có thể suy-luận rồi khẳng-định luôn. Ví dụ như khi phát hiện ra hai bộ xương cũ kỹ, ồ chắc chắn đây là của hai cô gái mất tích năm xưa rồi. Nhưng không, đồn cảnh sát Fjällbacka không thể khẳng định như thế. Họ phải lấy mẫu, phải xét nghiệm, phải chờ kết quả. Chờ thực sự ấy. Không phải đưa mẫu xong là OK, có kết quả luôn. Họ phải điều tra những manh mối khác cho đến khi nhận thông báo từ phòng thí nghiệm. Họ phải làm những công việc nhàm chán, họ phát chán mà độc giả cũng phát chán, như đi hỏi han loanh quanh từng người sống gần hiện trường… Có lẽ đó mới thực sự là những công việc phi-hư-cấu của cảnh sát. Độc giả có thể theo chân họ, biết hết mọi điều họ đã thu nhận được, bởi tác giả không giấu giếm một manh mối nào. Tuy nhiên thủ phạm vẫn khá bất ngờ, theo kiểu chắc-chắn-là-kẻ-đó, ơ-hóa-ra-không-phải, á-chính-là-kẻ-đó-mà! Bởi manh mối quan trọng dùng để phá án được cài khéo quá khiến độc giả dễ, rất dễ bỏ qua. Nói chung tôi không thích trinh thám Bắc Âu lắm, cũng không hâm mộ tác giả Camilla Läckberg, nên chỉ chấm “Kẻ Tẩy Não” 7.5/10 thôi. Ai thích thể loại này thì có thể sẽ đánh giá cao hơn. P. S. Cái tên “Kẻ Tẩy Não” là do biên tập viên đặt, xin đừng hỏi dịch giả tại sao *** Ngày mới bắt đầu đầy hứa hẹn. Cậu bé dậy sớm hơn những người còn lại trong nhà, cố gắng mặc quần áo lặng lẽ hết mức có thể, rồi lẻn ra ngoài sao cho không ai chú ý. Cậu mang theo mũ hiệp sĩ và thanh kiếm gỗ, vừa hớn hở vung vẩy thanh kiếm vừa chạy trăm mét từ nhà xuống đến cửa Khe Vua. Cậu dừng lại một lát và kinh ngạc nhìn vào cái khe hun hút giữa hai vách đá dựng đứng. Hai bên khe đá cách nhau khoảng hai mét và cao đến hơn chín mét vươn trên bầu trời vừa được mặt trời mùa hè chiếu sáng. Ba tảng đá lớn nêm chặt giữa khe, một cảnh tượng thật hùng vĩ. Nơi đây có sức hút đầy ma lực đối với một cậu bé sáu tuổi. Việc Khe Vua là vùng đất cấm thực ra càng làm cho nơi đây hấp dẫn hơn. Cái tên này có nguồn gốc từ khi Vua Oscar Đệ Nhị đến thăm Fjällbacka hồi cuối thế kỷ mười chín, nhưng cậu bé không biết và cũng không quan tâm tới điều đó khi rón rén bước vào vùng tối, tay lăm lăm thanh kiếm sẵn sàng trong thế tấn công. Bố đã nói với cậu rằng những cảnh ở Rãnh Địa Ngục trong phim Ronja Rövardotter đã được quay bên trong Khe Vua. Khi xem phim một mình, cậu thấy ngứa ngáy trong bụng lúc nhìn tướng cướp Mattis phóng qua. Đôi khi cậu cũng chơi trò lục lâm ở đây, nhưng hôm nay cậu là một hiệp sĩ. Một Hiệp sĩ Bàn Tròn, như trong cuốn sách to có tô màu mà bà ngoại đã tặng dịp sinh nhật cậu. Cậu đánh bạo cầm kiếm leo qua những tảng đá nằm trên nền đất và đã sẵn sàng tấn công con rồng phun lửa khổng lồ. Mặt trời giữa trưa hè cũng không thể rọi xuống đến đáy khe được, nên chỗ này vừa tối vừa lạnh. Đó là chỗ trú ẩn lý tưởng cho loài rồng. Rất nhanh thôi cậu sẽ khiến máu phun ra từ cổ họng nó, và sau con hấp hối kéo dài đầy đau đớn, nó sẽ phải gục chết dưới chân cậu. Qua khóe mắt, cậu liếc thấy thứ gì đó khiến cậu phải chú ý. Cậu thoáng thấy một mảnh vải màu đỏ đằng sau một tảng đá, rồi tính tò mò thôi thúc cậu tiến lại gần hơn. Có thể là con rồng đang chờ đợi, có thể là kho báu được giấu ở đó. Cậu nhảy lên trên tảng đá và nhìn xuống phía bên kia. Trong thoáng chốc cậu gần như ngã ngửa ra, nhưng sau khi ngả nghiêng và vung tay loạn xạ cậu cũng lấy lại được thăng bằng. Sau này, cậu không thừa nhận rằng mình đã khiếp sợ, nhưng vào lúc đó, trong khoảnh khắc đó, cậu chưa bao giờ cảm thấy kinh hãi hơn thế suốt sáu năm cuộc đời mình. Một phụ nữ đang nằm đó chờ đợi cậu. Cô ta nằm ngửa, nhìn thẳng vào cậu với đôi mắt mở to. Trực giác mách bảo cậu phải chạy trốn trước khi cô ta bắt gặp cậu đang chơi ở đây mà không được phép. Có thể cô ta sẽ buộc cậu phải nói với cô ta nơi cậu sống và sau đó sẽ kéo cậu về nhà với bố mẹ. Họ sẽ rất tức giận, và họ chắc chắn sẽ hỏi: đã bao nhiêu lần bố mẹ dặn là con không được đi đến Khe Vua nếu không có người lớn đi cùng rồi? Nhưng kỳ lạ thay người phụ nữ không hề nhúc nhích. Cô ta cũng không có mảnh vải nào che thân, và cậu bé thoáng ngượng ngùng khi thấy mình cứ đứng đó mà nhìn người phụ nữ trần truồng như vậy. Màu đỏ mà cậu nhìn thấy không phải là một mảnh vải, mà là thứ gì đó ướt át treo ngay bên cạnh cô ta, và cậu chẳng thấy quần áo của cô ta đâu cả. Buồn cười thật, cứ nằm đó trần truồng. Nhất là khi trời lạnh thế này. Rồi cậu nghĩ đến một điều tưởng như không thể. Có thể người phụ nữ này đã chết! Cậu không thể nghĩ ra bất kỳ lời giải thích nào khác cho việc tại sao cô ta lại cứ nằm im như thế. Nhận ra điều đó, cậu nhảy khỏi tảng đá, và chầm chậm lùi dần về phía cửa khe. Sau khi đã cách người chết vài mét, cậu quay người lại và chạy thục mạng về nhà. Cậu không còn quan tâm liệu mình có bị mắng hay không nữa. Mồ hôi đã khiến khăn trải giường dính vào cơ thể cô. Erica trằn trọc trên giường, nhưng vẫn không thấy tư thế nào thoải mái. Trời đêm hè vẫn sáng trưng chẳng khiến cô dễ ngủ hơn, và phải đến cả ngàn lần cô đã tự nhắc mình nhớ mua rèm cửa, hay đúng hơn là thuyết phục Patrik đi mua một cái. ... Mời các bạn đón đọc Kẻ Tẩy Não của tác giả Camilla Lackberg & Mẫn Nhi (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Thập Giác Quán - Yukito Ayatsuji
“Phải giết từng đứa, từng đứa một…” Một ngày nọ, có bảy sinh viên thuộc Hội nghiên cứu tiểu thuyết trinh thám Đại học K ra thăm hoang đảo Tsunojima. Ở đây có một tòa nhà độc đáo hình thập giác, tác phẩm của một kiến trúc sư đã chết cháy nửa năm về trước. Vốn yêu thích và ham suy luận, họ toan kết hợp việc vui chơi với điều tra khám phá các bí mật ẩn sau vụ chết cháy này, nhưng chẳng ai ngờ chuyến thăm đảo lại mau chóng biến thành một chuỗi án mạng mới, và các sinh viên lần lượt biến thành nạn nhân trong một kế hoạch ám sát tinh vi. Bảy ngày và bảy người… Giác quán giữa Giác đảo… Ai là kẻ sát nhân? Ai là người tiếp theo phải chết? Tại sao? Và quan trọng hơn: Làm cách nào thoát nạn? Chẳng thể tin tưởng một ai, từng nạn nhân đơn độc đối mặt với quỷ dữ, run rẩy vén bức màn ma mị để tìm ra sự thật. Bằng kiến thức thu lượm được từ kho truyện trinh thám đã tích lũy, liệu họ có vạch mặt chỉ tên được kẻ thủ ác và thoát nạn, hay có học mà không có hành, cuối cùng sẽ đi đến kết cục bi thảm là cuối cùng chẳng còn một ai? Thập Giác Quán được đánh giá là có cái kết khiến người đọc sững sờ nhất trong lịch sử tiểu thuyết trinh thám Nhật Bản. *** Thập Giác Quán (1987) là cuốn tiểu thuyết đầu tay thuộc thể loại trinh thám cổ điển của nhà văn Yukito Ayatsuji. Tác phẩm nằm trong series Quán: Thập Giác Quán – 1987; Thủy Xa Quán – 1988; Mê Cung Quán – 1988; Hình Nhân Quán – 1989; Chung Biểu Quán – 1991; Hắc Miêu Quán – 1992; Hắc Ám Quán – 2004; Kinh Hoàng Quán – 2006  Kỳ Diện Quán – 2012. Thập Giác Quán được đánh giá là có cái kết khiến người đọc sững sờ nhất lịch sử tiểu thuyết trinh thám Nhật Bản. Thập Giác Quán gồm 12 chương (không kể mở đầu và hồi kết), xoay quanh chuyến hành trình một tuần ghé thăm hoang đảo Tsunojima của bảy sinh viên thuộc Hội nghiên cứu tiểu thuyết trinh thám Đại học K. Mỗi nhân vật đều có cho mình một biệt hiệu riêng mượn từ tên các nhà văn trinh thám Âu-Mỹ mà họ ngưỡng mộ, theo thứ tự lần lượt là: Yamasaki Yoshifumi – Edgard Poe, Suzuki Tetsuro – John Dickson Carr, Matsuura Junya – Ellery Queen, Iwasaki Yoko – Agatha Christie, Oono Yumi – Emma Orczy,  Higashi Hajime – Gaston Leroux và Morisu Kyoichi – S.S Van Dine. *** Có cùng mô tuýp với Mười người da đen nhỏ của nữ hoàng trinh thám người Anh Agatha Christie về bối cảnh và lối gây án, song Thập Giác Quán đã tạo được chỗ đứng nhất định cho mình khi đã lồng ghép rất hoàn hảo các diễn biến của vụ án cả trên đảo và đất liền. Tình tiết được xây dựng khá lôi cuốn ngay từ những trang đầu tiên, luôn thôi thúc người đọc mau chóng khám phá sự thật, nhưng càng về cuối lại càng không thành công. Tuy được đánh giá là có cái kết ấn tượng, nhưng nếu bạn là người “sành” trinh thám, thì chỉ cần vài chương là đã đoán được hung thủ là ai. Tác giả đã đề cập luận điểm “chủ nhà” khá sớm, và mặc dù diễn biến dần khiên cưỡng và mờ mịt, nhưng dường như cũng không có ý phủ nhận luận điểm này. Động cơ gây án cũng là một điểm trừ nữa cho Thập Giác Quán, khi trong mắt độc giả, lý do trả thù dường như không đủ để gây ra một vụ thảm sát có tính toán và quy mô lớn nhường này. *** Thập Giác Quán vẫn là một cuốn truyện đáng mua đối với những ai đam mê trinh thám nói chung. Còn một khi bạn đã là fan “ruột” của thể loại trinh thám cổ điển, thể loại mà theo lời Ellery nói thì: “Có thể cho tôi là hoài cổ, nhưng tiểu thuyết trinh thám thực chất chỉ cần: một thám tử tài ba, một tòa nhà rộng lớn, những kẻ mờ ám, bi kịch đẫm máu, tội ác không tưởng, và những trò lừa có một không hai của hung thủ.”; sẽ thật may mắn nếu bạn không mua phải cuốn này.
Hồ Sơ Tội Phạm - Diệp Mộc Nhiên
Tâm lý học tội phạm bao hàm một phạm vi rất rộng gồm nhiều chủ đề hấp dẫn. Suốt nhiều thế kỷ qua, con người đã luôn hứng thú với tội ác, và trong hàng trăm năm gần đây, tâm lý học đã phát triển từ một một môn học non nớt thành một một bộ phận trọng yếu trong cuộc sống. Ở một vài nước trên thế giới (như Mỹ, Anh Quốc), tâm lý học nằm trong top 3 môn học phổ biến được nhiều sinh viên chọn học nhất ở trường đại học và cao đẳng. Tâm lý học bây giờ đã được công nhận là có mối liên hệ bậc nhất với nhiều khía cạnh của cuộc sống, đặc biệt với những tội phạm, tù nhân, cảnh sát, nhân chứng và tòa án. Cuốn sách này được viết cho cộng đồng nói chung, những ai có mong muốn hiểu thấu đáo hơn về tâm lý học tội phạm hơn là những kiến thức từ phương tiện truyền thông phổ biến như báo chí và truyền hình. Trong cuốn sách này, chúng tôi giải thích bằng một cách thân thiện, dễ hiểu đối với độc giả về nền tảng của tâm lý học tội phạm hiện đại. Do đó cuốn sách sẽ phù hợp với những ai có sở thích bắt đầu nghiên cứu về tâm lý học tội phạm. *** Hồ Sơ Tội Phạm 1 Chủ Đề: Triệu Chứng Chung Của Người Bị Biến Thái Nhân Cách Tội Phạm Biến Thái Top 5 Nữ Đồ Tể Khét Tiếng Nhất Trong Lịch Sử Nhân Loại Biến Thái Quá Trình Thiết Lập Hồ Sơ Tội Phạm Lập Hồ Sơ Tội Phạm Dựa Theo Địa Lý Vùng Gây Án (Geographic Profiling) Phần 1 Thái Nhân Cách - Trừng Phạt Chẳng Có Nghĩa Gì Tâm Lý Kẻ Sát Nhân Hàng Loạt - "Mục Tiêu Danh Vọng" Lý Do Những Đứa Trẻ Lại Giết Cha Mẹ Chúng? (Phần 1) Lý Do Những Đứa Trẻ Lại Giết Cha Mẹ Chúng? (Phần 2) Những "Bậc Thầy" Của Những Tên Sát Nhân Mô Phỏng Tội Phạm Cũng "Quan Trọng Tiểu Tiết" Cách Những Kẻ Lừa Đảo Ẩn Mình Dưới Con Mắt Người Thường Những Tội Phạm Trông Khác Biệt Với Những Người Không Phải Tội Phạm "Biến Mình" Thành Kẻ Sát Nhân Để Truy Tìm Tội Phạm Hội Chứng C.S.I Tâm Lý Hung Thủ Giết Người Cảnh Sát Phân Tích Tâm Lý Tội Phạm - Lực Lượng Đặc Biệt Của Cảnh Sát Tâm Lý Học Tội Phạm: Tội Ác Phát Sinh Từ Đâu? Cái Chết Của Tên Tội Phạm Và Nghi Án Về Chứng "Loạn Dâm" Gây Ngạt Lệch Lạc Tình Dục: Phô Dâm, Thị Dâm Và Loạn Dục Cảm Xúc Rối Loạn Ám Ảnh Cưỡng Chế Và Rối Loạn Nhân Cách Ám Ảnh Cưỡng Chế (Ocd & Ocpd) Rối Loạn Nhân Cách Hoang Tưởng (Paranoid Personality Disorder) Đại Cương Về Chứng Thái Nhân Cách *** Lời Biên Tập Viên: Đây không phải sản phẩm do mình làm ra mà là những kết tinh trí tuệ của các nhà tâm lý tội phạm học. Là kết quả tìm hiểu và sưu tầm của mình với mục đích học tập và giải trí nhằm thỏa mãn nhu cầu khám phá về phương diện tâm lý cũng như chia sẻ cho mọi người đọc. Trong chuỗi bài sưu tầm có thể có những vụ án mạng kinh hãi,dễ gây ảnh hưởng đến tâm lý sau này. Xin hãy suy xét kĩ trước khi đọc,hãy đọc khi đủ tuổi trưởng thành... Cuối cùng,cảm ơn vì đã ủng hộ. Nếu cảm thấy hay thì vote cho mình 1 phiếu. Cảm ơn!
Việc Máu - Michael Connelly
Terry McCaleb không ở  đỉnh cao phong độ của một đặc vụ FBI dày dặn kinh nghiệm. Ông mới ngoài bốn mươi tuổi, lẽ ra vẫn còn có thể tiếp tục cày xới thế giới tội  ác ở Los Angeles, nhưng trái tim của ông đã  đầu hàng, ông phải thay tim và thấy trước mặt  mình một cuộc sống khác hẳn. Rồi người phụ nữ  đó xuất hiện, không hề báo trước, ngay tại nơi trú ẩn tuổi già của ông. Và McCaleb buộc phải gắng gượng tìm lại phong độ tưởng chừng đã vĩnh viễn mất đi, lần mò theo những lối  đi gian nan nhất của sa mạc và của trí tuệ, với một trái tim của người khác đập trong lồng ngực. Terry McCaleb và Graciela Torres bỗng chốc khám phá ra rất nhiều điều bí ẩn của các tội ác, cũng như bí ẩn trong mối quan hệ tình cảm con người. Michael Connelly ở độ chín của tài năng và phong cách, một cuốn tiểu thuyết trinh thám có nhịp điệu mạnh liên hồi, tàn khốc nhưng không mất đi sự mềm mại, nhân bản, thậm chí là lãng mạn. *** Michael Connelly sinh ngày 21.7.1956. Ông là một nhà văn, nhà báo Mỹ. Văn đàn thế giới coi M. Connelly là "ông hoàng trinh thám Mỹ", có lẽ bởi nhiều tác phẩm thuộc thể tài này của ông đã được dịch ra hơn 40 thứ tiếng và bản thân M. Connelly đã đoạt nhiều giải thưởng văn học quan trọng nhờ số truyện trinh thám mà ông đã viết. Người biết M. Connelly nói ông viết truyện trinh thám không phải do tình cờ, cũng chẳng phải do sự bồng bột, một "tình yêu sét đánh nào đó", mà là do ông có vốn sống giàu có về lĩnh vực điều tra tội phạm. Tất cả bắt đầu từ khi M. Connelly tốt nghiệp Đại học Florida năm 1980 và khởi đầu sự nghiệp bằng những bài viết trên tờ Daytona Beach News Journal về vấn đề tội phạm Mỹ, sau đó là viết cho tờ Fort Lauderdale News and Sun-Sentinel, cũng về lĩnh vực này. Những giải thưởng đầu tiên đến với M. Connelly vào năm 1985, khi bài phỏng vấn những nạn nhân còn sống sót sau vụ rớt máy bay Delta Flight 191 của ông lọt vào danh sách đề cử giải Pulitzer - giải thưởng báo chí danh giá bậc nhất dành cho một nhà báo. Hai năm sau, chuyển đến sống tại California, M. Connelly cho ra đời tác phẩm trinh thám đầu tay của mình và gần như ngay sau đó, cuốn The Black Echo được xuất bản và đoạt giải Edgar Award năm 1992. *** McCaleb thấy nàng trước khi nàng thấy ông. Ông đang bước xuống ụ tàu chính, băng qua dãy thuyền của cánh nhà binh thì nhìn thấy người đàn bà đứng trên mũi chiếc Biển Theo Ta. Lúc đó là mười rưỡi sáng một ngày thứ Bảy, tiếng thì thầm ấm áp của mùa xuân khiến nhiều người rời khỏi nhà kéo đến các ụ tàu ở San Pedro. McCaleb đang sắp hoàn tất cuộc đi dạo vào mỗi sáng - đi trọn một vòng quanh Cabrillo Marina, dọc theo đê chắn sóng xây bằng đá rồi quay về. Đến đoạn này thì ông đã mệt bở hơi tai, nhưng ông bước còn chậm rì hơn khi tiến lại gần thuyền. Ý nghĩ đầu tiên của ông là bực bội - người phụ nữ đó đã lên thuyền ông mà không đợi ai mời. Nhưng khi đến gần hơn, ông gạt ý nghĩ đó qua bên mà tự hỏi nàng ta là ai, nàng muốn cái gì. Nàng không mặc quần áo dùng để đi thuyền. Nàng mặc bộ đầm mùa hè suông nhẹ dài tới giữa đùi. Làn gió nổi lên từ mặt nước cứ chực tốc váy nàng khiến nàng phải ép một tay vào hông để giữ yên. McCaleb không thấy hai bàn chân nàng, nhưng qua đường nét cơ bắp săn chắc ông nhìn thấy nơi đôi chân rám nắng của nàng, ông đoán nàng không mang giày dùng để đi thuyền. Nàng nhón gót lên. McCaleb lập tức hiểu ra, nàng đứng đây nhằm để gây ấn tượng với ai đó. McCaleb thì ăn mặc sao cho chẳng gây ấn tượng gì. Ông mang chiếc quần jeans cũ rách te tua vì mặc quá lâu chứ không phải để làm dáng, áo phông mặc từ hồi dự giải Catalina Gold Cup tận mấy mùa hè trước. Quần áo lấm bê lấm bết, chủ yếu là máu cá, đôi phần là máu của chính ông, axit hydrochloric, nhựa poliuretan và dầu máy. Bộ đồ này ông thường mặc để đánh cá nhưng cũng mặc cả khi sửa máy. Cuối tuần này ông định sẽ sửa máy trên thuyền nên ông đang mặc bộ đồ phù hợp. Ông bắt đầu có ý thức hơn về ngoại hình mình trong khi lại gần thuyền và thấy người đàn bà rõ hơn. Ông rút hai miếng mút của máy nghe nhạc ra khỏi tai rồi tắt CD giữa lúc bài “I Ain’t Superstitious” qua giọng Howlin’ Wolf đang phát nửa chừng. “Tôi giúp gì được cho cô?” ông hỏi trước khi bước xuống thuyền của mình. Giọng ông dường như khiến nàng giật mình, đang đứng nơi cánh cửa trượt dẫn vào buồng khách của thuyền nàng liền quay phắt lại. McCaleb đồ rằng nàng gõ lên mặt kính vì cứ nghĩ ông đang ở trong đó. “Tôi tìm Terrell McCaleb.” Nàng là một phụ nữ hấp dẫn ngoài ba mươi đôi chút, trẻ hơn McCaleb tròn chục tuổi hay hơn. Trông nàng quen quen, nhưng ông không nhớ ra ai. Chỉ là ngờ ngợ như quen, thật ra chưa chắc đã phải. Đồng thời ông lại thấy dường như ký ức mình bị đánh động khiến cho ông nhận ra, nhưng rồi điều đó qua nhanh và ông biết mình lầm, ông không quen biết người đàn bà này. Ông thường nhớ được mặt người ta. Mà cô nàng này thì mặt đủ xinh để ông không quên được. Nàng phát âm sai tên ông, đáng lẽ Mác-cây-lép thì nàng nói Mác-ca-lớp, rồi thì nàng lại dùng tên ghi trên giấy tờ của ông, cái tên chẳng ai dùng trừ cánh báo chí. Chính khi đó ông bắt đầu hiểu. Giờ thì ông biết điều gì đã đưa nàng tới con thuyền. Lại một linh hồn lạc lõng đến nhầm nơi phải đến. “McCaleb,” ông chữa lại. “Terry McCaleb.” “Xin lỗi. Tôi, ờ, tôi cứ nghĩ ông đang ở trong thuyền. Tôi không biết nếu bước lên thuyền mà gõ cửa thì có được không.” “Thì cô vẫn làm đó thôi.” Nàng lờ đi lời trách mà nói tiếp. Cứ như thể những điều nàng đang làm và những gì nàng phải nói, nàng đã phải tập đi tập lại nhiều lần. “Tôi cần nói chuyện với ông.” “Ồ, hiện giờ tôi hơi bận.” Ông chỉ tay về phía cánh cửa dẫn xuống hầm thuyền vẫn đang mở toang, may phước là cô nàng chưa lọt xuống, chỉ tay vào đống đồ nghề ông đã trút ra trên một tấm vải màn cạnh cửa sổ đuôi tàu. “Tôi đi loanh quanh tìm cái thuyền này gần cả tiếng rồi,” nàng nói. “Không lâu đâu mà. Tên tôi là Graciela Rivers, tôi chỉ muốn...” “Này, cô Rivers,” ông nói, giơ hai tay lên ngăn lại. “Thực sự là tôi... Cô đọc được về tôi trên báo có đúng không?” Nàng gật. “Thôi được, trước khi cô bắt đầu chuyện của cô, tôi phải nói với cô rằng cô không phải người đầu tiên tới đây tìm tôi hay kiếm số phôn của tôi mà gọi tôi. Và với tất cả những người khác tôi nói gì thì với cô tôi cũng nói thế thôi. Tôi không phải đang tìm việc. Thành thử nếu chuyện là cô muốn thuê tôi hay nhờ tôi giúp cách này cách nọ thì rất tiếc, tôi không làm được. Tôi không phải đang tìm loại việc ấy.” Nàng chẳng nói gì và ông cảm thấy lòng xốn xang cảm thông với nàng, cũng như ông từng cảm thấy với những người khác tới tìm ông trước nàng. “Này, tôi có biết vài ba điều tra viên tư, tôi có thể giới thiệu họ với cô. Hội này giỏi đấy, làm ăn chăm chỉ, họ không lừa cô đâu.” Ông bước lên mép đuôi thuyền, nhặt chiếc kính râm ông quên mang theo khi đi bộ, đeo vào, ra hiệu rằng cuộc nói chuyện thế là dứt. Nhưng cử chỉ và lời lẽ của ông cứ như nước đổ lá khoai đối với nàng ta. “Bài báo nói ông tốt bụng. Nói rằng bất cứ khi nào có kẻ chuồn được là ông ghét cay ghét đắng.” Ông thọc tay vào túi quần, nhún vai. “Cô phải nhớ một điều. Không bao giờ chỉ mình tôi cả. Tôi có người cộng tác, tôi có đội xét nghiệm, tôi có cả Cục ở sau lưng hỗ trợ tôi. Khác xa cái kiểu anh chàng đơn thân độc mã làm gì cũng lầm lũi một mình. Khác nhiều lắm. Dù có muốn, e tôi cũng không giúp cô được.” Nàng gật đầu nên ông đinh ninh đã làm nàng ta thấu hiểu rồi, và với cô này tới đây là hết chuyện. Ông bắt đầu nghĩ tới cái van trên một trong các động cơ thuyền mà ông đang thao tác dở, ông định sẽ làm cho xong nội cuối tuần này. Nhưng ông đã lầm về nàng. “Tôi nghĩ ông có thể giúp tôi,” nàng nói. “Có khi còn giúp chính ông nữa.” “Tôi không cần tiền. Tôi kiếm đủ.” “Tôi không nói chuyện tiền nong.” Ông nhìn nàng trong khoảng một nhịp tim trước khi đáp. “Tôi không biết cô nói thế là ý gì,” ông nói, cố tình tỏ ra cáu kỉnh. “Nhưng tôi không giúp cô được. Tôi không còn phù hiệu, mà cũng chả phải là điều tra viên tư. Tôi mà làm việc như điều tra viên tư hoặc nhận tiền mà không có giấy phép của nhà nước thì sẽ là bất hợp pháp đấy. Nếu đã đọc bài báo thì ắt cô biết chuyện gì đã xảy ra với tôi. Thậm chí tôi còn không được lái xe nữa kìa.” Ông trỏ xuống bãi đỗ xe bên ngoài dãy ụ tàu và cầu tàu. “Cô thấy cái xe trùm kín mít như quà Giáng sinh kia không? Xe tôi đó. Nó sẽ còn nằm đó chừng nào tôi chưa được bác sĩ chuẩn y cho lái xe lại. Đến nước này thì tôi còn là cái thứ điều tra viên nào nữa chứ? Đến mà phải đi xe buýt suốt.” Nàng lờ đi lời phản đối của ông, chỉ nhìn ông với vẻ kiên quyết khiến ông lúng túng. Ông chẳng biết làm cách nào điệu nàng ta đi khỏi thuyền ông được đây. “Để tôi đi lấy tên mấy người kia cho cô.” Ông đi vòng qua nàng rồi đẩy cánh cửa trượt của phòng khách ra. Vào trong rồi, ông đóng chặt cửa sau lưng mình. Ông cần sự ngăn cách. Ông đi tới chỗ mấy ngăn kéo dưới bàn vẽ hải đồ, bắt tay tìm cuốn danh bạ điện thoại. Đã quá lâu không cần tới nên bây giờ ông chẳng biết nó nằm ở đâu nữa. Ông liếc ra ngoài qua cánh cửa, quan sát cô nàng bước tới chỗ đuôi tàu, tựa hông vào ô cửa sổ nhỏ trong khi chờ đợi. Trên mặt kính cửa có lớp màng phản chiếu. Nàng không thể thấy ông đang quan sát nàng. Cảm giác quen quen lại xâm chiếm tâm trí ông và ông cố nhớ ra xem mình đã gặp khuôn mặt này ở đâu. Ông thấy nàng thật nổi bật. Đôi mắt hình quả hạnh sẫm màu vừa có vẻ u sầu lại vừa có vẻ thấu hiểu điều bí mật nào đấy. Ông biết giá như ông từng gặp nàng hay thậm chí chỉ từng quan sát nàng trước đây thì hẳn ông sẽ dễ dàng nhớ ra nàng. Nhưng ông chẳng nhớ được gì cả. Mắt ông bất giác chuyển sang hai bàn tay nàng, tìm xem có chiếc nhẫn nào không. Không có. Về chuyện giày dép của nàng thì ông đoán đúng. Nàng mang xăng đan có gót làm bằng bần, cao năm phân. Móng chân nàng sơn màu hồng, nổi bật trên làn da màu nâu mềm mại. Ông tự hỏi có phải lúc nào nàng cũng trông thế này không, hay nàng ăn mặc thế chỉ để nhử ông nhận làm cho nàng. Ông tìm ra cuốn danh bạ điện thoại trong ngăn kéo thứ hai, liền nhanh chóng tìm mấy cái tên Jack Lavelle và Tom Kimball. Ông ghi lại tên và số điện thoại của họ vào một tờ rơi quảng cáo cũ của hãng dịch vụ tàu biển rồi mở cánh cửa trượt. Nàng đang mở ví trong khi ông ra khỏi buồng khách. Ông chìa tờ giấy cho nàng. “Đây là tên hai người. Lavelle là thám tử Los Angeles đã nghỉ hưu còn Kimball hồi trước làm ở FBI. Tôi từng làm việc với cả hai, người nào cũng có thể làm việc tốt cho cô. Chọn một người mà gọi. Nhớ bảo anh ta rằng cô có được tên anh ta là nhờ tôi. Anh ta sẽ lo cho cô.” Nàng không nhận mấy cái tên từ tay ông. Thay vì vậy nàng rút một tấm ảnh ra khỏi ví chìa cho ông. McCaleb cầm lấy không nghĩ ngợi gì. Ông nhận ra ngay đó là một sai lầm. Trong tay ông là bức ảnh một phụ nữ mỉm cười ngắm một đứa bé trai đang thổi tắt nến trên cái bánh sinh nhật. McCaleb đếm được bảy ngọn nến. Đầu tiên ông nghĩ đó là ảnh của Graciela hồi trẻ hơn bây giờ vài tuổi. Nhưng rồi ông nhận ra không phải là nàng. Người phụ nữ trong ảnh mặt tròn hơn, môi mỏng hơn. Cô ta không đẹp như Graciela Rivers. Tuy cả hai đều có mắt màu nâu sẫm, nhưng mắt người phụ nữ trong ảnh không có cái vẻ mãnh liệt như mắt người đàn bà đang quan sát ông lúc này. “Em gái cô à?” “Phải. Và con của nó.” “Người nào?” “Sao cơ?” “Người nào chết?” Câu hỏi đó là sai lầm thứ hai của ông, làm trầm trọng thêm sai lầm thứ nhất bởi nó lôi ông dấn vào sâu hơn nữa. Ngay lúc hỏi, ông đã biết rằng đáng lẽ ra ông nên khăng khăng đòi nàng ta nhận lấy họ tên hai thám tử tư kia rồi chấm dứt mọi chuyện ở đây. “Em tôi. Gloria Torres. Cả nhà tôi gọi nó là Glory. Đây là Raymond, con của nó.” Ông gật đầu rồi đưa trả bức hình nhưng nàng không nhận. Ông biết nàng muốn ông hỏi chuyện gì đã xảy ra, nhưng cuối cùng ông kịp kìm lại. “Nào, thế này chả ích gì đâu,” rốt cuộc ông nói. “Tôi biết cô đang làm gì rồi. Chả ích với tôi đâu.” “Ý ông là ông không hề có lòng thông cảm phải không?” Ông ngần ngừ trong khi cơn giận sôi lên trong họng. “Tôi có lòng thông cảm. Cô đã đọc bài báo, cô biết chuyện gì đã xảy ra với tôi. Xưa nay tôi gặp rắc rối gì cũng đều do thông cảm mà ra cả.” Ông nuốt khan và cố gột sạch mọi cảm xúc khó chịu. Ông biết cô nàng này đang bị nỗi thất vọng khủng khiếp làm cho héo hon tiều tụy. McCaleb từng biết hàng trăm người như nàng. Những người thân yêu bị tước đi khỏi họ chẳng vì lý do nào hết. Không bắt bớ, không buộc tội, không phá án. Một vài người trong số đó chỉ còn như cái thây sống, đời họ bị thay đổi vô phương cứu chữa. Những linh hồn lạc lõng. Graciela Rivers giờ đây là một người như thế. Chắc chắn nàng là thế, không thì nàng đã chẳng tìm mọi cách lùng ra tung tích của ông. Ông biết, dù nàng nói gì với ông hoặc dù ông có tức giận đến mấy, nàng cũng không đáng phải hứng chịu thêm những cơn thất vọng của chính ông. “Thôi nào,” ông nói. “Tôi không làm được đâu mà. Tôi rất tiếc.” Ông đặt một tay lên tay nàng để đưa nàng trở lại bậc lên xuống thuyền. Da nàng ấm. Ông cảm nhận được bắp cơ khỏe mạnh dưới sự mềm mại đó. Ông lại đưa nàng tấm ảnh, nhưng nàng vẫn từ chối không chịu cầm. “Xem lại đi. Xin ông làm ơn. Chỉ thêm một lần thôi, rồi tôi sẽ để ông yên. Nói cho tôi biết liệu ông có cảm thấy gì khác không?” Ông vừa lắc đầu vừa phác một cử chỉ yếu ớt bằng bàn tay như muốn nói đằng nào thì cũng vậy thôi. “Tôi là cựu nhân viên FBI chứ không phải nhà ngoại cảm.” Nhưng ông vẫn làm ra vẻ giơ tấm ảnh lên nhìn. Người phụ nữ và chú bé xem chừng hạnh phúc. Là tiệc sinh nhật mà. Bảy ngọn nến. McCaleb nhớ rằng hồi ông bảy tuổi cha mẹ ông còn ở với nhau. Nhưng sau đấy thì không ở với nhau lâu nữa. Mắt ông bị hút vào đứa bé nhiều hơn vào người phụ nữ. Ông tự hỏi bây giờ không có mẹ thì thằng nhỏ sống ra sao. “Tôi xin lỗi, cô Rivers ạ. Thực sự là tôi rất tiếc. Nhưng tôi chẳng làm gì được cho cô hết. Cô có muốn lấy ảnh này lại không?” “Tôi có hai cái. Ông biết đấy, rửa một tặng một mà. Tôi tưởng ông sẽ giữ lại một cái.” Lần đầu tiên ông cảm thấy có cái gì đó ngầm ẩn trong dòng cảm xúc. Có cái gì đó hệ trọng nữa đây, nhưng ông không biết là gì. Ông nhìn kỹ cô Graciela Rivers và có cảm tưởng rằng nếu dấn thêm một bước, hỏi cái câu hỏi thật hiển nhiên, ông sẽ bị cuốn hẳn vào. Ông không kìm được. “Sao tôi lại muốn giữ tấm ảnh dù tôi sẽ không thể giúp cô được?” Nàng mỉm cười một cách buồn bã thế nào đó. “Bởi nó là người đàn bà đã cứu mạng ông. Thỉnh thoảng tôi lại nghĩ, hẳn ông cần tự nhắc mình nhớ cô ta trông thế nào, cô ta là ai.” Ông nhìn nàng chằm chằm một hồi lâu nhưng thật ra ông không nhìn Graciela Rivers. Ông đang nhìn vào bên trong mình, lục lọi trong ký ức và hiểu biết của mình điều nàng vừa nói, nhưng vẫn không hiểu được ý nghĩa của nó. “Cô nói cái gì vậy?” Ông chỉ hỏi được có thế. Ông có cảm giác quyền kiểm soát cuộc nói chuyện và mọi thứ khác đều đang tuột khỏi ông mà trượt qua boong tàu về phía nàng. Cái dòng chảy ngầm kia đã tóm được ông. Nó đang đưa ông đi. Nàng giơ tay lên, nhưng rướn tay qua bức ảnh ông vẫn đang chìa ra cho nàng. Nàng đặt lòng bàn tay lên ngực ông, miết tay dọc xuống ngực áo ông, mấy ngón tay nàng lần theo vết sẹo giống như đoạn thừng dày cộm sau lần áo. Ông để yên cho nàng làm vậy. Ông đứng như hóa đá mà để nàng làm vậy. “Trái tim ông,” nàng nói. “Nó từng là của em tôi. Nó là người đã cứu mạng ông.” ... Mời các bạn đón đọc ​Việc Máu của tác giả Michael Connelly.
Sáu Ngày Của Condor - James Grady
James Grady là nhà văn tiến bộ Mỹ. Ông sinh năm 1949 tại một thị trấn nhỏ thuộc bang Montana. Ngày nhỏ sống tại quê nhà. Sau khi tốt nghiệp đại học Montana, J. Grady trở thành nhà báo. Ngay từ khi còn ngồi trên ghế trường đại học, ông đã say mê tìm hiểu các môn khoa học xã hội - chính trị và sử học. Tuy rất có năng khiếu về văn chương, nhưng J. Grady vẫn không dám sống bằng nghề cầm bút, vì ông vốn biết chắc mười mươi rằng "phàm đã là nhà văn thì khó lòng được sống một cuộc đời no đủ". Bởi thế, J. Grady xin vào làm trợ lý các vấn đề lập pháp tại Uỷ ban soạn thảo hiến pháp bang Montana. Tiếp đó, suốt nhiều năm liền ông đã làm qua đủ mọi nghề: khi thì công nhân, khi thì chuyên gia bài trừ tệ nạn phạm pháp trong trẻ em, khi thì phóng viên báo chí. Cuộc sống của ông cứ tiếp tục trôi qua như thế cho mãi đến năm 1974, năm J. Grady công bố cuốn truyện đầu tay, làm chấn động dư luận: "Sáu ngày của Condor" 1 (trong những lần tái bản sau này được đổi tên thành "Ba ngày của Condor"). Cuốn tiểu thuyết đã đem lại cho tác giả danh tiếng ấy lập tức được đạo diễn Mỹ có tên tuổi là Sydney Pollack đưa lên màn ảnh và càng làm xôn xao dư luận. Năm 1975, J. Grady cho ra mắt bạn đọc thiên tiểu thuyết thứ hai: "Cái bóng của Thần Ưng". Nhân vật chính ở đây vẫn là anh chàng Ronald Malcolm quen thuộc mà một nhà phê bình đã từng tặng cho danh hiệu là "gã điệp viên đáng mến và hấp dẫn nhất, nhưng đồng thời cũng lại là tên điệp viên khó gặp và phi hiện thức nhất trong lịch sử tồn tại của cơ quan CIA". Ngay cả khi tác phẩm đầu tay đã có tiếng vang rộng khắp, J. Grady vẫn còn nấn ná khá lâu mãi tại quốc hội Mỹ với chức vụ trợ lý của một hạ nghị sĩ. Còn hiện thời, J. Grady đang làm thư ký riêng cho một nhà báo Mỹ lừng danh. Ông chỉ sáng tác truyện trinh thám những khi rỗi việc. Các cốt truyện trong sáng tác của ông thường xây dựng trên chất hiện thực. Những gì được hư cấu hoàn toàn không phải nhằm mục đích "thêm nhưn thêm nhị" mà chỉ là phương tiện để gắn kết các biến cố thực lại với nhau cho bố cục tác phẩm được cân xứng, thật hài hoà. Năm 1980, tác phẩm thứ ba của J. Grady ra đời: "Bắt lấy ngọn gió lành". Mùa xuân năm 1981, lại một tiểu thuyết hấp dẫn nữa của nhà văn, thiên truyện thứ tư ra mắt bạn đọc: "Kẻ trốn chạy ngoài phố". Những biến cố trong "Sáu ngày của Condor" bắt đầu từ việc một nhân viên trong một tiểu ban của CIA (gọi là "Hội Văn Sử") phát hiện ra một vụ gian lận về chứng từ, sổ sách, và muốn làm "sáng tỏ", anh bèn viết một tờ trình ngắn gởi lên cấp trên. Tờ trình rơi vào tay một "ông lớn" ở Tổng hành dinh CIA. Nhân vật này cho thi hành "những biện pháp khẩn cấp nhằm huỷ diệt hết tất cả các "khoản" cùng những hồ sơ lưu trữ có liên quan đến công việc, lẫn những nhân viên của cái tiểu ban có dính đến câu chuyện nêu trong "tờ trình". Thế là ngay đêm hôm đó, nhân viên viết tờ trình bị thủ tiêu tại nhà. Và sáng hôm sau thì toàn bộ người của tiểu ban bị giết một cách thảm khốc, trừ mỗi một mình anh chàng Malcolm, vì sáng hôm đó đi vắng, nên thoát chết. Trở về trụ sở và chứng kiến cảnh giết chóc tàn khốc nọ, Malcolm với biệt danh Thần Ưng (Condor), đã dùng điện thoại báo động. Báo động! Báo động khẩn cấp! Phong toả ngay căn cứ!... Và từ đó bắt đầu cuộc săn lùng, cuộc đấu trí, chung quanh cái trục là Malcolm, "người hùng" trong một tình thế bắt buộc, như anh thú nhận: "không có con đường nào khác". Cả hai phía; phía "chính thống" và phía "buôn lậu ma tuý" đều lùng sục Malcolm, bởi vì anh là người nắm được đầu mối của cái tấn kịch khủng khiếp. Malcolm, cái anh chàng "thư lại" ấy, bỗng chốc phải đối phó với hàng trăm tình huống gay cấn - và tình huống cũng đã buộc anh phải hành động mưu trí, sáng tạo để thoát chết và để khám phá ra bọn thủ phạm vụ án. Vấn đề là trong khi hành động như thế, Malcolm cũng dần dần hiểu ra một điều cơ bản là cả hai phía săn lùng anh cùng có chung một bản chất: "Maronic là đứa giết người thuê. Malcolm bỗng nhớ lại giọng nói của những nhân viên nhà nghề ở đầu đường dây "Báo động", những người cũng y hệt như Maronic vậy. "Không", anh nghĩ bụng, - cuộc săn lùng từ trước đến giờ chỉ nhằm vào mỗi một mình mình. Vấn đề đặt ra chỉ có thế này họ chống lại mình, họ hại mình" (chương Thứ ba (đêm) - Thứ tư (Rạng sáng)). Thông qua toàn bộ câu chuyện, J. Grady cũng phơi bày được một bộ mặt bản chất của xã hội Mỹ: đó là một xã hội với những tội ác kinh điển, thường trực, một xã hội đầy dẫy bọn buôn lậu, bọn găng- xtơ thích máu, mà đối với chúng việc giết người "chỉ là công việc làm ăn, không hơn không kém" và "họ không xúc động mảy may nào về những hậu quả do họ gây nên". Điều đáng chú ý nữa là cái bọn tội phạm ấy lại chính là những nhân vật có cỡ nằm ngay trong nội bộ CIA. Đúng hơn, một số nhân vật có cỡ trong CIA đã móc ngoặc với bọn găng xtơ, làm ăn phi pháp và gây tội ác. Và việc chúng khử cả một tiểu ban của CIA một cách lạnh lùng, tàn bạo… để bịt đầu mối, đã nói lên cái bản chất của những con người trong cái công cụ đáng nguyền rủa ấy của nước Mỹ. Qua cuốn tiểu thuyết, nội tình của CIA, cái mặt trái của tổ chức cồng kềnh này, đã bị phơi trần. Nó có nội gián. Nó mọt ruỗng từ bên trong. Nó kém hiệu lực mặc dù hùng hổ. Đứng trước sự khủng hoảng, nó đối phó lúng túng. Cái gì sẽ xảy ra nếu không có anh chàng Malcolm? Nhân vật "ông già hiền hậu" chỉ là nhân vật tỉnh táo gần như duy nhất, trong trường hợp ấy cũng sẽ chẳng làm nên chuyện gì. Còn Malcolm? Anh là "người hùng" trong một tình thế bắt buộc, như anh thú nhận: "không có con đường nào khác". Cái kết thúc phần nào "có hậu"của cuốn truyện, tuy không hẳn đã phản ảnh chân xác lô- gich của xã hội Mỹ, nhưng cái kết thúc ấy cùng với phần nào cái chất lương thiện trong con người bình thường Malcolm, biểu tượng của khát vọng về lẽ phải và lòng nhân đạo của nhân dân Mỹ, đã đem lại cho người đọc cảm tình và hy vọng. Đó là một tích cực đáng nói của cuốn truyện này Hội Văn nghệ Quảng Nam - Đà Nẵng Mời các bạn đón đọc Sáu Ngày Của Condor của tác giả James Grady.