Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Mùa Gặt Đỏ

MÙA GẶT ĐỎ - KHO BÁU BỊ ĐÁNH MẤT. Một tay súng đơn độc đi vào trong thị trấn. Anh ta sẽ dọn dẹp nó dù muốn hay là không? "Người chiến đấu với quái vật phải cẩn thận nếu không muốn trở thành một con quái vật khác". Được xuất bản lần đầu vào năm 1929, Mùa gặt đỏ (Red Harvest) là một cuốn tiểu thuyết trinh thám kinh điển của Dashiell Hammett - người được coi là "ông tổ" của thể loại trinh thám đen - hard-boiled. Đây cũng là nguồn cảm hứng cho nhiều bộ phim nổi tiếng, trong đó có Yojimbo (1961), A Fistful of Dollars (1964) và Blood Simple (1984)… Truyện được mở đầu bằng việc Hãng thám tử tư Continental cử một đặc vụ tới Personville - thành phố đang chìm đắm trong bạo lực và sợ hãi dưới sự cai trị của các băng đảng tội phạm và đám quan chức tham nhũng - theo yêu cầu của Donald Willsson, chủ bút tờ báo địa phương và là người đang muốn lấy lại trật tự, công bằng cho thành phố. Nhưng khi nhân viên đặc vụ đó tới nơi thì phát hiện ra khách hàng của mình đã bị bắn chết. Theo như thỏa thuận từ trước, Personville vẫn sẽ được "thanh tẩy", cho dù cái giả phải trả là có thể khiến nó bị nhấn chìm trong biển máu. *** Dashiell Hammett (1894 - 1961) là một trong những tác giả tiên phong của thể loại tiểu thuyết trinh thám đen, với các tác phẩm tiêu biểu như Mùa gặt đỏ (1929), Chim ưng Malta (1930) và Chìa khóa thủy tinh (1931). Những tiểu thuyết của ông thường mang phong cách mạnh mẽ, gay cấn, lối viết ngắn gọn, không hoa mỹ, tiết tấu nhanh, hấp dẫn, đậm mùi súng đạn. Mùa gặt đỏ, tác phẩm đầu tay của Hammett, mang đầy đủ những đặc trưng của thể loại trinh thám đen, đồng thời là hình mẫu cũng như nguồn cảm hứng cho nhiều tác giả trinh thám sau này: một bầu không khí nhớp nhúa ở phần tối của xã hội; một hình ảnh “người hùng không hoàn hảo” với quan niệm về công lý không hoàn toàn đồng nhất với pháp luật. Người thám tử vô danh ấy đến thành phố tội lỗi đó như một lãng khách độc hành thấy việc bất bình ra tay nghĩa hiệp, để rồi bắt đầu “mùa gặt”, mang lại bình yên cho thành phố… *** Review sách Mùa Gặt Đỏ Mùa gặt đỏ được xuất bản lần đầu vào năm 1929, Mùa gặt đỏ (Red Harvest) là một cuốn tiểu thuyết trinh thám kinh điển của Dashiell Hammett - người được coi là "ông tổ" của thể loại trinh thám đen - hard-boiled. Tôi đã khá băn khoăn khi quyết định đọc hay không vì không muốn sa đà liên tục vào trinh thám. Thế nhưng vì một vài lí do, tôi vẫn đọc. Có thể vì thế mà tâm trạng đã không tốt khi tiếp cận cuốn sách. Truyện Trinh thám về những thế lực bên rìa công lý, kiểu mafia, mở đầu bằng cái chết của thân chủ khi chưa kịp làm việc với tay thám tử mà mình mời về. Nhiều nhân vật liên quan, nhiều vấn đề nổi cộm của thế giới thu nhỏ Personville được phơi bày. Theo như thỏa thuận từ trước, Personville vẫn sẽ được "thanh tẩy", cho dù cái giả phải trả là có thể khiến nó bị nhấn chìm trong biển máu.Tiết tấu càng ngày càng nhanh với sự mưu mô, toan tính cả bằng trí tuệ và sự nhanh nhẹn trong việc siết cò với những pha hành động tương đối kịch tính. Truyện thuộc dang trinh thám đen, hành động kịch tính và mang tính giải trí. Cơ bản có lẽ tại tôi không thích văn phong hơi khô của tác giả (hay dịch giả)??, hội thoại, lời văn ngắn gọn, súc tích. Tôi cũng không thích bìa, không thích tên gọi, chỉ an ủi được là việc biên tập đã ổn hơn khá nhiều so với những cuốn sách trước đây của PM. Tạm gác lại, biết đâu một ngày nào đó sẽ có hứng thú đọc lại và biết đâu sẽ thích. Cho tạm 3* vì cuốn sách chưa đủ hấp dẫn khiến tôi bị cuốn hút cũng như tò mò. Hồng Khánh 14.9.2019 *** Người phụ nữ trong bộ đồ xanh và người đàn ông trong bộ đồ xám Lần đầu tiên tôi nghe thấy Personville được đọc lái thành Poisonville là từ một gã tóc đỏ đầu đường xó chợ tên Hickey Dewey tại khách sạn Con Tàu Lớn ở Butte. Hắn cũng phát âm shirt thành shoit. Lúc đó tôi không nghĩ ngợi gì về cách hắn đọc tên thành phố, nhưng rồi tôi thấy những người đã phát âm đúng chữ “r” nhưng vẫn đọc sai như vậy. Tôi chỉ cho rằng việc đám trộm cướp dùng từ richardsnary thay cho dictionary thật quá sức nhạt nhẽo. Vài năm sau, khi đến Personville, tôi mới hiểu rõ hơn. Tôi gọi tới tờ Herald từ một bốt điện thoại tại ga, yêu cầu được nói chuyện với Donald Willsson và sau đó bảo anh ta rằng tôi đã tới. “Anh có thể tới nhà tôi lúc mười giờ tối nay được không?” Anh ta nói, giọng quả quyết. “Số 2101 đại lộ Mountain. Bắt một chiếc xe điện, xuống ở chỗ đại lộ Laurel, rồi đi bộ theo hướng Tây hai dãy nhà.” Tôi hứa sẽ có mặt. Rồi tôi tới khách sạn Great Western, vứt mấy chiếc túi xuống và ra ngoài ngắm nhìn thành phố. Thành phố này không đẹp. Hầu hết chủ thầu xây dựng ở đây đều có gu thẩm mỹ lòe loẹt. Có thể ban đầu họ đã đạt được mục đích. Rồi những lò luyện kim mọc lên sừng sững bên một ngọn núi ảm đạm ở phía Nam đã hun mọi thứ trong lớp khói màu vàng xỉn. Thế là chúng ta có một thành phố xấu xí với bốn mươi ngàn dân, nằm trong một khe hẻm xấu xí giữa hai ngọn núi xấu xí bị ô nhiễm vì sự khai mỏ. Bao trùm lấy nó là bầu không khí ám đầy bụi, như thể vừa chui ra từ ống khói của lò luyện kim. Người cảnh sát đầu tiên mà tôi gặp rõ ràng cần phải cạo râu. Người thứ hai có vài chiếc cúc bị đứt trên bộ đồng phục tồi tàn. Người thứ ba đứng ở giữa giao lộ chính của thành phố, giữa Broadway và phố Union, với một điếu xì gà trên miệng. Sau đó thì tôi không để ý đến họ nữa. Vào lúc chín giờ rưỡi, tôi bắt một chiếc xe điện và đi theo hướng mà Donald Willsson đã chỉ. Nó đưa tôi tới một ngôi nhà có hàng rào bao quanh bãi cỏ. Người giúp việc ra mở cửa bảo tôi rằng ông Willsson không có nhà. Trong khi tôi đang giải thích rằng mình có hẹn với anh ta thì một người phụ nữ tóc vàng mảnh khảnh, khoảng dưới ba mươi tuổi, bận bộ đồ vải crepe màu xanh bước tới. Ngay cả khi cười, sự lạnh nhạt vẫn ẩn hiện trong đôi mắt xanh của cô ta. Tôi giải thích lại một lần nữa. “Chồng tôi hiện không có nhà.” Âm giọng địa phương mờ nhạt khiến phát âm của cô ta hơi nhịu. “Nhưng nếu đã có hẹn thì chắc anh ấy sẽ về sớm thôi.” Cô ta dẫn tôi lên tầng, tới một căn phòng nhìn về hướng đại lộ Laurel. Căn phòng được sơn hai màu nâu đỏ và có rất nhiều sách. Chúng tôi ngồi xuống chiếc sofa da, nửa quay về phía người đối diện, nửa hướng về phía lò sưởi đang đỏ than, và cô ta bắt đầu tìm hiểu về chuyện giữa tôi và chồng cô ta. “Anh sống ở Personville à?” Cô ta hỏi trước. “Không. San Francisco.” “Nhưng đây không phải lần đầu anh tới Personville, phải vậy không?” “Đây là lần đầu tiên.” “Thật ư? Anh nghĩ sao về thành phố này?” “Tôi chưa quan sát đủ để có thể đưa ra ý kiến.” Đó là một lời nói dối. Tôi đã thấy đủ. “Tôi vừa mới tới lúc chiều.” Sự tò mò biến mất khỏi đôi mắt lấp lánh của cô ta. Rồi cô ta nói: “Anh sẽ thấy rằng đây là một chốn ảm đạm.” Rồi cô ta tiếp tục soi mói, “Tôi cho rằng tất cả các thành phố mỏ đều giống như thế này. Anh có tham gia vào ngành khai mỏ không?” “Hiện tại thì không.” Cô ta nhìn đồng hồ trên mặt lò sưởi và nói: “Donald thật thiếu chu đáo khi hẹn anh tới rồi lại để anh ngồi đợi, giữa đêm hôm khuya khoắt thế này. Đã quá giờ làm việc lâu quá rồi.” Tôi đáp rằng không sao. “Có lẽ đây không phải là vấn đề công việc.” Cô ta bóng gió. Tôi không trả lời. Cô ta cười, tiếng cười cộc lốc và có phần chói tai. “Thường thì tôi không tọc mạch thế này đâu”, cô ta vui vẻ nói, “nhưng anh quá kín đáo đến mức tôi không thể không tò mò. Anh không phải dân buôn rượu lậu đấy chứ? Donald đổi người rất thường xuyên.” Tôi để cô ta tự suy diễn và nở một nụ cười. Chuông điện thoại reo dưới tầng. Cô Willsson duỗi đôi chân đi dép lê xanh về phía lò sưởi đang đỏ than và vờ như không nghe thấy gì. Tôi không hiểu tại sao cô ta nghĩ thế là cần thiết. Cô ta bắt đầu, “Tôi sợ rằng mình sẽ ph…”, và dừng lại, nhìn về phía cô hầu đứng bên cửa. Người giúp việc nói rằng đầu dây bên kia muốn gặp cô Willsson. Cô ta cáo lỗi rồi ra ngoài. Cô ta không đi xuống tầng dưới mà nói qua máy điện thoại kéo dài, trong tầm nghe của tôi. Tôi nghe được, “Tôi, Willsson nghe đây… Vâng… Xin lỗi?… Ai đấy?… Anh có thể nói to lên không?… Gì cơ?… Vâng… Vâng… Ai đó?… A lô! A lô!” Rồi có tiếng dập máy và tiếng bước chân của cô ta vang lên trên hành lang. Tôi châm một điếu thuốc và nhìn chằm chằm vào nó cho đến khi nghe thấy tiếng bước chân của cô ta dưới thềm. Rồi tôi tới bên cửa sổ, vén rèm lên, nhìn xuống đại lộ Laurel và thấy phía sau ngôi nhà là một nhà để xe màu trắng. Ngay sau đó, một người phụ nữ mảnh mai đội mũ và bận áo khoác tối màu vội vã đi ra chỗ nhà để xe. Đó là cô Willsson. Cô ta lái chiếc Buick hai chỗ đi. Tôi quay lại ghế và chờ đợi. Bốn mươi lăm phút trôi qua. Lúc mười một giờ năm phút, tiếng phanh ô tô rít lên bên ngoài. Hai phút sau, cô Willsson bước vào phòng. Cô ta cởi mũ và áo khoác ra. Mặt cô ta trắng bệch, đôi mắt ủ dột. “Tôi vô cùng xin lỗi”, cô ta nói với khuôn miệng mím chặt chuyển động nhát gừng, “anh đã mất công ngồi đợi vô ích rồi. Tối nay chồng tôi sẽ không về nhà.” Tôi nói rằng tôi sẽ liên lạc với anh ta tại Herald sáng mai. Tôi đi về và tự hỏi tại sao mũi dép bên trái của cô ta lại dính thứ gì đó sẫm màu và ướt giống như máu vậy. • • • Tôi đi bộ đến Broadway và bắt một chiếc xe điện. Qua ba dãy nhà lớn ở phía Bắc khách sạn, tôi xuống xe để xem đám đông đang làm gì quanh lối vào Tòa thị chính. Tầm ba, bốn mươi người đàn ông và lác đác vài phụ nữ đang đứng trên vỉa hè, nhìn vào một cánh cửa gắn biển Sở Cảnh sát. Đám đông bao gồm những người công nhân mỏ và lò nung vẫn mặc nguyên đồ bảo hộ, những anh chàng mặc đồ lòe loẹt vừa bước ra từ tiệm bi-a và vũ trường, những gã chải chuốt với khuôn mặt nhợt nhạt, những người mang vẻ ngoài trì độn của một ông chồng đứng đắn, vài người phụ nữ cũng trì độn và đứng đắn y như vậy cùng vài ả gái điếm. Đến bên rìa đám đông, tôi dừng lại cạnh một người đàn ông nghiêm nghị mặc bộ đồ xám nhàu nhĩ. Khuôn mặt và đôi môi dày của anh ta trông cũng xám xịt, mặc dù nhìn qua anh ta không quá ba mươi tuổi. Khuôn mặt anh ta rộng, đường nét thô kệch và sáng sủa. Anh ta đeo một chiếc cà vạt đỏ thắt kiểu Windsor trên chiếc áo sơ mi bằng vải flannel màu xám. “Chuyện gì ồn ào vậy?” Tôi hỏi anh ta. Anh ta cẩn thận nhìn tôi trước khi trả lời, như thế muốn chắc chắn rằng thông tin sẽ được gửi đi một cách an toàn. Mắt anh ta cũng xám như bộ đồ, nhưng trông chúng không hề mềm như thế. “Don Willsson đã đến ngồi bên tay phải của Chúa, nếu Chúa không ngại nhìn vào những vết đạn.” “Ai đã bắn anh ta?” Tôi hỏi. Người đàn ông gãi đầu và đáp lại: “Một kẻ nào đó mang súng.” Tôi muốn thông tin, chứ không phải sự hóm hỉnh. Tôi sẽ thử vận may với một người khác trong đám đông nếu gã đeo cà vạt đỏ này không khiến tôi hứng thú. Tôi bảo: “Tôi mới đến thành phố. Cứ diễn vở Punch và Judy* với tôi đi. Người lạ thì phải chịu thôi.” “Quý ngài Donald Willsson, chủ biên của tờ Herald Buổi sáng và Herald Buổi tối, mới được tìm thấy trên phố Hurricane, bị một kẻ vô danh nào đó bắn chết.” Anh ta nói một lèo bằng giọng đều đều. “Hết cảm thấy bị tổn thương rồi chứ?” “Cảm ơn.” Tôi đưa tay ra và chạm vào đầu chiếc cà vạt thắt lỏng của anh ta. “Có ý nghĩa gì không? Hay chỉ đeo vậy thôi?” “Tôi là Bill Quint.” “Hóa ra là anh!” Tôi kêu lên, giả bộ như mình đã biết cái tên này. “Chúa ơi, tôi rất mừng được gặp anh!” Tôi rút chiếc ví chứa danh thiếp ra và lục lọi trong đống danh thiếp mà tôi đã kiếm được bằng nhiều cách, ở nhiều nơi khác nhau. Tấm màu đỏ là cái tôi muốn tìm. Trên đó ghi tôi là Henry F. Neill, thủy thủ được đào tạo bài bản, thành viên cấp cao của Hiệp hội Công nhân Công nghiệp Thế giới*. Không một chữ nào là sự thật. Tôi đưa tấm danh thiếp cho Bill Quint. Anh ta đọc kỹ nó, cả mặt trước lẫn mặt sau, rồi trả lại và nhìn tôi từ đầu đến chân một cách ngờ vực. “Chẳng có gì để nhìn nữa đâu.” Anh ta nói. “Anh định đi đâu?” “Đâu cũng được.” Chúng tôi đi cạnh nhau, rẽ vào sau góc phố một cách bâng quơ. “Điều gì đã đưa anh tới đây, nếu anh là một thủy thủ?” Anh ta chợt hỏi. “Sao anh lại nghĩ vậy?” “Có tấm danh thiếp đó.” “Tôi còn có một cái ghi rằng mình là tiều phu nữa cơ.” Tôi nói. “Nếu anh muốn tôi trở thành thợ mỏ, tôi sẽ làm một cái ngay trong ngày mai.” “Anh không kiếm được đâu. Tôi điều hành ở đây.” “Thế nếu anh nhận được điện báo từ Chi* thì sao?” Tôi hỏi. “Mặc xác Chi! Tôi điều hành ở đây.” Anh ta hất đầu về phía nhà hàng và hỏi, “Uống gì không?” “Kiếm được không đã.*” Chúng tôi bước vào nhà hàng, leo lên các bậc thang và bước vào một căn phòng nhỏ với một dãy bàn dài trên tầng hai. Bill Quint gật đầu và nói, “Hullo!” với vài cậu trai và cô gái, rồi đưa tôi vào một trong nhũng căn buồng có màn che màu xanh lá nằm thẳng hàng dọc bức tường đối diện quầy bar. Chúng tôi dành hai giờ để uống rượu whiskey và nói chuyện. Người đàn ông trong bộ đồ xám cho rằng tôi chẳng liên quan gì tới tấm danh thiếp mà tôi vừa cho anh ta xem, cũng như những danh tính khác mà tôi đã đề cập. Anh ta cũng không cho rằng tôi là một thành viên cấp cao của Hiệp hội. Với vai trò là thủ lĩnh quan trọng của IWW ở Personville, anh ta cho rằng nhiệm vụ của mình là phải tìm ra sự thật về tôi, đồng thời không để mình bị dò hỏi ngược lại trong khi đang làm việc đó. Với tôi thế cũng chẳng sao. Tôi hứng thú với các vấn đề ở Personville. Anh ta thì không bận tâm tới chuyện đó mà chỉ tập trung vào tấm thẻ đỏ của tôi. Và đây là những gì tôi moi được từ anh ta: Trong vòng bốn mươi năm, Elihu Willsson - cha của người đàn ông bị giết đêm qua - đã sở hữu trái tim, linh hồn cũng như xác thịt của Personville. Lão là chủ tịch và cổ đông lớn nhất của Tập đoàn Khai mỏ Personville cũng như ngân hàng First National, là chủ sở hữu của tờ Herald Buổi sáng và Herald Buổi tối, những tờ báo duy nhất của thành phố, và đồng sở hữu gần như tất cả các doanh nghiệp quan trọng khác. Cùng với khối tài sản đó, lão cũng nắm trong tay một Thượng nghị sĩ Mỹ, vài dân biểu, thống đốc bang, thị trưởng thành phố và hầu hết các cơ quan lập pháp của bang. Elihu Willsson là Personville, và gần như là toàn bộ bang. Hồi chiến tranh, IWW - khi đó đang lan rộng về phía Tây - đã giúp đỡ Tập đoàn Khai mỏ Personville. Nói giúp đỡ là không hoàn toàn chính xác. Họ đã sử dụng sức mạnh để đòi hỏi quyền lợi. Elihu già buộc phải chấp nhận và nín nhịn chờ thời. Chuyện xảy ra vào năm 1921. Việc kinh doanh gặp khó khăn. Elihu già không quan tâm xem liệu có phải đóng cửa tạm thời hay không. Lão xé hết những bản thỏa thuận trước đó và đá đám công nhân trở lại tình trạng khó khăn trước thời chiến. Tất nhiên là các công nhân đã yêu cầu sự giúp đõ. Bill Quint được trụ sở chính của IWW ở Chicago cử đến để giải quyết tình hình. Anh ta phản đối bạo loạn hay đình công. Anh ta khuyên họ hãy sử dụng một mánh cũ, trở lại làm việc và phá hoại từ bên trong. Nhưng điều đó là không đủ với các công nhân của Personville. Họ muốn tên mình được biết đến, muốn tạo ra lịch sử. Vậy là bạo loạn nổ ra. Nó kéo dài tám tháng. Cả hai bên đều tổn thất nặng nề. Chính các thành viên của Hiệp hội cũng phải đổ máu. Elihu già đã thuê các tay súng, lực lượng chống bạo loạn, vệ binh quốc gia và thậm chí là cả quân đội để chiến đấu cho mình. Khi đám tàn quân cuối cùng bị tiêu diệt, công đoàn của Personville chỉ còn là một xác pháo nổ tan tành. Nhưng, Bill Quint nói, Elihu già không biết gì về lịch sử nước Ý. Lão thắng, nhưng đã đánh mất quyền lực ở thành phố và tiểu bang. Để đánh bại đám thợ mỏ, lão đã để cho đám lính đánh thuê được tự do lộng hành. Khi cuộc chiến kết thúc, lão không thể loại bỏ chúng. Lão đã trao thành phố vào tay chúng và không đủ mạnh để lấy lại. Personville là một miếng mồi ngon và chúng đã chiếm lấy nó. Chúng giúp lão thắng cuộc chiến, và chiến lợi phẩm chúng yêu cầu là thành phố. Lão không thể công khai chống lại chúng. Chúng quá mạnh so với lão. Lão phải chịu trách nhiệm với những gì chúng đã làm trong cuộc bạo loạn. Khi câu chuyện tới được đó thì cả Bill Quint và tôi đều đã chếnh choáng. Anh ta bỏ kính xuống, gạt mớ tóc lòa xòa trước mặt và đưa câu chuyện về thì hiện tại: “Giờ kẻ mạnh nhất trong số chúng có lẽ là tay Pete Người Phần Lan. Thứ chúng ta đang uống đây cũng thuộc sở hữu của hắn. Rồi đến Lew Yard. Hắn có một tiệm cho vay trên phố Parker, chuyên thu tiền bảo lãnh và dính líu tới hầu hết các sự vụ nóng sốt của thành phố - đó là theo những gì người ta nói, và khá thân với Noonan - cảnh sát trưởng. Tay Max Thaler - biệt danh Kẻ Thầm Thì - cũng có rất nhiều bạn. Một gã da màu lươn lẹo có vấn đề ở cổ họng. Không thể nói được. Một tay cờ bạc. Ba kẻ đó, cùng với Noonan, đã giúp Elihu điều hành thành phố của lão - giúp nhiều hơn những gì lão muốn. Nhưng lão buộc phải hợp tác với chúng, hoặc là…” “Người bị bắn tối nay - con trai của Elihu - vị trí của anh ta là ở đâu?” Tôi hỏi. “Ông già đặt đâu thì gã ngồi đó, lúc nào cũng vậy.” “Ý anh là lão già đã khiến anh ta…?” “Có thể, nhưng tôi không cho là vậy. Tay Don đó chỉ vừa mới về nhà và bắt đầu điều hành tờ báo cho lão già. Lão quỷ già này, sắp xuống mồ đến nơi mà vẫn không để cho ai tóm đuôi mà không cắn lại. Nhưng lão phải cẩn trọng với đám kia. Lão đã mang con trai và người vợ quốc tịch Pháp của gã từ Paris về và sử dụng gã như một con khỉ trong rạp xiếc - một chiêu trò chết tiệt của một người cha. Don bắt đầu tiến hành cải tổ tờ báo. Dọn sạch sự tham nhũng và thối nát - đồng nghĩa với việc loại bỏ cả Pete, Lew và Kẻ Thầm Thì, đấy là nếu nó thành công. Anh hiểu rồi chứ? Nước cờ của lão già đã khiến chúng lâm vào thế bị động. Tôi đoán chúng chán chuyện đó rồi.” “Có gì đó sai sai trong suy đoán của anh.” Tôi nói. “Cái chốn đê tiện này còn cả đống thứ sai hơn nhiều. Uống đủ rồi chứ?” Tôi nói đã đủ. Chúng tôi xuống phố. Bill Quint bảo rằng anh ta đang ở trong khách sạn Miners trên đường Forest. Đường về của anh ta đi qua khách sạn của tôi, vậy nên chúng tôi đi cùng nhau. Có một gã cao lớn trông giống một tay cớm mặc thường phục đứng trước khách sạn của tôi, đang nói chuyện với một gã ngồi trong chiếc Stutz du lịch. “Trong xe là Kẻ Thầm Thì.” Bill Quint bảo tôi. Tôi bỏ qua người đàn ông lực lưỡng và thấy khuôn mặt trông nghiêng của Thaler. Hắn còn trẻ, da sậm và nhỏ con, với gương mặt đẹp như tượng tạc. “Hắn trông dễ thương đó.” Tôi nói. “Ừ hứ”, người đàn ông mặc đồ xám đồng ý, “và thuốc nổ cũng thế.” Mời các bạn đón đọc Mùa Gặt Đỏ của tác giả Dashiell Hammett & Nguyệt Minh (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Lũ Chuột Cống Vùng Bronx - Jerry Cotton
Jerry Cotton là series truyện trinh thám hình sự tiếng Đức thành công nhất từ trước đến nay, do NXB Bastei-Verlag in và phát hành thường xuyên dưới dạng các tập truyện khổ A5. Tập truyện đầu tiên của series dưới nhan đề "Tôi truy tìm ông trùm ganster (Ich suchte den Gangster-Chef) ra mắt độc giả lần đầu vào năm 1954. Hiện giờ tập truyện Jerry Cotton số 3040 đang được phát hành. Toàn bộ số ấn phẩm của series đã được in là khoảng 850 triệu bản!. Delfried Kaufmann là người đầu tiên chủ trương phát hành và cũng là một trong các tác giả của series truyện. Jerry Cotton không phải là tên thật mà chỉ là nghệ danh chung cho hơn 100 tác giả (có ước lượng lên tới 150 - 180 tác giả) của series truyện trinh thám hình sự này. Jerry Cotton là một cảnh sát nguyện cống hiến cả đời mình cho cuộc chiến chống các băng đảng gangster. Với lòng dũng cảm và trí thông minh, anh đã chiếm trọn trái tim hàng triệu độc giả trên thế giới. Những tác giả đã từng tham gia viết các tập truyện này (Nguồn wiki): Heinz Werner Höber Thomas Jeier (bút danh Christopher Ross) Rolf Kalmuczak (bút danh Stefan Wolf,  tác giả của bộ truyện"TKKG") Walter Appel Martin Barkawitz Horst Friedrichs Friedrich Jankuba Helmut Rellergert (bút danh Jason Dark, tác giả của bộ truyện "Geisterjäger John Sinclair") Friedrich Tenkrat Manfred Weinland Một số tác phẩm của bộ truyện đã được xuất bản tại Việt Nam: Những Phiên Bản Phần Mềm Internet-Gangster - 2001 Làn Váy Mini Bên chiếc Xe Sang Trọng - 2001 Lũ chuột cống vùng Bronx - 2003, NXB Văn học xuất bản Cuộc Tình Cuối Của Chàng Cảnh Sát - 2005 Lương Tâm Và Tội Ác (Hêrôin Trong Nhà Trắng) - Hồ Sơ Hình Sự - 2005 Tính Nhầm Luật Chơi - Hồ Sơ Hình Sự - 2005 Cơn bão - 1997 Truy lùng tên sát nhân - 1998, NXB Văn học xuất bản Những đứa con của bố già - 1999, NXB Trẻ xuất bản Con tin tình nguyện - 1999 Địa ngục trên đỉnh núi - 2000 Viên cảnh sát báo thù - 2000 Ngàn dặm xa lộ hiểm nguy - 2000 Trò chơi đã hết - 2000 Khi sát thủ là hai người đẹp - 2001 Người đàn bà bí hiểm - 2001 Con gái cảnh sát sa lưới Amphetamin - 2001 Vụ tống tiền bí hiểm - 2001 Vị đắng Crack ma túy quỷ dữ - 2002 Tiếng kêu cứu giữa nửa đêm - 2002 Phi trường Kennedy ba giờ sáng - 2002 Biệt thự con tin - 2002 30 giờ và gã giết thuê - 2002 Một kịch bản đầy án mạng - 2002 Máu đỏ thuốc phiện trắng - 2003 Những nụ hoa Bangkok - 2003 Đường dây "gái gọi" - 2003 Sòng bài đặt cược - 2003 Sát thủ số 1 của công ty cổ phần giết mướn - 2003 ... *** ...Ở giữa căn phòng rất rộng có để một chiếc bồn tắm di động cỡ lớn. Bồn tắm hình tròn có đường kính tới ba mét. Cỏ và một vài cây cảnh duyên dáng khác được đặt trên thành bồn. Trên một chiếc kệ làm bằng thép đúc có để một chiếc tivi có màn hình cực lớn. Nó đang chiếu một đoạn phim hoạt hình thỏ Bugs Bunny và âm thanh được vặn hết cỡ. Con thỏ màu xám xanh với đôi tai dài ngoẵng đang tinh nghịch trêu chọc người đi săn nó, khiến anh ta phát điên lên. Với đôi cánh tay duỗi dài, một gã trai trẻ đang ngồi dựa vào thành bồn. Làn nước phủ đầy bọt của dầu tắm dâng đến ngang ngực gã ta. Miệng gã cười thật rộng và quan sát chúng tôi bằng vẻ thách thức. Chỉ còn thiếu điếu xì gà nữa thôi, tôi tởm lợm nghĩ thầm, là gã trông giống hệt tên Mafia bố gã. — Chuyện gì cho tôi vinh dự tới mức này? - Joe Manore thờ ơ hỏi và như tiện thể đưa tay gạt một núi con con những bọt tắm vướng bên trên vai gã xuống. Nhưng rồi gã thanh niên phát hiện ra Franca Lucano. Với một cái liếc xéo rất nhanh, gã quan sát cô gái Italia xinh đẹp. Sự hiện diện của cô gái trẻ tuổi đó có vẻ như khiến gã hơi bối rối. Thật nhanh, gã với tay về phía bộ phận điều khiển và tắt tiếng tivi. Ngượng ngùng, gã cười với nữ sĩ quan cảnh sát. — Chúng tôi tới đây để nói chuyện với cậu về bố cậu, Joe, - tôi nói và chìa chứng minh thư FBI xuống dưới mũi thằng bé, sau khi đã đút súng trở lại bao. - Chúng tôi biết là ông ta đang ở New York. Chúng tôi cũng biết là ông ta đã liên hệ với cậu! Trong lúc tôi nói, Phil lục soát các căn phòng. Chúng tôi muốn chắc chắn là không có một tay chân nào của Luigi Venza đột ngột nhảy ra hỗn hào. Lát sau bạn tôi nhanh chóng quay trở về và lắc đầu thật nhẹ. Nghĩa là nơi đây chỉ có chúng tôi với Joe Manore. ... Mời các bạn đón đọc Lũ Chuột Cống Vùng Bronx của tác giả Jerry Cotton.
Bộ Năm Lừng Danh Tập 1: Bộ Năm Trên Đảo Giấu Vàng - Enid Blyton
Enid Mary Blyton (11 tháng 8 năm 1897 – 28 tháng 11 năm 1968) là nữ nhà văn người Anh chuyên viết truyện thiếu nhi. Bà còn có bút danh khác là Mary Pollock. Bà là tác giả người Anh thứ hai lọt vào danh sách 10 nhà văn có tác phẩm bán chạy nhất. Vào năm 2008, Enid Blyton được bình chọn là nhà văn được yêu mến nhất, đứng trên cả tác giả của loạt truyện Harry Potter - JK Rowling và đại thi hào William Shakespeare. Enid Blyton nổi tiếng với nhiều loạt truyện dựa trên những nhân vật quen thuộc và dành cho mọi lứa tuổi. Sách của bà được ưa chuộng ở nhiều quốc gia trên thế giới, bán được hơn 600 triệu bản. Một trong những nhân vật nổi tiếng nhất của bà là Noddy trong quyển sách dành cho độc giả nhỏ tuổi. Tuy nhiên, các tác phẩm chủ đạo của Enid nằm ở dòng văn học phiêu lưu mạo hiểm dành cho thanh thiếu niên. Những bộ truyện thuộc thể loại này bao gồm Bộ Năm Lừng danh, The Secret Seven và The Five Find-Outers and Dog. Ngoài ra, bà còn viết truyện ngắn và thơ nhưng ít được biết đến hơn. Các tác phẩm của Enid Blyton đôi khi cũng có yếu tố phép thuật. Đến tận ngày nay, chúng vẫn được ưa chuộng ở Khối Thịnh vượng chung Anh và nhiều nước trên thế giới. Trong suốt 40 năm, bà viết gần 800 quyển sách và chúng đã được dịch ra gần 90 thứ tiếng. Đã hơn 70 năm trôi qua kể từ lần đầu được xuất bản, Bộ Năm Lừng Danh vô cùng sống động của Enid Blyton tiếp tục làm say mê hàng triệu bạn nhỏ trên toàn thế giới. Bộ sách đã nhiều lần được chuyển thể truyền hình, điện ảnh, hoạt hình, truyện tranh, kịch bản sân khấu, trò chơi điện tử. Thành công của loạt truyện Bộ Năm Lừng Danh giúp bà đứng trong hàng ngũ những nhà văn thiếu nhi kinh điển và cuốn hút nhất thế kỷ XX. Tác phẩm xuất bản tại Việt Nam: — Bộ truyện The Famous Five, 1942 – 1963 (Đã xuất bản ở Việt Nam với tựa Bộ năm lừng danh, NXB Hội Nhà Văn, Nhã Nam, 2011) — Bộ truyện Malory Towers, 1946 -1951 (Đã xuất bản ở Việt Nam với tựa Tòa tháp Malory, NXB Văn Học, 2010) TÁC PHẨM Trước khi có Internet, ti vi hay điện tử thì trẻ con chơi gì nhỉ? • Chúng tổ chức dã ngoại ngoài đảo, đi xe đạp lên núi, cắm trại trong thung lũng và đi bộ đường dài. • Chúng khám phá vô số nơi chốn thú vị như nông trại, lâu đài, hang động và những hành lang bí mật. • Chúng thậm chí còn chiến đấu với trộm cướp, bọn buôn lậu, bọn bắt cóc hay truy tìm kho báu cổ xưa. Cả một thế giới vui tươi, lấp lánh và kỳ thú đã hiện ra trên bước đường phiêu lưu của bộ năm can đảm: Julian, George, Dick, Anne và chó Timothy. Cốt truyện hấp dẫn với nhiều tình tiết bất ngờ, gay cấn, tiết tấu nhanh, khả năng nắm bắt và khắc họa tâm lý nhân vật tinh tế, nghệ thuật xây dựng những nhân vật mang tính điển hình... là những yếu tố tạo nên bộ sách thiếu nhi kinh điển làm mê đắm biết bao thế hệ độc giả trên toàn thế giới *** “Mẹ, đã có tin gì về chuyến đi nghỉ hè của nhà mình chưa ạ?” Julian hỏi trong bữa sáng. “Chúng ta sẽ vẫn tới vịnh Polseath như mọi năm chứ?” “Mẹ e là không được,” mẹ cậu đáp. “Năm nay chỗ ấy quả thực đã kín đặc rồi.” Bên bàn ăn sáng, ba đứa trẻ nhìn nhau thất vọng tràn trề. Chúng mê tít khu nhà ở vịnh Polseath. Bờ biển ở đó mới đáng yêu làm sao, tắm nắng ở đó mới tuyệt đến nhường nào. “Tươi tỉnh lên nào,” bố chúng lên tiếng. “Bố chắc chắn chúng ta sẽ tìm ra chỗ khác hay không kém đâu. Dù sao thì năm nay bố mẹ cũng không đi cùng các con được. Mẹ đã báo với mấy đứa chưa?” “Chưa hề!” Anne đáp. “Ôi mẹ, là thật ạ? Mẹ không thể đi nghỉ với chúng con được sao? Năm nào mẹ cũng đi cơ mà.” “Ừ, lần này bố con muốn mẹ cùng tới Scotland,” người mẹ đáp. “Chỉ riêng bố mẹ thôi! Mấy đứa cũng đã đủ lớn để tự lo rồi nên bố mẹ nghĩ các con sẽ vui hơn nhiều nếu đi một mình. Nhưng giờ khi không đến vịnh Polseath được, mẹ quả thực chưa biết gửi mấy đứa đi đâu.” “Nhà chú Quentin thì sao nhỉ?” đột nhiên bố đề xuất. Quentin là em trai bố, chú của lũ trẻ. Chúng từng có dịp giáp mặt ông chú một lần và sợ chết khiếp. Đó là một người đàn ông cao lêu đêu, cau có, một nhà khoa học có tài, ngày đêm vùi đầu vào nghiên cứu. Ông sống cạnh biển - nhưng đó là tất cả những gì lũ trẻ biết về chú mình! “Chú Quentin á?” mẹ lũ trẻ nói, môi bậm lại. “Cái gì khiến anh tự dưng nghĩ tới chú ấy vậy? Em hoàn toàn không nghĩ là chú ấy thích có bọn trẻ quẩn chân trong cái nhà chật chội đó đâu.” “Ồ,” người bố đáp, “hôm nọ cô Quentin lên thành phố gặp anh bàn ít việc, và anh không nghĩ rằng cuộc sống hiện tại của họ thoải mái lắm đâu. Fanny nói cô ấy sẽ rất mừng nếu có một vài khách tới nghỉ ở nhà mình để có thêm đồng ra đồng vào. Nhà họ nằm ngay sát biển, em biết đấy. Có thể đó chính là nơi lũ trẻ cần. Fanny rất tử tế và cô ấy sẽ trông nom bọn trẻ đâu ra đấy.” “Vâng, nhưng bản thân cô ấy cũng đã có một đứa nhóc để mà chăm lo đúng không?” mẹ lũ trẻ đáp. “Xem nào, tên nó là gì nhỉ, một cái tên kỳ cục, à, Georgina! Con bé mấy tuổi rồi chứ? Khoảng mười một gì đó, em chắc thế.” ... Mời các bạn đón đọc Bộ Năm Lừng Danh Tập 1: Bộ Năm Trên Đảo Giấu Vàng của tác giả Enid Blyton.
Alex Morrow Tập 2: Bầy Ong Biến Mất - Denise Mina
“Bầy ong biến mất” là cuốn sách thứ hai nằm trong serie về thanh tra hình sự Alex Morrow. Cuốn sách có rất nhiều tầng mạch truyện đan cài. Độc giả được chạm trán với thanh tra Alex Morrow tại đám tang của cha cô, ngay sau đó phát hiện ra bản thân nhân vật chính cũng có những bí mật không muốn bị tiết lộ. Nạn nhân của cô là Sarah Erroll, với xuất thân danh giá và một số phận bất hạnh. Cô gái được nuôi dạy trong môi trường biệt lập với thế giới bên ngoài ở trường tư cho các cô tiểu thư nhà giàu, nhưng biến cố gia đình đã đẩy cô vào thế giới của gái gọi hạng sang, và số phận tiếp tay để cô rơi vào lưới ái tình với một gã triệu phú đốn mạt: Lars Anderson. Cô trở thành tình nhân kiêm thủ quỹ cho gã, để cất giấu những khoản tiền bẩn thỉu gã moi ra được từ đế chế tài chính ma quỷ do chính gã tạo ra. Một cô gái trẻ, xinh đẹp, con nhà giàu mà lại đi làm gái gọi và cất giấu 650 ngàn euro trong bếp, Morrow nhanh chóng nhận ra không ai ngoài cô quan tâm đến cái chết của cô gái tội nghiệp. Bởi thế cô quyết tâm tìm cho ra thủ phạm bất chấp những trở ngại do đồng nghiệp lười biếng, cấp trên kỳ thị và cả cái thai năm tháng gây ra. Trong quá trình điều tra vụ án Alex vô tình gặp lại bạn thanh mai trúc mã của mình là Kay Murray. Giờ Kay đã là bà mẹ đơn thân của bốn đứa trẻ vị thành niên, và hai trong số đó bị tình nghi có dính líu tới cái chết của Sarah Erroll. Trong lúc đó, tại một trường tư thục đắt giá, nam sinh Thomas Anderson bị gọi tới phòng hiệu trưởng và người ta lạnh lùng thông báo với cậu về cái chết của bố cậu. Nhanh chóng, tác giả hé lộ những tình cảm phức tạp trong con người cậu bé mười lăm tuổi trước những biến cố khủng khiếp nhất: gia đình cậu phá sản, bố cậu tự vẫn, em gái gặp vấn đề về tâm thần, mẹ cậu tiếp tục sống lãnh cảm như từ trước tới nay, và một người đàn bà lạ lùng gọi điện tới tự xưng là “người vợ kia” của bố cậu. Vượt ra ngoài không khí u ám, buồn thảm của cuốn tiểu thuyết, tác giả vẫn đề cao những nỗ lực của một người mẹ lương thiện, cố gắng đem lại cuộc sống tốt nhất có thể cho những đứa con mình, dù cô phải đơn độc chiến đấu chống lại cả xã hội đầy rẫy bất công. Một phần thưởng ngọt ngào dành cho cô là niềm tin đã được nhà văn gửi gắm vào phần lương thiện của con người. Bộ Alex Morrow gồm có:  Still Midnight (2009) The End of the Wasp Season (2010) - Bầy Ong Biến Mất Gods and Beasts (2012) The Red Road (2013) Blood, Salt, Water (2014) *** Denise Mina sinh năm 1966 tại Glasgow. Vì công việc kỹ sư của ông bố, gia đình bà trôi theo dòng chảy tìm dầu ở biển bắc trong những năm 70 của thế kỷ 20 khắp Châu Âu, từ Paris tới Hague, rồi London, Scotland và Bergen. Mười sáu tuổi, bà phải nghỉ học và làm nhiều công việc tay chân khác nhau như bồi bàn, phụ bếp, đầu bếp... Dần dà, bà ổn định với công việc chăm sóc người già và các bệnh nhân hấp hối. Ở tuổi hai mươi mốt, bà thi đỗ ngành Luật của Đại học Glasgow và tiếp tục học lên. Trong thời gian viết luận án tiến sĩ ở trường Đại học Strathclyde về đề tài bệnh tâm thần của các nữ phạm nhân, đồng thời giảng dạy môn Tội phạm học và Luật Hình sự, bà nảy ra ý định viết cuốn tiểu thuyết đầu tay. Cuốn sách được nhà xuất bản Transworld phát hành năm 1998, mang tên Garnethill. Cuốn Garnethill đã đoạt giải thưởng John Creasy Dagger của Hiệp hội các nhà văn viết truyện trinh thám cho cuốn tiểu thuyết đầu tay xuất sắc nhất sau đó. Đây cũng là cuốn đầu trong bộ ba tiểu thuyết Garnethill, Exile và Resolution. Cuốn tiểu thuyết thứ tư đứng độc lập, được đặt tên Sanctum (tạm dịch: Đất thánh) ở Anh và Deception (Lừa dối) ở Mỹ. Năm 2005, cuốn The Field of Blood (Cánh đồng máu) được xuất bản, đây là cuốn mở đầu trong bộ năm cuốn nói về sự nghiệp và cuộc đời của nhà báo Paddy Meehan trong phòng biên tập tin tức từ đầu những năm 80, qua các sự kiện trọng yếu của những năm 90. Cuốn thứ hai của serie này được xuất bản năm 2006, đặt tựa là The Dead Hour (Giờ tử) và cuốn thứ ba nối tiếp nó ra đời năm 2007. Bà cũng viết truyện tranh và là tác giả cuốn Hellblazer, serie John Constantine cho Vertigo trong một năm, sắp tới đây sẽ được xuất bản dưới dạng tiểu thuyết bằng tranh với tên gọi Empathy is the Enemy (Nhân từ là Kẻ thù) và The Red Right Hand (Bàn tay phải màu đỏ). Denise Mina cũng đã viết một cuốn tiểu thuyết bằng tranh độc lập về giết người hàng loạt và giá bất động sản mang tên A Sickness in the Family (Gia đình bệnh hoạn) sắp được nhà xuất bản DC Comics phát hành. Ngoài ra bà còn tham gia viết kịch, kịch bản cho BBC radio và đang viết kịch bản chuyển thể thành phim cho vở kịch Ida Tamson. Mời các bạn đón đọc Alex Morrow Tập 2: Bầy Ong Biến Mất của tác giả Denise Mina.
Lắng Nghe Trong Gió - Mạch Gia
Lắng Nghe Trong Gió - Tác phẩm đạt giải Mao Thuẫn 2008 của tác giả Mạch Gia đi sâu vào miêu tả những gì sâu sắc nhất thuộc về nhân tính và trí tuệ con người. Tác phẩm là câu chuyện về đề tài phản gián, phần 1 của Phong Thanh, mang đến cho người đọc những kiến thức mới mẻ về hoạt động của đơn vị làm công tác thu thập thông tin tình báo của Trung Quốc. Bằng những chi tiết ly kỳ, những logic chặt chẽ và cách kể chuyện hấp dẫn như một mê cung huyền bí, Mạch Gia đã đưa người đọc vào một không gian đóng đến cực độ và đột ngột mở ra những khả năng phong phú của câu chuyện. Từ Lắng Nghe Trong Gió đến Phong Thanh, Mạch Gia giống như một người điều tra tinh thần tài tình, từ những góc độ mà người khác không thể tưởng tượng, từ những chỗ tưởng chừng như đã kết thúc, ông đã đem lại những kì tích cho bạn đọc. Ông đã dùng trí tuệ của mình để đặt những bước chân vững chắc lên mảnh đất nhân tính của con người... *** Một người mười năm không gặp, bỗng một hôm gặp lại ở ngoài phố, hoặc một người không quen biết, bỗng một hôm trở thành bạn tâm giao, sau đấy cuộc đời anh như nước gặp nước, hoặc như nước gặp lửa, sự thay đổi không thể nào hiểu nổi bắt đầu xuất hiện. Tôi tin rằng, những chuyện như vậy ai cũng có. Tôi cũng có. Nói thẳng ra, quyển sách này bắt nguồn từ một lần gặp gỡ tình cờ của tôi. Cuộc gặp gỡ tình cờ này thật sự rất có ý nghĩa. Chuyện xảy ra vào mười hai năm trước, khi đó tôi còn là một thanh niên chưa đầy 30 tuổi, làm công việc bình thường, đi công tác chưa có tiêu chuẩn đi máy bay. Nhưng có một lần, sếp của tôi lên Bắc Kinh báo cáo công việc với cấp trên, nội dung báo cáo đã được viết trên giấy trắng mực đen, chỉ cần sếp dọc đường đọc đi đọc lại cho nhớ, khỏi cần tôi đi theo. Nhưng sau đấy cấp trên thay đổi ý kiến, muốn nghe báo cáo trực tiếp, sếp tôi lúng túng, vội vã triệu tôi “bay” tới, để tôi chuẩn bị tài liệu tại chỗ cho ông. Vậy là lần đầu tiên tôi được bước lên máy bay. Giống như các nhà thơ vẫn nói, nhờ vào sức mạnh của bầu trời, chỉ hai tiếng đồng hồ sau tôi đã đến Bắc Kinh. Sếp cuối cùng vẫn là sếp, ông ra tận sân bay đón tôi, tất nhiên không phải vì yêu quý gì nhau mà, chủ yếu là để tôi “nhanh chóng nắm bắt tình hình”. Nhưng vừa ra khỏi sân bay, một đồng chí công an rất ngang nhiên đứng chắn giữa chúng tôi, không cần hỏi lôi thôi, yêu cầu tôi đi theo anh ta. Tôi hỏi có chuyện gì, anh ta bảo cứ đi rồi sẽ biết. Nói xong, anh ta đẩy tôi đi, khiến vị sếp còn bối rối hơn cả tôi. Dọc đường, ông hỏi tôi có chuyện gì xảy ra, tôi đâu biết. Có thể khẳng định đây là cuộc “đưa đi” đầy bí mật, nếu không chỉ là chuyện nhầm lẫn. Tôi phải nhắc đi nhắc lại với “hai vị” công an tên tôi là Mạch Gia - Mạch là lúa mạch, Gia trong chữ gia đình, chứ không phải gia giảm. Thật ra, bố tôi đặt tên cho tôi trước tiên là do kém hiểu biết, không biết trên đời này có Thánh địa Mecca[1], thứ nữa để tỏ ra khiêm tốn, ông yêu cầu tôi phải khiêm tốn, vì ý nghĩa của hai chữ Mạch Gia, nói thẳng ra là đồng ruộng, là cày cấy, là nông dân, rất chất phác. ... Mời các bạn đón đọc Lắng Nghe Trong Gió của tác giả Mạch Gia.