Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Tình Yêu Phù Thủy (Biệt Thự Bạch Mã)

Tình Yêu Phù Thủy hay Biệt Thự Bạch Mã là tên bản dịch của cuốn tiểu thuyết The Pale Horse do nhà văn trinh thám nổi tiếng Agatha Christie sáng tác. Trong phầm này, chúng ta sẽ cùng thanh tra Lejeune đi tìm chân tướng sự việc. *** Agatha Christie Tình Yêu Phù Thủy Người dịch: TRẦN BÌNH Lời Mở Đầu Nguyên tác tiếng Anh :THE PALE HORSE Mark Easterbrook, người tường thuật các sự kiện chính trong truyện, chứng kiến một vụ đánh nhau  giữa hai cô gái trong một quán rượu ở Chelsea. Chẳng bao lâu sau đó, anh đọc được tin cáo phó trên báo về cái chết của cô Thomasina Tuckerton, một trong hai cô gái đã đánh nhau đó. Và trong một bữa ăn tối với bạn bè, anh lại nghe một cô gái, Poppy Stirling, nói bóng gió đến CON NGỰA NHỢT NHẠT, một nơi có thể sắp đặt trước cái chết cho người khác. Khi Mark gặp Corrigan, một bác sĩ pháp y bạn anh, anh lại được bạn cho xem một danh sách những cái tên tìm thấy trong đôi giày của cha Gorman, người cũng vừa bị giết chết sau khi đến rửa tội cho một phụ nữ đang hấp hối. Trong đó có tên của phu nhân Hesketh-Dubois, mẹ đỡ đầu của anh, người vừa qua đời gần đây, và tên của Thomasina Tuckerton, cô gái mà anh vừa đọc tin cáo phó trên báo. Anh bắt đầu cảm thấy lo sợ và nghĩ rằng những người có tên trong bản danh sách kia là những người có cái chết đã được báo trước… *** Chiếc bình pha cà phê chạy điện đặt phía sau lưng tôi rít lên như một con rắn đang giận dữ. Tiếng động tự nó có vẻ như là một cái gì thê thảm và gần như là ma quái. Tôi nghĩ rằng trong thời đại của chúng ta có biết bao nhiêu âm thanh làm chúng ta khó chịu như tiếng rú của máy bay phản lực, tiếng gầm điếc tai, doạ nạt của tàu điện ngầm khi ra khỏi đường hầm, tiếng của những vật nặng đi qua làm rung chuyển nhà cửa... cho đến tiếng kêu của những máy móc dùng trong gia đình như tủ lạnh, máy hút bụi... cũng vậy. Hình như chúng nói: "Coi chừng, chúng ta là những vị thần bị buộc chân để phục vụ các người, nếu các người không thể kiểm soát nổi chúng ta và... ". Ôi một thế giới có biết bao nhiêu là nguy hiểm!  Tôi quấy một thứ nước đặc sánh trong một chiếc tách đặt trước mặt. Mùi thơm thật là dễ chịu. - Chỉ dùng có vậy sao, thưa ngài? Một chiếc bánh kẹp thịt, vài quả chuối là một miếng thịt lợn hun khói nữa chứ? Cách ăn uống hỗn tạp như vậy quả là lạ lùng đối với tôi. Nhưng tôi đã ngồi trong một quán rượu ở Chelsea cũng như đã thích ứng được với những thói quen ở đây. Tôi nhận một chiếc bánh kẹp thịt mà nhà hàng đã mời chào. Tuy đã là dân sống ở Chelsea, từ ba tháng nay, trong một căn hộ đủ tiện nghi, nhưng tôi còn xa lạ với nó về nhiều mặt. Tôi đang viết một cuốn sách nói về khoa kiến trúc của Mông Cổ, và để làm được việc đó đáng lẽ tốt hơn cả là tôi có thể sống ở Hampstead hoặc ở Bloomsbury. Môi trường sống của tôi thì lại hoàn toàn khác hẳn: tôi sống trong cái vũ trụ của cá nhân tôi. Tối hôm nay tôi lâm vào một trong những cơn buồn chán thường thấy của các nhà văn. Khoa kiến trúc Mông Cổ, các vị hoàng đế Mông Cổ và tất cả những đặc điểm của cuộc sống Mông Cổ đột nhiên đối với tôi chỉ còn là bụi bậm và tàn tro. Chúng có liên quan gì đến tôi? Tại sao tôi lại muốn viết về chúng? Tôi chối bỏ làm việc. Hình như nó không còn là hay ho đối với tôi nữa, nó nghèo nàn về văn phong và mất hết lý thú. Tôi ném bản thảo đi và đưa mắt nhìn chiếc đồng hồ quả quít. Đã mười một giờ khuya. Tôi đã ăn tối chưa nhỉ? Chưa, cái dạ dày của tôi trả lời. Còn bữa lót dạ thì đã lâu lắm rồi. Trong tủ lạnh của tôi chỉ còn một miếng lưỡi lợn khô cứng mà tôi chẳng muốn đụng đến chút nào. Do đó tôi xuống đường King s và bước hú hoạ vào một quán cà phê có biển treo, đề tên chủ quán “Luigi" ghép bằng những bóng đèn huỳnh quang màu đỏ. Ngồi trước chiếc bánh kẹp thịt, vài quả chuối và miếng thịt lợn hun khói, tôi nghĩ về những tiếng động trong cuộc sống hiện đại, về những cái xấu luôn luôn trội hơn những cái tốt, về sự bền vững để giành chiến thắng Chiếc bình pha cà phê chạy điện vẫn réo bên tai. Tôi gọi một tách cà phê nữa và liếc nhìn xung quanh. Một trong các chị gái tôi đã nói là đừng bao giờ trở thành người quan sát. Lúc này tôi chăm chú quan sát tất cả. Trong quán ánh sáng lù mù, nhìn không rõ. Khách hàng gồm hầu hết là những người trẻ tuổi. Tôi thấy các cô gái thường là bẩn thỉu như mọi cô gái ngày nay. Hình như các cô mặc quá nhiều quần áo. Một vài tuần lễ trước đây, tôi đã chú ý đến điều này trong khi đi ăn sáng với các bạn tôi. Cô gái ngồi gần tôi khoảng hai chục tuổi, dù trời không lạnh lắm, cô cũng mặc một chiếc săng-đay dày, màu vàng, một chiếc váy đen ra một đôi tất len đen. Mặt cô loáng ướt vì mồ hôi, người có toả ra một mùi len ngấm nhiều mồ hôi và mùi tóc lâu ngày không gội. Theo các bạn tôi thì cô ta là người rất quyến rũ. Còn tôi, tôi chỉ có một ý đỉnh là ném cô vào một bể nước nóng cùng với một miếng xà phòng và ra lệnh cho cô kỳ cọ thật kỹ! Tôi nghĩ rằng, về một điểm nào đó, tôi ít thích nghi với thời đại của mình. Tôi tưởng nhớ một cách thú vị về những cô gái theo đạo Hindu với những mớ tóc đen mượt, những chiếc váy màu sặc sỡ, có nhiều nếp rất duyên dáng theo từng cử động của thân thể. Một tiếng động mạnh kéo tôi ra khỏi những kỷ niệm êm đềm đó. Hai cô gái ngồi bàn bên cãi nhau. Bạn bè khuyên giải nhưng không kết quả. Bất thình lình, một cô tát cô kia đang cố gắng giật chiếc ghế của mình đang ngồi. Họ úm nhau như những chị hàng cá và thét lên những lời tục tĩu. Một cô tóc màu hung rối bù, cô kia tóc màu hoe cứng đờ. Những tiếng kêu động viên nổi lên ở các bàn khác. - Lại đây! Cho nó một trận, Lou! Đứng cuối sàn nhảy, người vô can là Luigi, một người gốc Ý, giọng trọ trẹ, can thiệp: - Ê, đằng kia, chà! Như thế đủ rồi! Cảnh sát sẽ đến tóm cổ các cô. Đủ rồi. Tôi bảo các cô! Nhưng cô tóc hung đã túm tóc cô tóc hoe và điên cuồng giật mạnh. - Mày chỉ là một con đĩ! Một con đĩ cướp chồng người! - Con đĩ chính là mày đấy! Luigi và các vệ sĩ của hai cô kéo họ ra. Cô tóc hung giơ cao mớ tóc màu hoe đẹp trong tay lên với một vẻ chiến thắng rồi ném nó xuống đất. Bất chợt cửa mở và một người cảnh sát đại diện cho chính quyền đứng sững ở ngưỡng cửa. - Ở đây xảy ra chuyện gì vậy? Lập tức mọi người lập thành một mặt trận để chống lại kẻ thù chung: - Người ta vui đùa - Một trong những  trai trả lời. - Đúng - Luigi nhấn mạnh - Bạn bè họ vui đùa với nhau. Anh ta lấy chân đá nắm tóc vào gầm bàn. Những người có liên quan tới vụ ẩu đả nhìn nhau cười ngượng ngùng trước cặp mắt nghi ngờ của viên cảnh sát. Như là một sự tình cờ, các khách hàng khác cho rằng đi khỏi quán lúc này là tốt hơn cả. Người cảnh sát đưa mắt nhìn theo họ: "Cái đó, lần này thôi. Nhưng… các người sẽ được chú ý". Sau đó anh ta bỏ đi. Người vệ sĩ của cô gái tóc hoe thanh toán tiền. - Có đau không? - Luigi hỏi cô gái đang buộc lại khăn quàng dưới cằm. Luigi đã xen vào câu chuyện của cô một cách xấu xa. Họ đã giật tóc cô. - Ô, cái đó không làm tôi đau - Cô lơ đãng trả lời. Cô cười với người chủ quán - Tha lỗi cho chúng tôi, Luigi. Họ đi ra. Quán vắng tanh. Tôi tìm tiền. - Có thể nói là cô ta nổi khùng - Luigi nhận xét. Anh ta cầm cái chổi, quét hất những lọn tóc vào gầm quầy hàng. - Cái đó thật là tàn bạo - Tôi nói. - Nếu là tôi thì tôi đã kêu thét lên rồi - Luigi nói thêm - Nhưng cái cô Tommy ấy, cô ta đã lên cơn khùng. - Anh biết rõ cô ấy chứ? - Cô ta hầu như tối nào cũng có mặt ở đây. Tên cô ta là Tuckerton. Thomasina Tuckerton. Nhưng ở đây người ta gọi cô là Tommy Tucker. Cô ta có vô khối tiền. Ông già cô để lại cho cô cả một gia tài. Và cô ta đã làm gì? Cô ta sống trong một căn phòng bẩn thỉu trên đường Wandsworth Bridge và đi lang thang với một nhóm người như cô. Cái đó làm tôi sửng sốt đến ngã người ra. Họ có nhiều tiền. Họ có thể mua bất cứ cái gì, trọ cả trong khách sạn Ritz nếu họ muốn, nhưng cách sống ấy hình như đã lôi cuốn họ. Tôi thì tôi cắt đứt ngay cái kiểu sống như vậy. Tôi hỏi anh ta về lý do của cuộc cãi đánh nhau. - Ờ, cô Tommy đã nẫng tay trên người bạn trai của cô kia. Không cần phải đánh chửi nhau, xin ngài hiểu ý tôi là như vậy! *** Gợi Ý Thứ Tự Đọc Tác Phẩm - Guide To ReadGợi Ý Thứ Tự Đọc Tác Phẩm - Guide To Read   Nguồn: FB/groups/acvnfan Nhóm đã tổng hợp lại theo bảng xếp hạng của các fan thế giới, xếp theo thứ tự truyện hay nhất đầu tiên. Có 2 cách đọc: Từ dễ đến khó, Đọc theo thể loại. (Hoặc đọc trộn lung tung cho đỡ nhanh chán, dở hay-dở hay-ngắn dài-... cứ thế =))) Ahiru, gõ lại từ ảnh hướng dẫn. CÁCH 1 - TỪ DỄ ĐẾN KHÓ   A. Basic - Truyện cơ bản Gồm các truyện ngắn nổi bật, 20-50 trang cho các bạn tập làm quen với văn phong tác giả. * Poirot Investigates: - Double Sin/ Thừa một chứng tích phạm tội - The Chocolate box/ Hộp Sô cô la - Case of missing will/ Bản di chúc độc đáo * Truyện ngắn Paker Pyne: - A Fairy in the Flat/ Tiên nữ trong căn hộ (trong tập Hãng thám tử tư) - Case of the Distressed Lady/ Người thiếu phụ tuyệt vọng - The Gate of Baghdad/ Cánh cổng thành Bagdad * Hãng thám tử tư/ Partners in Crime: - Finessing the King/ Đưa vua vào thế bí - A Pot of Tea/ Một tách trà - The Man in the Mist/ Người đàn ông trong sương mù * Gợi ý thêm: - Thirteen Problems/ 13 vụ án - Golden Ball/ Quả cầu vàng - The dream/ Giấc mơ khủng khiếp   B. Advance - Truyện nâng cao Là những tiểu thuyết nổi bật. 1. Death on the Nile/ Án mạng trên sông Nile 2. One Two Buckle My Shoe/ Một, Hai, Ba Những cái chết bí ẩn 3. Death the Clouds/ Cái chết trên mây 4. Peril At End House 5. Crooked House/ Ngôi nhà cổ quái 6. Cards on the table/ Những quân bài trên mặt bàn 7. Appointment With Death/ Hẹn với tử thần 8. Death Comes as the End/ Tận cùng là cái chết 9. Five little pigs/ Năm chú heo nhỏ 10. The Moving Finger/ Ngòi bút tẩm độc *Gợi ý thêm: 11. The clocks/ Những chiếc đồng hồ kỳ lạ 12. 4:50 from Paddington/ Chuyến tàu 16h50 13. Hallowe'en Party/ Ngày hội quả bí 14. Lord Edgware Dies/ Dao kề gáy 15. Hercule Poirot's Christmas/ Chết trong đêm Noel - Giáng sinh của Hercule Poirot   C. Masterpiece - Kiệt tác Những truyện kinh điển 1. And Then There Were None/ Mười người da đen nhỏ 2. Murder On The Orient Express/ Án mạng trên chuyến tàu tốc hành Phương Đông 3. The Murder Of Roger Ackroyd/ Vì Sao Ông Ackroyd Chết 4. The Abc Murders/ Chuỗi án mạng A.B.C 5. Curtain, Poirot's Last Case/ Thám tử rời sân khấu 6. A Murder Is Announced/ Cái chết được báo trước 7. Murder on the Links/ Vụ giết người trên sân golf 8. The Mysterious Affair At Styles/ Thảm kịch ở Styles 9. The Murder at the Vicarage/ Án mạng ở nhà cha xứ/ Bí mật trong chiếc vali 10. Toward zero/ Thời khắc định mệnh CÁCH 2 - XẾP HẠNG THEO THỂ LOẠI   A. Đánh lừa tâm lý người đọc - Readers totally blind 1. And Then There Were None/ Mười người da đen nhỏ 2. The Murder Of Roger Ackroyd/ Vì Sao Ông Ackroyd Chết 3.Five little pigs/ Năm chú heo nhỏ 4. The Abc Murders/ Chuỗi án mạng A.B.C 5. Cards on the table/ Những quân bài trên mặt bàn 6. Curtain, Poirot's Last Case/ Thám tử rời sân khấu 7. A Murder Is Announced/ Cái chết được báo trước   B. Yêu đương ướt át - Love injured/sloppy 1. Elephants Can Remember/ Theo dấu chân voi 2. Sad Cypress/ Cây bách buồn 3. Ordeal by Innocence/ Nhân chứng không ai ưa 4. Death on the Nile/ Án mạng trên sông Nile 5. Endless night/ Đêm dài vô tận 6. The Hollow/ Thung lũng   C. Xã hội đen - Underground 1. Big Four/ Bộ tứ 2. The Pale Horse/ Biệt thự "Bạch mã" 3. The clocks/ Những chiếc đồng hồ kỳ lạ 4. Murder On The Orient Express/ Án mạng trên chuyến tàu tốc hành Phương Đông 5. The Seven Dials Mystery/ Bảy mặt đồng hồ 6. The Mystery Of The Blue Train/ Bí mật chuyến tàu xanh   D. Bị chỉ trích nhiều - Most commented 1. The Murder Of Roger Ackroyd/ Vì Sao Ông Ackroyd Chết 2. The Man In The Brown Suit/ Viên kim cương Nam Phi 3. The Hollow/ Thung lũng 4. The Mysterious Mr. Quin/ Người đàn ông bí ẩn   E. Phiêu lưu - Adventure 1. The Man In The Brown Suit/ Viên kim cương Nam Phi 2. Death Comes as the End/ Tận cùng là cái chết 3. Appointment With Death/ Hẹn với tử thần 4. Death on the Nile/ Án mạng trên sông Nile 5. They Came to Baghdad/ Điệp vụ thành Bagdad   F. Tâm linh - Spirituality 1. The Pale Horse/ Biệt thự "Bạch mã" 2. Dumb witness/ Nhân chứng câm 3. The Sittaford Mystery/ 5 giờ 25 phút 4. A Caribbean Mystery/ Điều bí ẩn của bà Marple   G. Bi kịch gia đình - Too much love 1. Elephants Can Remember/ Theo dấu chân voi 2. The Hollow/ Thung lũng 3. Nemesis/ Nữ thần báo oán 4. Endless night/ Đêm dài vô tận 5. Hallowe'en Party/ Ngày hội quả bí 6. Hercule Poirot's Christmas/ Giáng sinh của Hercule Poirot 7. Lord Edgware Dies/ Dao kề gáy   H. Khởi đầu khó tin - Hard to believe at beginning 1. The clocks/ Những chiếc đồng hồ kỳ lạ 2. Elephants Can Remember/ Theo dấu chân voi 3. Hallowe'en Party/ Ngày hội quả bí 4. The Seven Dials Mystery/ Bảy mặt đồng hồ 5. The Man In The Brown Suit/ Viên kim cương Nam Phi 6. Cat among pigeons/ Cú vọ và đàn bồ câu   I. Cái kết 'khó nuốt' - The end made me not satisfied 1. Hallowe'en Party/ Ngày hội quả bí 2. The Hollow/ Thung lũng 3. The Seven Dials Mystery/ Bảy mặt đồng hồ 4. The Man In The Brown Suit/ Viên kim cương Nam Phi 5. Why didn't they ask Evans? Người trong ảnh   J. Quá ích kỷ - So selfish 1. Mrs McGinty's Dead/ Cái chết của bà McGinty 2. The Hollow/ Thung lũng 3. Endless night/ Đêm dài vô tận 4. Hercule Poirot's Christmas/ Giáng sinh của Hercule Poirot 5. Appointment With Death/ Hẹn với tử thần   K. Vụ hay và dở nhất của bà Marple - Best& Worst MsMarple TUYỆT: 1. A Murder Is Announced/ Cái chết được báo trước 2. The Moving Finger/ Ngòi bút tẩm độc 3. 4:50 from Paddington/ Chuyến tàu 16h50 4. Nemesis/ Nữ thần báo oán 5. The Murder at the Vicarage/ Án mạng ở nhà cha xứ DỞ: 1. A Pocket Full of Rye/ Một nắm lúa mạch 2. Sleeping Murder/ Giết người trong mộng 3. At Bertram's Hotel/ Bí ẩn khách sạn Bectram   L. Vụ hay và dở nhất của Poirot - Best& Worst H.Poirot TUYỆT: 1. The Murder Of Roger Ackroyd/ Vì Sao Ông Ackroyd Chết 2. Murder On The Orient Express/ Án mạng trên chuyến tàu tốc hành Phương Đông 3. Curtain, Poirot's Last Case/ Thám tử rời sân khấu 4. Five little pigs/ Năm chú heo nhỏ 5. Peril at the End House 6. The Abc Murders/ Chuỗi án mạng A.B.C 7. One Two Buckle My Shoe/ Một, Hai, Ba Những cái chết bí ẩn 8. Death on the Nile/ Án mạng trên sông Nile 9. Hercule Poirot's Christmas/ Chết trong đêm Noel DỞ: 1. Dead Man's Folly/ Ngôi đền của người chết 2. Big Four/ Bộ tứ 3. Murder in Mesopotamia/ Vụ án mạng ở vùng Mesopotamie 4. The Hollow/ Thung lũng 5. Cat among pigeons/ Cú vọ và đàn bồ câu 6. Elephants Can Remember/ Theo dấu chân voi 7. Dumb witness/ Nhân chứng câm 8. The clocks/ Những chiếc đồng hồ kỳ lạ 9. The Mystery Of The Blue Train/ Bí mật chuyến tàu xanh (Riêng tui hok thấy danh sách dở này đúng lắm...)   M. Hơi rối và nhàm - A bit complicated & tired 1. Nemesis/ Nữ thần báo oán 2. The Hollow/ Thung lũng 3. Sleeping Murder/ Giết người trong mộng 4. Death on the Nile/ Án mạng trên sông Nile Bảng xếp hạng này mang tính tham khảo. Có vài truyện hơi dài dòng với con trai nhưng chị em đọc lại thích kiểu tình củm sướt mướt ^^" Truyện không đề tên tiếng Việt, là những truyện chưa có bản dịch. Truyện mà mình không có đăng lên, là những truyện chưa có bản số hóa. Hiuhiu (_ _______)~~   Mời các bạn đón đọc Tình Yêu Phù Thủy (Biệt Thự Bạch Mã) của tác giả Agatha Christie.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Điệp Viên Yêu Chúng Ta: Chiến Tranh Việt Nam Và Trò Chơi Nguy Hiểm Của Phạm Xuân Ẩn - Thomas A. Bass
Cuốn này đã được Nhã Nam xuất bản với tựa đề Điệp Viên Z.21 Kẻ Thù Tuyệt Vời Của Nước Mỹ “Đây là câu chuyện xuất sắc về một con người và thời đại của ông. Nó càng củng cố thêm cho cảm giác của tôi khi gặp ông trong giai đoạn cuối đời của ông rằng Phạm Xuân Ẩn là một trong những người ấn tượng nhất mà tôi từng gặp. Ông là con người của trí tuệ, lòng can đảm và tình yêu đất nước nồng nàn. Ông cũng là - mặc dù có vẻ thật trớ trêu khi nói ra điều này trong hoàn cảnh hiện nay - một con người của sự chính trực phi thường. Ông yêu chúng ta ở khía cạnh tốt đẹp nhất trong khi lại đối đầu với chúng ta ở khía cạnh tồi tệ nhất.” - Daniel Ellsberg, tác giả của Secrets: A Memoir of Vietnam and the Pentagon Papers (Những bí mật: hồi ức về Việt Nam và tài liệu mật của Lầu Năm Góc) “Thomas Bass kể một câu chuyện tuyệt vời về mưu mô[1], nghề gián điệp và tình bạn. Cuốn sách của ông được viết như thể nó đến từ những bến bờ xa xôi nhất của sự hư cấu, và hẳn tôi sẽ không bao giờ tin nổi lấy một từ nào nếu như chính tôi không gặp rất nhiều nhân vật trong đó và không biết câu chuyện để tin rằng nó có thực và không biết câu chuyện đó có thực hay không.” - H. D. S. Greenway, biên tập viên, The Boston Globe, và là phóng viên chiến tranh Việt Nam cho tạp chí Time và báo Washington Post “Mỗi cựu binh, mỗi học giả, mỗi sinh viên, bất kỳ ai từng sống qua cuộc chiến tranh Việt Nam đều được khuyên đọc cuốn sách này và suy ngẫm về thông điệp của nó. Trong cuốn tiểu sử rất sâu sắc và kích thích này về một trong những điệp viên thành công nhất trong lịch sử, Thomas Bass thách thức một vài giả định cơ bản nhất của chúng ta về những gì đã thực sự xảy ra ở Việt Nam và về ý nghĩa của nó đối với chúng ta trong hiện tại.” - John Laurence, phóng viên chiến tranh Việt Nam cho CBS News và là tác giả cuốn The Cat from Huế: A Vietnam War Story (Con mèo Huế: một câu chuyện chiến tranh Việt Nam). * Gã cảm thấy mình đang vĩnh viễn quay lưng lại với sự thanh thản. Mắt mở to, ý thức rõ hậu quả, gã đi vào lãnh địa của sự dối trá không mang theo tấm hộ chiếu cho ngày quay trở lại. GRAHAM GREENE Cốt lõi của vấn đề (The Heart of Matter) *** “Nước Mỹ chỉ giỏi tiến hành những cuộc thập tự chinh,” tướng David Petraeus viết trong luận án tiến sĩ của mình về đề tài “Quân đội Mỹ và những bài học từ chiến tranh Việt Nam”. Được đưa ra bảo vệ tại Đại học Princeton năm 1987, luận án của Petraeus công kích những gì đã trở thành quan niệm được giới nhà binh chấp nhận một cách rộng rãi về những bài học từ Việt Nam. Ông coi đây là một “lối suy nghĩ kiểu được ăn cả ngã về không”, mà chung quy là xuất phát từ học thuyết cho rằng nước Mỹ chỉ nên tiến hành những cuộc chiến tranh thông thường với sự ủng hộ áp đảo của một công chúng mang tinh thần thập tự chinh. Petraeus bác bỏ quan điểm “làm ăn như lối suy nghĩ bình thường” này. Thay vào đó, ông lập luận rằng nước Mỹ có nhiều khả năng là thấy mình sa vào những cuộc chiến tranh phi chính quy khác, đôi khi phải chống trả hai, ba, hay nhiều trận chiến kiểu Việt Nam. Sau này Petraeus tiếp tục biên soạn cẩm nang tác chiến cho lục quân về chống nổi dậy được ban hành ấn hành năm 2006. Năm sau, được trao cơ hội tiến hành công tác thực địa về chuyên ngành học thuật của mình, ông được bổ nhiệm vào vị trí tư lệnh lực lượng Mỹ tại Iraq. Chiến tranh không chỉ là những cuộc thập tự chinh; chúng còn là những cuộc dan díu của con tim. Chiến tranh được phát động vì tình yêu, điều này thì chúng ta đã biết từ thời nàng Helen của thành Troy[2] khiến cho cả nghìn chiến thuyền chở đầy những chàng trai mê mẩn sẵn sàng chết vì nàng xung trận. Nhà văn hài hước người Mỹ P. J. O’Rourke đã nhận ra chân lý này trong một bài tiểu luận ông viết về Việt Nam năm 1992. “Ở Huế, cứ chiều đến, những nữ sinh trung học trở về nhà sau khi tan học, từng đoàn nữ sinh đạp xe trên con phố, tất cả đều tha thướt trong những tà áo dài trắng tinh, một kiểu trang phục gồm áo dài may ôm sát người mặc trùm lên quần rộng. Không phải vô cớ mà những nhà thờ Công giáo còn lại gióng lên hồi chuông cầu kinh Đức Bà vào thời điểm này trong ngày. Tôi không hiểu ở một nơi mà cái đẹp đã trở nên quá đỗi bình dị như thế có thể thay đổi được bản chất của một xã hội hay không.” Sau khi trầm trồ trước “tỷ lệ khổng lồ những mỹ nhân ngư và giai nhân tuyệt sắc” ở cái đất nước Địa đàng này, O’Rourke viết: “Giờ thì tôi hiểu tại sao chúng ta lại can dự vào Việt Nam. Chúng ta đã phải lòng… [Chúng ta] đã ngây ngất bởi nơi này. Tất cả mọi người, từ những cố vấn đầu tiên mà Ike3 gửi tới đây năm 1955 cho đến Henry Kissinger ở bàn đàm phán hòa bình Paris, thảy đều mê mệt đến phát cuồng vì Việt Nam. Nó làm tan vỡ trái tim họ. Họ cứ tiếp tục đến thăm và gửi hoa mãi không thôi. Họ không thể tin nổi rằng đây là lần chia tay cuối cùng.” Trước khi bắt đầu câu chuyện của mình về Việt Nam và nước Mỹ (với đôi nét điểm qua về nước Pháp và những khu vực khác trên thế giới), tôi xin phép được nói rằng cuốn sách này nói về chiến tranh và tình yêu, về những bài học Việt Nam, tác chiến chống nổi dậy và những cuộc xung đột khác bị gọi là phi chính quy. Nó cũng nói về những điệp viên và phóng viên cùng sự lẫn lộn giữa hai nghề này. Một số người sẽ cho rằng các phóng viên góp phần làm cuộc chiến (của chúng ta) tại Việt Nam thất bại. Trong trường hợp này, tôi xin khẳng định rằng có một phóng viên đã góp phần mang đến chiến thắng trong cuộc chiến - cho phía người Việt. Cuốn sách phiền muộn này nói về thông tin và hỏa mù cùng sự mơ hồ không thể tránh khỏi trong việc xác định ranh giới nơi hai yếu tố này hòa nhập vào nhau. Cuốn sách không đưa ra thêm chân lý nào có thể được đúc rút thành những bài học mới về chiến tranh Việt Nam. Nó nói về cuộc sống đơn giản của một con người phức tạp. Sự thật nằm trong các chi tiết. Chúng ta hãy bắt đầu. ... Mời các bạn đón đọc Điệp Viên Yêu Chúng Ta: Chiến Tranh Việt Nam Và Trò Chơi Nguy Hiểm Của Phạm Xuân Ẩn của tác giả Thomas A. Bass.
Vượn Cáo - Benjamin Black
John Glass sống ở New York. Ông bỏ nghề báo để viết tiểu sử cho bố vợ mình là ngài Bill Mullholland, hay còn gọi là Bill lớn. Vốn là cựu nhân viên CIA, giờ Bill Lớn là trùm tư bản trong lĩnh vực truyền thông. Sáng sáng, John Glass đến làm việc tại văn phòng rộng lớn và sang trọng trong tòa nhà văn phòng Mullholland Tower; tối đến thì về nhà với người vợ giàu có và xuân sắc. Dù thỉnh thoảng có hoài nhớ về quãng đời trước, nhưng nói chung John Glass hài lòng với hiện tại.   Để hoàn thành cuốn tiểu sử, John Glass thuê một tay săn tin trẻ mà ông quen gọi là “Vượn Cáo” thu thập thông tin về người bố vợ. Từ lúc ấy cuộc sống dễ chịu của ông bị đe dọa. Sau đó, “Vượn Cáo” bị sát hại, ông quyết định đi tìm những gì hắn biết và thủ phạm giết hắn chỉ để đào xới thêm nhiều bí mật và cái chết bí ẩn khác. *** Người cung cấp thông tin là một chàng trai trẻ cao lêu đêu và gầy đét. Đầu hắn quá nhỏ so với khung xương, còn cục yết hầu to bằng trái banh gôn. Mắt kính hắn đeo không có gọng viền quanh và gần như vô hình, chỉ làm tăng thêm độ bóng cho đôi mắt đen, tròn, to tướng và hơi bị trố. Một túm râu màu vàng ngắn ngủn, cứng quèo mọc thẳng từ cằm hắn. Cặp lông mày cong, rất xa mắt lấm tấm sẹo mụn trứng cá cũ. Hắn có đôi bàn tay mảnh mai, trắng trẻo, các ngón dài búp măng hệt như tay con gái, hay ít nhất là giống những gì người ta ca ngợi về bàn tay của phụ nữ khuê các. Dù đang ngồi, đũng quần jeans thụng của hắn vẫn thõng xuống ngang đùi. Ngực áo phông màu cháo lòng không của ai ngoài hắn mang dòng chữ: “Đời bi đát tiễn ta về cõi âm”. Thoạt nhìn, hắn mới chỉ mười bảy nhưng John Glass đoán tên này chí ít cũng phải gần ba mươi, cổ dài, đầu nhỏ và cặp mắt tròn đen láy khiến hắn cực kỳ giống một loài gặm nhấm quý hiếm mà nhất thời Glass chưa nhớ ra là con gì. Tên hắn là Dylan Riley. Glass thầm mỉa mai: cái tên Dylan nghe quý phái gớm. Hắn nói: - Vậy ra ông là con rể của Bill Lớn? Hắn ngồi lọt thỏm trong chiếc ghế xoay bọc da đen trong văn phòng mà bố vợ Glass cho mượn nằm ở mé phía bắc của tòa nhà Mulholland Tower. Sau lưng hắn, bên kia bức tường kính trong suốt là một Manhattan ẩm ướt, ảm đạm dưới màn mưa phùn tháng tư. - Sao? Cậu thấy ngộ nghĩnh lắm ư? Glass vặn vẹo. Ông đặc biệt ghét loại người thích mặc áo phông in đủ thứ triết lý lên đó. Dylan Riley cười khẩy: - Ngộ nghĩnh gì đâu. Tôi chỉ ngạc nhiên thôi. Tôi thấy ông không giống người nhà Bill Lớn chút nào. Glass vờ như không nghe thấy gì. Hơi thở của ông bắt đầu nặng nề, thậm chí phát ra tiếng phì phò. Đó luôn là dấu hiệu cảnh báo sự căng thẳng đang gia tăng. Glass nhấn mạnh như muốn nhắc Riley phải lễ phép hơn: - Ngài Mulholland muốn tôi thu thập mọi dữ liệu và dùng chúng một cách đúng đắn nhất. Riley cười toe toét, gật lia lịa, xoay xoay trên ghế vẻ khoái chí: - Phải, nhất định dữ liệu phải đầy đủ rồi. Glass lạnh lùng nhắc lại: - Điều tiên quyết là phải đủ thông tin chính xác. Chính vì thế tôi mới thuê cậu. Glass đến bên chiếc bàn làm việc vuông vức bằng kim loại cỡ lớn kê trong góc phòng và thận trọng ngồi xuống ghế phía sau nó. Tư thế ngồi luôn giúp Glass bớt bấn loạn. Phòng ông ở tầng ba mươi chín. Trông đợi ông làm ăn được gì ở độ cao như vậy quả là ngớ ngẩn. Hôm đầu tiên vào phòng này, Glass sợ sệt nhích từng chút đến sát tường kính ngó xuống. Dưới chân ông chừng hai tầng nhà, những cụm mây trắng xốp trông như tảng băng lững thững trôi ngang qua, che khuất thành phố phía dưới. Giờ ông bíu hai tay lên mặt bàn trước mặt như người sắp chết đuối cố bám mép chiếc bè nan. Glass thèm thuốc không thể tả. Dylan Riley xoay chiếc ghế quanh bàn. Chắc chắn hắn biết ông chóng mặt, buồn nôn cỡ nào khi ngồi trong cái lồng kính làm bằng thép và thủy tinh ngất ngưởng giữa lưng chừng trời như thế này. Bàn tay Glass vuốt thành hình vòng cung trên mặt bàn, như thể muốn gạt vật gì đó vô hình xuống đất. Động tác ấy khiến ông nhớ đến cái cảnh Tổng thống Richard Nixon khổ sở, toát mồ hôi hột trong một bản tin chiều phát mấy năm trước, cố phân bua rằng mình không phải kẻ dối trá. Trong thời kỳ dân chúng hoang mang vì chứng kiến quá nhiều cáo buộc lẫn nhau ấy, ánh sáng ở trường quay quá gắt khiến ai trông cũng giống nhân vật phản diện trong bộ phim dùng hệ màu Eastmancolor giai đoạn đầu. ... Mời các bạn đón đọc Vượn Cáo của tác giả Benjamin Black.
Truyện Ngắn Trinh Thám
Tập Truyện Ngắn Trinh Thám này gồm có: Kẻ đội lốt Hai chàng thợ săn và một cô gái Chiếc hộp bí mật Không có cánh bay Bà góa Ephese Nhân chứng có ba bộ mặt Cây cầu bằng thủy tinh Một vạn đô-la Được ăn cả, ngã về không Tiếng còi trong sương đêm Không thương tiếc Hai cái chết *** Bốn giờ sáng, hai viên cảnh sát mặc đồng phục áp giải hắn vào văn phòng của nhà giam trung tâm. Ở đây, người ta kiểm tra người hắn, tịch thu mọi đồ dùng cá nhân của hắn, trừ gói thuốc lá, chiếc khăn tay và đưa cho hắn một tờ giấy biên nhận. Sau đó người ta lấy dấu vân tay của hắn và dán vào khẩu súng lục mà người ta tìm thấy trong người hắn một mẩu giấy có chữ “vật chứng”. Viên đội trưởng hỏi tên họ và hắn trả lời mình là George Carter. Với những câu hỏi tiếp theo như tiền án, tiền sự... thì hắn trả lời là không. Cảnh sát còn hỏi trên một chục câu hỏi khác rồi ghi vào sổ nói rõ hắn bị bắt về tội ăn cướp trong tay có vũ khí. Cuối cùng người ta giam hắn trong một xà lim chưa có người. Khi còn lại một mình, việc làm đầu tiên của hắn là châm một điếu thuốc lá rồi nằm dài trên một trong bốn chiếc nệm. Rủi ro làm sao! Hắn cay đắng nghĩ. Số phận mới đen đủi làm sao! Hai tiếng đồng hồ trước đây, theo một kế hoạch đã lập ra một cách tỉ mỉ trong một tuần lễ liền, hắn đã đột nhập vào một quán rượu ở giữa thành phố trước giờ đóng cửa để ăn cướp. Hắn đợi cho chủ quán đóng cửa hàng trong khi hắn vẫn ở trong nơi ẩn nấp, sau đó hắn nhốt ông chủ khốn khổ vào trong toa-lét còn hắn thì đi lục lọi trong quán. Kết quả thật là bất ngờ: hai hoặc ba ngàn đô-la trong két sắt ở văn phòng. Trước khi tẩu thoát, hắn còn nhặt thêm bốn chai úych-ky hảo hạng thêm vào món chiến lợi phẩm ấy. Cho đến lúc ấy, mọi việc diễn ra êm đẹp. Hắn đã nghĩ đến những cuộc đi nghỉ thú vị mà hắn có thể thực hiện được bằng cách tính toán lưng vốn của mình: khoảng trên một ngàn năm trăm đô-la để dành đặt ở một nơi an toàn. Tổng cộng là năm ngàn đô-la đủ để nghỉ ở Mê-hi-cô ba hoặc bốn tháng, nếu hắn không hoang phí. Nhưng hắn sẽ không làm như vậy vì hắn không phải là kẻ không biết sử dụng tiền bạc. Một căn hộ khiêm tốn ở thành phố, một tủ quần áo hiện đại và về mặt giải trí, buổi chiều hắn sẽ đi dạo, nói chuyện về các cuộc chơi bóng pơ-lốt, các cuộc đua chó và đi uống một cốc vào buổi tối; dự những trận đầu bò tót vào ngày Chủ nhật ở Acapulco; thỉnh thoảng cho các cô thu tiền hoặc các cô phục vụ xinh đẹp một khoản tiền boa hào phóng... Đó là tất cả. Những nhu cầu của hắn rất đơn giản, không tốn kém, giống như những người làm công có thu nhập ở mức trung bình trong mỗi kỳ đi nghỉ. Tuy nhiên có sự khác nhau giữa hắn và người những ấy, vì người ăn lương phải tiết kiệm cả một năm trời để đi nghỉ, còn hắn, hắn chỉ cần ba hoặc bốn phi vụ trong một năm, mỗi phi vụ chỉ cần bốn năm phút đồng hồ thôi. Và hai ba năm nay mọi việc đều diễn ra một cách trôi chảy. Nhưng bây giờ tất cả đã kết thúc - hắn nghĩ. Chuyện đó diễn ra một cách khá bất ngờ: khi hắn ra khỏi kho rượu thì va phải người em trai chủ quán đánh xe đến để đón anh về. Nếu cuộc đụng độ ấy không quá đột ngột, nếu trong một hoàn cảnh khác, hắn chỉ cần hạ gục người đàn ông ấy rồi lủi cho nhanh. Nhưng tình hình lại không phải như vậy vì người em chủ quán lại là một cảnh sát trong đội chống nạn mại dâm, tuy không phải đang trong giờ làm việc nhưng anh ta vẫn còn đeo súng bên người. Rất vô ích mà nói rằng viên cảnh sát không nghi ngờ gì khi thấy hắn với hai chiếc túi căng phồng và bốn chai rượu trên tay tuy đèn lúc này chỉ lờ mờ sáng. Anh ta chỉ giơ súng lên và thế là George bị tóm gọn. Đúng hai tiếng đồng hồ sau đó, George bị kết tội ăn cướp có vũ khí và bị tống giam. Việc khai tên giả của hắn cũng sẽ chẳng kết quả gì vì sau đây bốn mươi tám tiếng nữa, với những dấu vân tay, FBI sẽ biết rõ cái tên George Carter mà hắn đã khai là giả mạo mà chính George Maxwell mới là tên thật của hắn. Mà George Maxwell đã bị ngồi tù hai lần vì tội trộm cướp: lần đầu, hai năm vì tội ăn cắp, thời ấy hắn mới vào nghề, và lần thứ hai, năm năm vì tội ăn cướp có vũ khí, việc này xảy ra cách đây ba năm. Như vậy hắn được tự do mới có ba mươi sáu tháng. Lần này, với những tiền án ấy, chắc chắn án hai mươi năm tù sẽ treo trước mũi hắn. Năm nay ba mươi nhăm tuổi... Hai mươi năm ngồi bóc lịch, thế là kết thúc cuộc đời... Thật là đen đủi - hắn lại nghĩ với tiếng thở dài não nề khi thấy giấc mộng đi nghỉ ở Mê-hi-cô đã tan thành mây khói. Hắn ném điếu thuốc đi để mặc nó tiếp tục cháy. Sau đó, quay mặt vào tường, nghĩ đến tương lai ảm đạm của mình. ... Mời các bạn đón đọc Truyện Ngắn Trinh Thám.
Phái Viên Mật - Graham Greene
Đây không phải là cuốn trinh thám dạng "giải trí", không gay cấn, hồi hộp...mà nặng nề, ám ảnh, day dứt, phiền muộn. *** Graham Henry Greene (2 tháng 10, 1904 - 3 tháng 4, 1991) là tiểu thuyết gia người Anh. Ông sinh tại Berkhamsted, Hertfordshire, Anh quốc, là con của một hiệu trưởng, và theo học Đại học Oxford. Ông làm việc cho tờ báo London Times trong giai đoạn 1926-1929 (từng làm tổng biên tập) rồi hành nghề ký giả tự do. Năm 1935, ông nhận chân điểm phim cho tờ Spectator, và đến 1940 nhận chân chủ bút văn học. Trong thời gian 1942-1943, ông phục vụ Bộ Ngoại giao Anh ở miền đông châu Phi. Sau Thế chiến thứ Hai (1939-1945), ông đi đến nhiều nơi. Ông viết nhiều, là một trong các tác giả tiêu biểu của văn học Anh thế kỷ XX. Tác phẩm đầu của ông được xuất bản năm 1925. Graham Greene khởi đầu sự nghiệp văn chương với những sách thuộc loại “giải trí” vì thuộc thể loại hành động, như truyện gián điệp. Dần dà, ông mới chuyển qua thể loại “tiểu thuyết,” nổi tiếng nhất là The quiet American (Người Mỹ trầm lặng - 1955), gần đây được dựng thành phim hợp tác với điện ảnh Việt Nam (15 tiểu thuyết của ông đã được dựng thành phim). Ông cũng viết một kịch bản dành riêng cho phim truyện, và một số tác phẩm cho trẻ em. Graham Greene có xu hướng viết về những đấu tranh tâm linh trong một thế giới đang mục rữa. Tác phẩm của ông có đặc tính đi vào chi tiết sống động, và lấy bối cảnh đa dạng ở nhiều nơi (Mexico, châu Phi, Haiti, Việt Nam), miêu tả nhiều nhân vật sống dưới những áp lực khác nhau về xã hội, chính trị hoặc tâm lý. Tác phẩm cuối cùng, A world of my own: A dream diary (1994), được viết trong những tháng cuối cùng trong cuộc đời của tác giả, có tính nửa hư cấu nửa tự thuật dựa trên 800 trang tác giả ghi lại qua 24 năm.   Mời các bạn đón đọc Phái Viên Mật của tác giả Graham Greene.