Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Kỹ Năng Làm Cha Mẹ (Phạm Thị Thúy)

Người xưa có câu “Dạy con từ thuở còn thơ”; các nhà tâm lý hiện đại cũng cho rằng “Nếu con sinh ra đến ngày thứ ba cha mẹ mới dạy là đã muộn mất hai ngày”. Thực vậy, ngay khi rời khỏi bụng mẹ là em bé đã hòa nhịp cuộc sống cùng xã hội. Nếu các loài thú chỉ cần thức ăn thì con người còn cần ở cha mẹ cả tình yêu thương với sự hiểu biết và trách nhiệm. Trách nhiệm và tình cảm với con thì cha mẹ nào cũng có, nhưng thể hiện thế nào là vấn đề cần được nghiên cứu, làm sáng tỏ, chuẩn hóa và phổ biến.

Việc đứa trẻ ngoan, hư, tự tin, nhút nhát… trong tính cách, đẹp xấu trong hình thể không phải do trời định mà do sự tác động và dạy dỗ ngay từ khi bắt đầu phôi thai hình thành nên đứa trẻ.

Làm cha mẹ là một thiên chức thiêng liêng; trang bị kiến thức để nuôi dưỡng và dạy dỗ con cái nên người luôn là sự trăn trở của các bậc cha mẹ, vì thế, cuốn sách này góp phần trang bị một số kỹ năng thiết yếu trên bước đường làm cha mẹ, giúp cha mẹ thực hiện tốt nhất vai trò của mình.

Một bác sĩ chuyên khoa nhi nổi tiếng mát tay, nhận được lá thư của một bà mẹ trẻ, hỏi rất thật lòng: “Bác sĩ ơi, tôi được biết sữa mẹ rất tốt cho trẻ nhỏ. Con tôi lười ăn, khó uống sữa, chỉ thích bú ti mẹ. Cháu bú mẹ nay đã 2 tuổi, tôi muốn cho cháu bú mẹ lên đến 3 tuổi, như vậy có phù hợp không? Tôi nên theo chế độ dinh dưỡng nào để có sữa đủ cho cháu bú?”.

Vị bác sĩ trả lời cũng rõ ràng, dễ hiểu: “Sữa mẹ chỉ thực sự tốt nhất từ 0 đến 6 tháng, nhiều nhất là một năm đầu đời. Sau đó, các chất dinh dưỡng không còn đủ cho bé. Ngược lại, nếu nuôi bé bằng sữa mẹ đến năm 3 tuổi, bé không những không cải thiện được hành vi ăn uống, mà tệ hơn nữa, sẽ dẫn đến suy dinh dưỡng. Trong trường hợp này, mẹ cần cố gắng tập thói quen ăn dặm cho trẻ, tìm cách cho trẻ hào hứng với bữa ăn, chứ không thể thay thế sữa mẹ cho đến năm bé 3 tuổi! Vì như thế, chắc chắn mẹ và bé sẽ ‘ghiền nhau’, mẹ đi làm không đặng, con đi học không đừng!”. Tìm mua: Kỹ Năng Làm Cha Mẹ TiKi Lazada Shopee

Qua một chuyện bú mớm, chợt nghĩ, hình như các bà mẹ bây giờ đang chuyển từ thái cực này sang thái cực khác! Cách đây vài năm, rộ lên chuyện chị em cấm tiệt con bú mớm, rủ nhau sinh mổ để khỏi đau đẻ, cho con bú bình tuyệt đối để khỏi xệ ngực, thì nay lại chuyển sang mê đẻ, mê cho con bú, mê tự tay chăm sóc con và mê mẩn vai làm mẹ của mình.

Một mẹ trẻ 25 tuổi, sinh con lần đầu tiên, trong một tuần sau khi đẻ đã thay lần lượt ba người giúp việc! Đến bà ngoại đứa bé dù rất thương con, thương cháu cũng ngậm ngùi ra về, vì chịu không nổi tính khí kỹ lưỡng quá sức của cô con gái. Bà mẹ này đã ẵm tám đứa con, nhưng không thể ẵm đứa cháu ngoại cho vừa ý cô con gái út. Nào là ẵm cháu phải ẵm theo góc nghiêng 30 độ, cho bú sữa bình cũng phải canh cho góc nghiêng 45 độ, thay tã phải vuông góc các bề mặt với nhau, quần áo bé phải giặt tay bằng xà bông cục, không giặt bằng xà bông giặt, dị ứng da của bé… Bà mẹ trẻ này, có thể đã đọc hàng chục cuốn sách về kỹ năng chăm sóc em bé của hàng chục nhà xuất bản khác nhau, nhưng có lẽ chưa biết được kiến thức này: muốn làm cho con hạnh phúc, hãy làm cho mình hạnh phúc! Vì niềm hạnh phúc và tươi vui của mẹ sẽ lan tỏa đến đứa nhỏ, sẽ khiến đứa nhỏ cảm nhận được tinh thần trong trẻo, hài hòa, thoải mái của từng tế bào đang nâng niu nó! Điều đó khác biệt với một bà mẹ chăm chăm tìm bới những lỗi to lỗi nhỏ trong quá trình chăm sóc con mình, làm cho không khí gia đình căng thẳng, ngột ngạt, và hậu quả cuối cùng là chỉ còn hai mẹ con tự chăm sóc lẫn nhau!

Câu cửa miệng dễ dàng nghe ở nhiều cuộc vui: “Hy sinh đời bố, củng cố đời con”. “Đời bố”, cũng có thể hiểu là đời mẹ, đời cha mẹ. Nhiều người mẹ chấp nhận một cuộc sống mình không mong muốn, chỉ để con mình có đủ cha đủ mẹ, dù những đứa trẻ trong gia đình thì ước gì cha mẹ nó… chia tay! Bởi tiếng bấc tiếng chì, những lần dằn mâm ném chén, những ngày tháng chiến tranh lạnh lẽo trong thứ tiếng súng đạn câm lặng, biến những đứa trẻ thành những viên đá khô cứng, tự giãy giụa với bóng mình hằng đêm với khao khát được “làm trẻ thơ” trong thân hình bé thơ còm cõi. Nhiều người cha ra ngoài với những nhân tình ướt át thú vị để chạy trốn người vợ đã chai lì cảm giác yêu đương, những buổi tối trở về nhà đóng vai “cha” gượng gạo, dù gì, có còn hơn không!

Những người mẹ, trong thời đại nam nữ mất lòng tin lẫn nhau quá nhiều, bởi các trang báo mạng hàng ngày tố chồng ăn chả vợ ăn nem, liền chuyển tình yêu và mối quan tâm của mình sang con cái. Uống thứ sữa tốt nhất, học ở trường “đỉnh nhất”, chơi đồ chơi xịn nhất. Trẻ chưa tới 4 tuổi, mẹ đã bắt đầu tìm thầy cho học chữ, tay trẻ còn non nớt cũng cố gò cho tròn nét, rồi trầy trật con khóc mẹ rầu, liền lên facebook than thở: “Dạy con học chữ, sao khổ quá đi!”. Thay vì sợ con thua thiệt bạn bè khi chưa biết chữ ở tuổi lên 4, mẹ có thể cùng con chơi thả diều, đọc sách cho con nghe, chơi tô màu, chơi đố chữ. Mẹ cũng không nhất thiết phải bằng mọi giá chạy vạy cho con được học trường tốt nhất để “giải quyết khâu oai”, chỉ cần tìm trường đủ gần nhà để con đi học không phải hít khói bụi, không bị nhiễm lạnh vì phơi sương sớm. Mẹ cũng không cần gồng mình lên để mua những đồ chơi tính bằng tiền triệu, trong thời buổi vật giá leo thang, để chứng minh con cái là số một của mình.

Có câu chuyện, một bà mẹ hiện đại có một cậu con trai hiện đại, năm nay chàng ta tròn 18 tuổi. Một hôm, chàng ta hẹn với một người phụ nữ ngoài ba mươi trong một quán cà phê dễ thương để bàn chuyện công việc. Cuộc trò chuyện đang hồi gay cấn, thì điện thoại của cậu vang lên, và màn hình nhấp nháy dòng chữ “sư tử nhà”! Cậu lặng lẽ bấm điện thoại nghe với giọng nói cực kỳ từ tốn: “Dạ con nghe mẹ!”. Không rõ từ trong điện thoại phát ra những thứ tiếng gì, chỉ thấy chàng ta nhăn mặt, đưa điện thoại ra xa. Sau cùng, chàng nói: “Mẹ muốn con về nhà, mang bỉm và đi loanh quanh trong sân thôi sao?”, nói rồi, chàng cúp máy. Một phút sau, điện thoại của chàng tiếp tục kêu lên. Lần này, người mẹ muốn gặp người phụ nữ đi với chàng. Bà nói: “Em ơi, chị cảm ơn em trước, chị nhờ em giúp chuyện này: từ giờ về sau, em để yên cho thằng con chị học hành, năm nay nó thi cuối cấp, nó không rảnh để làm mấy chuyện tào lao đâu em!”. Người phụ nữ cũng im lặng nghe, rồi dạ. Khi cuộc điện thoại chấm dứt, chàng trai 18 tuổi ngại ngùng nói với người phụ nữ đi cùng: “Con xin lỗi cô, mẹ con là người biết làm mọi thứ, chỉ có hai thứ không làm được, đó là làm thinh và làm biếng!”.

Làm cha mẹ là công việc dài nhất của một đời người, một công việc mà bạn không thể xin nghỉ việc, không thể mua bảo hiểm, không thể từ chối, càng không thể bị sa thải. Chúng gắn chặt vào bạn, nhiều khó khăn, đầy thử thách, nhiều vinh dự, đầy hạnh phúc. Nhưng điều đó không có nghĩa là bạn sống cả đời chỉ với vai trò làm cha, hay làm mẹ. Bạn có nhiều vai trò khác và đừng từ chối sống tử tế với bản thân mình. Và nếu có thể, hãy cho phép mình thêm một vai trò: là bạn của con. Vì từ tình bạn, sẽ có một mối quan hệ cộng sinh đầy bình đẳng: mẹ chăm sóc con, và con chăm sóc mẹ; mẹ yêu thương con, và con yêu thương mẹ. Mẹ rửa chén, con quét nhà, dù cây chổi của con bé tí xíu chẳng quét được bao nhiêu, nhưng hãy cho con được bình đẳng trong mối quan hệ cộng sinh với cha mẹ mình. Bạn là người sinh ra con, nhưng cũng có thể tìm được tình bạn đích thực nơi ấy. Vì sao ư? Đơn giản vì chia sẻ với người bạn, dù sao, cũng dễ dàng hơn!

“Nếu nói vận mệnh của một quốc gia nằm trong tay những nhà cầm quyền, chi bằng hãy nói rằng, nó nằm trong tay của những người mẹ. Vì vậy, chúng ta cần phải nỗ lực, khuyến khích các bà mẹ - những nhà giáo dục của nhân loại.”

- Nhà triết học Friedrich Engels

Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Kỹ Năng Làm Cha Mẹ PDF của tác giả Phạm Thị Thúy nếu chưa có điều kiện.

Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.

Nguồn: thuviensach.vn

Đọc Sách

Sự An Ủi Của Triết Học (Ngô Thu Hương)
Mấy năm trước, vào một mùa đông New York lạnh buốt, có một chiều rảnh rỗi trước khi bay đi London, tôi lang thang trong một phòng tranh vắng vẻ nằm ở tầng trên của Bảo tàng Nghệ thuật Metropolitan. Căn phòng sáng trưng và ngoài tiếng kêu ro ro của hệ thống sưởi dưới sàn thì nó hoàn toàn yên tĩnh. Sau khi đã chán những bức họa trong các bộ sưu tập trường phái Ấn tượng, tôi đi tìm quán cà phê với hy vọng sẽ được uống một cốc sữa sô cô la kiểu Mỹ mà thời đó tôi cực kỳ thích. Đúng lúc ấy, tôi bắt gặp một bức tranh sơn dầu, phần chú thích ghi nó được vẽ tại Paris mùa thu năm 1786 bởi họa sĩ 83 tuổi Jacques-Louis David. Socrates, sau khi bị dân chúng Athens kết án tử hình, đang chuẩn bị cầm cốc thuốc độc, vây quanh ông là những người bạn đang đau khổ. Mùa xuân năm 399 trước Công nguyên, ba công dân Athens đã khởi kiện dân sự chống lại nhà triết học này. Họ buộc tội ông không tôn thờ các vị thần của thành quốc, truyền bá những tôn giáo mới và làm hư hỏng thanh niên Athens - và với những tội nghiêm trọng như vậy, họ yêu cầu kết án tử hình. Socrates đáp lại với sự thanh thản đã trở thành huyền thoại. Mặc dù được cho cơ hội để từ bỏ triết lý của mình tại tòa, ông đã kiên định với điều mình tin là đúng hơn những điều mà ông biết là phổ biến. Theo Plato, Socrates đã ngạo nghễ nói với bồi thẩm đoàn: Tìm mua: Sự An Ủi Của Triết Học TiKi Lazada Shopee Miễn là tôi còn thở và còn khả năng, tôi sẽ không bao giờ ngừng thực hành triết học, khuyến khích các vị và làm sáng tỏ sự thật cho tất cả những người tôi gặp... Và thưa các quý ông... dù các vị có tuyên bố tôi trắng án hay không thì các vị cũng biết rằng tôi sẽ không thay đổi những gì tôi làm, kể cả khi tôi có phải chết cả trăm lần. Và như thế, Socrates bị đưa đến một nhà tù của Athens, cái chết của ông đánh dấu một bước ngoặt trong lịch sử triết học. Một dấu hiệu cho thấy tầm quan trọng của nó có lẽ là mức độ thường xuyên mà nó xuất hiện trong hội họa. Năm 1650, họa sĩ Pháp Charles-Alphonse Dufresnoy vẽ bức Cái chết của Socrates, hiện được trưng bày tại Galleria Palatina ở Florence (phòng tranh này thì không có quán cà phê). Thế kỷ 18 là thời kỳ đỉnh cao của mối quan tâm đối với cái chết của Socrates, nhất là khi Diderot thu hút sự chú ý đến tiềm năng hội họa của nó trong một đoạn của tác phẩm Luận thuyết về Kịch thơ của mình. Jacques-Louis David nhận vẽ bức tranh vào mùa xuân năm 1786 theo đặt hàng của Charles-Michel Trudaine de la Sablière, một Nghị viên giàu có và là một học giả Hy Lạp tài năng. Tiền công rất hào phóng, với 6.000 livre tạm ứng và 3.000 livre thanh toán khi giao tranh (Louis XVI trả có 6.000 livre cho bức tranh lớn hơn Lời thề của Horatii). Khi được trưng bày tại cuộc triển lãm tranh thường niên năm 1787, nó lập tức được đánh giá là bức tranh đẹp nhất về cái chết của Socrates. Đức ông Joshua Reynolds cho rằng đó là “tác phẩm nghệ thuật tinh tế và đáng ngưỡng mộ nhất từng xuất hiện kể từ Capella Sistina*, và Stanza của Raphael. Bức tranh này có thể làm rạng danh Athens trong thời đại Pericles.” Tôi mua năm tấm bưu thiếp có tranh của David trong khu bán đồ lưu niệm của bảo tàng và sau đó, khi máy bay bay ngang qua những cánh đồng đóng băng của Newfoundland (có màu xanh nhạt khi trăng tròn và trời trong), tôi giở một tấm bưu thiếp ra xem trong khi ăn bữa tối nhạt nhẽo mà cô tiếp viên đặt trên bàn khi tưởng tôi đang ngủ. Plato ngồi ở chân giường với chiếc bút và cuộn giấy bên cạnh, một nhân chứng lặng lẽ cho sự bất công của nhà nước. Khi Socrates chết thì Plato mới 29 tuổi nhưng David biến ông thành một ông già với mái tóc bạc và vẻ nghiêm nghị. Trên lối đi, vợ của Socrates là Xanthippe đang được cai ngục đưa vào phòng giam. Bảy người bạn với những biểu hiện đau khổ khác nhau. Crito, người bạn thân thiết nhất của Socrates, ngồi cạnh ông, ngước nhìn thầy với sự tôn kính và lo lắng. Nhưng nhà triết học với dáng ngồi thẳng, thân thể và cơ bắp của một vận động viên, không biểu hiện bất kỳ sự sợ hãi hay hối tiếc nào. Việc rất nhiều người Athens cho rằng ông là kẻ ngu ngốc không làm lay chuyển niềm tin của Socrates. David định vẽ Socrates đang uống thuốc độc nhưng nhà thơ André Chenier gợi ý rằng bức tranh sẽ kịch tính hơn nhiều nếu Socrates được thể hiện ở động tác đang kết thúc một luận điểm triết học trong khi bình thản đưa tay cầm cốc thuốc độc sẽ kết liễu cuộc đời mình, điều này vừa thể hiện sự tuân thủ của ông đối với luật pháp Athens, vừa thể hiện lòng trung thành với niềm tin của mình. Chúng ta đang chứng kiến những khoảnh khắc đầy tính khai trí cuối cùng của một con người siêu việt. Tấm bưu thiếp để lại cho tôi ấn tượng mạnh như vậy có lẽ vì cái thái độ mà nó mô tả trái ngược hoàn toàn với tôi. Khi trò chuyện, tôi ưu tiên việc được người khác yêu mến hơn là nói sự thật. Mong muốn làm hài lòng người khác khiến tôi cười trước những câu đùa bình thường giống như các bậc cha mẹ khi xem buổi diễn mở màn vở kịch ở trường học của bọn trẻ. Với người lạ, tôi cư xử theo cách mà nhân viên tiếp tân chào những vị khách giàu có trong khách sạn - sự nhiệt tình đầu môi xuất phát từ mong muốn bừa bãi, bệnh hoạn được yêu mến. Tôi không công khai nghi ngờ những tư tưởng mà số đông tin theo. Tôi muốn được những nhân vật quyền lực chấp nhận, và rất lâu sau khi gặp họ, tôi vẫn lo lắng không biết họ có thấy chấp nhận được tôi hay không. Khi đi qua cửa hải quan hay lái xe bên cạnh xe cảnh sát, tôi có mong muốn kỳ cục là được những nhân viên mặc đồng phục nghĩ tốt về mình.Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Sự An Ủi Của Triết Học PDF của tác giả Ngô Thu Hương nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Siêu Lý Tình Yêu (Phạm Vĩnh Cư)
Giới thiệu Soloviev chỉ ra 5 loại quan hệ nam nữ với loại quan hệ nam nữ có tình yêu gắn với lý tưởng hóa đối tượng yêu, làm chúng ta khi yêu mang bản nguyên thần thánh. Tình yêu nam - nữ tuyệt đích sẽ bất tử hóa tất cả bởi tình yêu chuyên trở sự sống vĩnh cửu cho cái mình yêu, tái sinh vĩnh viễn trong cái đẹp. Đó là luận điểm về tình yêu qua các tác phẩm trứ danh: Siêu lý tình yêu (1892-1893), Chiến tranh và hòa bình, Biện minh cái thiện của Vladimir Soloviev, người nhà văn, đại triết gia Nga - người đặt nền móng cho Triết học Tình yêu châu Âu. Quan điểm hoàn chỉnh về Tình yêu nam nữ Soloviev phê phán, hoàn chỉnh các ý tưởng, quan điểm về tình yêu của nhiều nhà tư tưởng lớn tại nhiều thời đại khác nhau của nhân loại từ Platon đến LevTolstoy, đến Schopenhauer… Mặc dù tình yêu là một hiện tượng to lớn, phức tạp trong cuộc sống con người, đề tài của nhiều người, nhiều giới (văn học, nghệ thuật, tâm lý, triết học…) nhưng ông đã xây dựng được và cung cấp cho chúng ta một nền tảng nhận thức đặc sắc về tình yêu nam - nữ. Các quan điểm chính về tình yêu nam nữ của Soloviev Ông đề cao tính cao đẹp của tình yêu nam nữ không coi đó là ảo giác che đậy nhục dục, một trò chơi của tự nhiên, là ác quỷ đen tối nô dịch loài người, là một dạng tồn tại trong khổ đau và cái chết hay duy đạo đức quá như coi tình yêu là phải lấy tình yêu nhân loại làm trọng, phải khổ hạnh/vị tha… như tư tưởng của triết gia Schopenhauer, Tolstoy hay một số tôn giáo. Tìm mua: Siêu Lý Tình Yêu TiKi Lazada Shopee Tình yêu là bước chuyển phôi mầm tiềm năng mới nhú của con người giống như đặc tính trí tuệ là phôi mầm của động vật. Tình yêu còn có sứ mệnh xa hơn, dài hơn mà cái chân chính là chiến thắng đến cùng chủ nghĩa cá nhân, gia tăng giá trị vô tận cho con người, nhân tính phân chia nam - nữ, hữu hạn, hữu tử thành cá thể duy nhất lưỡng tính, tuyệt đối, bất tử. Ông cũng không coi hôn nhân hợp pháp, sinh đẻ và nuôi dưỡng con cái là sứ mệnh đích thực của tình yêu say đắm nam - nữ. Theo ông, vai trò của gia đình, tình thương yêu con cái, vai trò gia đình, chuẩn mực nề nếp quan hệ là đảm bảo sự tồn tại giống loài, xã hội loài người… nhằm duy trì thế giới vật chất và làm cho xã hội vận hành tốt. Tình yêu có sứ mệnh không phải là ở thực tế vật chất đó mà sứ mệnh là dẫn dắt con người từ thế giới đó (phi lý tưởng) bước sang thế giới lý tưởng hay cải hóa thế giới phi lý tưởng thành thế giới lý tưởng. Tình yêu đi đôi với lý tưởng hóa đối tượng yêu, sùng bái hâm mộ người yêu và làm xuất hiện “phép lạ, hào quang” quanh người yêu như nhìn thấy chân lý về con người - hình ảnh môi giới giữa Thượng đế thần thánh và thế giới. Tình yêu là phương tiện cho sự nhập thân đến cùng, đến đích trong đời sống cá thể của con người. Đó là cuộc sống có hơi ấm của hạnh phúc siêu phàm, thiên đường của tình thương, trái tim ngự trị, lạc thú của con người và thần linh. Qua tình yêu, người yêu tuyệt đối hóa người ta yêu làm cho hoàn hảo, trọn vẹn, vô bờ vô hạn và qua đó chính bản thân mình. Tình yêu đòi hỏi bất tử của con người cả tinh thần lẫn thể xác. Thân phận hữu tử hiện nay và cái chết là hệ quả tất yếu của cuộc sống bất toàn và trống rỗng của con người trong thực tại. Ông đề cao tình yêu nam nữ hơn mọi dạng tình yêu khác bởi nó khẳng định và làm giàu vô tận giá trị của từng cá thể con người - trong tiềm năng nó dẫn con người tới sự bất tử. Nó vừa là kết quả của tiến trình lịch sử của chủng loài hữu hạn vừa là bản chất nhân văn của người gắn với giá trị tuyệt đối, vĩnh hằng của Thượng Đế. Đó chính là niềm tin khao khát của ông về tất cả sinh linh con người đã, đang và sẽ sống có thể bất tử thông qua tình yêu chân chính, trong Thượng đế hay cõi niết bàn… với “bầu trời mới, trái đất mới” ở vương quốc của những tinh thần vĩnh hằng. Soloviev xác định có 5 kiểu biểu hiện của quan hệ nam nữ trong đời sống nhân loại, trong đó có 3 cấp độ 3, 4, 5 là biểu hiện của tình yêu. Triết học tình yêu của Soloviev là ở hướng tới tình yêu ở cấp độ 5 - tình yêu chân chính phục vụ cơ đồ tái sinh loài người khổ đau, hữu tử thành Thần - Nhân loại bất tử. Khi tình yêu được đồng hóa ở mức tinh thần thì sẽ khơi dậy tiềm năng vô biên tính người của con người.Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Siêu Lý Tình Yêu PDF của tác giả Phạm Vĩnh Cư nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Một Nghiên Cứu Về Các Nguyên Tắc Nhận Thức Của Con Người (George Berkeley)
Lời người dịch George Berkeley (1685-1753) là triết gia duy nghiệm kiệt xuất người Ireland, một trong những gương mặt quan trọng nhất của nền triết học Tây phương hiện đại thời kì đầu. Lập trường triết học của Berkeley là duy tâm thường nghiệm (empirical idealism), được thể hiện trong câu cách ngôn nổi tiếng “esse est percipi” (tồn tại là được tri giác). Đối với ông, không có gì hiện hữu ngoại trừ các ý niệm và các tinh thần; các ý niệm là cái được tri giác, còn tinh thần (mind hay spirit)1 là cái tri giác những cái được tri giác. Các công trình của Berkeley trải rộng trên các lĩnh vực khoa học, triết học và thần học; riêng trong lĩnh vực triết học thì Một nghiên cứu về các nguyên tắc nhận thức của con người (1710) và Ba cuộc đối thoại giữa Hylas và Philonous (1713) là hai công trình được biết đến nhiều nhất. Vài nét tiểu sử và sự nghiệp của Berkeley Berkeley chào đời vào ngày 12 tháng Ba năm 1685 ở Hạt Kilkenny, Ireland. Năm 11 tuổi, ông vào học trường Kilkenny ở Dublin. Năm 15 tuổi, ông bước chân vào Học viện Ba ngôi (Trinity College), cũng ở Dubin. Berkeley lấy bằng cử nhân tại đây vào năm 1704, đến năm 1707 lấy bằng Thạc sĩ và được tuyển làm giảng viên (Junior Fellow) của học viện này. Tìm mua: Một Nghiên Cứu Về Các Nguyên Tắc Nhận Thức Của Con Người TiKi Lazada Shopee Năm 1709, Berkeley được thụ phong chức chấp sự (deacon) trong giáo phái Anh và xuất bản công trình chính đầu tiên của mình Thử hướng đến một lí thuyết mới về cái nhìn. Trong công trình này, Berkeley bàn về những giới hạn của cái nhìn của con người và đưa ra quan niệm rằng đối tượng thực sự của thị giác không phải là các đối tượng vật chất mà là ánh sáng và màu sắc. Những luận điểm được nêu ra trong công trình này báo hiệu sự ra đời của các công trình triết học quan trọng nhất của ông. Vào năm 1710, khi chỉ mới 25 tuổi, Berkeley xuất bản công trình triết học Một nghiên cứu về các nguyên tắc nhận thức của con người - Phần I, từ đây chúng tôi sẽ nói gọn là Các nguyên tắc. Công trình này là những nỗ lực của Berkeley gắng tìm cách bác bỏ những yêu sách của John Locke, một triết gia duy nghiệm thuộc thế hệ trước ông, về bản chất của tri giác con người. Nhưng vì công trình này thuộc dạng kén độc giả, chỉ dành riêng cho giới trí thức ở thủ đô London, nên ông bắt tay viết những bài dễ đọc hơn, trong hình thức đối thoại, và cho xuất bản ở London vào năm 1713 dưới nhan đề Ba cuộc đối thoại giữa Hylas và Philonous. Trong thời gian ở London, để xúc tiến việc xuất bản các công trình triết học của mình, ông kết giao bằng hữu với một số nhà trí thức nổi danh thời bấy giờ như nhà thơ Jonathan Swift (1667-1745), nhà thơ, nhà tiểu luận Joseph Addison (1672-1719), nhà soạn kịch Richard Steele (1709-1729), và nhà thơ Alexander Pope (1688-1744). Ông tham gia viết bài cho tờ Guardian của Steele để chống lại tư tưởng tự do của thuyết bất khả tri lúc bấy giờ, nhưng do ông không kí tên vào các bài báo này nên cho đến nay các ý kiến về việc ông có phải là tác giả của chúng hay không vẫn còn bất đồng. Năm 1721, ông xuất bản cuốn Bàn về sự vận động, một luận văn ngắn bàn về những nền tảng triết học của cơ học. Ngoài ra, ông còn có một tập các bản ghi chép những nhận xét triết học trong suốt quá trình phát triển học thuyết duy tâm và thuyết phi vật chất của mình; và tập ghi chép này, thường được gọi là Những nhận xét triết học, ông chỉ viết cho riêng mình nên không có ý định công bố. Năm 1724, Berkeley được bổ nhiệm làm Trưởng Tu viện Derry. Lúc này, ông bắt tay khai triển dự án xây dựng một trường học ở Bermuda với ý nghĩ châu Âu đã trở nên già cỗi sau cuộc khủng hoảng “Bong bóng Biển Nam’’ (South Sea Bubble) và Thế giới Mới sẽ là niềm hi vọng cho tương lai con người. Được Nghị viện Anh hứa tài trợ kinh phí, ông dong buồm sang châu Mỹ vào năm 1728. Sau ba năm hoài công ngồi chờ kinh phí được hứa hẹn, ông trở về Anh. Trong thời gian ở châu Mỹ, ông đã soạn thảo Alciphron, cũng là một công trình triết học và là một suối nguồn quan trọng cho các quan niệm của ông về ngôn ngữ. Sau khi về Anh, Berkeley tập trung viết và cho xuất bản một loạt các công trình: Bài giảng trước Hội Truyền giáo Phúc âm ở nước ngoài (1732), Lí thuyết về cái nhìn (chứng minh và giải thích) (1733), Nhà giải tích hay bài luận gửi cho một nhà toán học vô tín ngưỡng (1734), Bảo vệ tự do tư tưởng trong toán học (1735), Các lí do không đáp lại câu trả lời đầy đủ của ngài Walton (1735), cũng như xem xét lại để tái bản Các nguyên tắc và Ba cuộc đối thoại (1734). Năm 1734, Berkeley được phong Giám mục xứ Cloyne, vì thế ông trở lại Ireland và sống tại đó, tập trung chăm lo cho giáo phận của mình. Năm 1752, ông rời xứ cloyne đi Oxford để giám sát việc học hành của con trai, và không lâu sau đó, ông tạ thế vào ngày 14 tháng Giêng, được chôn cất trong Thánh đường Giáo hội Kitô thuộc địa phận OxfordĐộc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Một Nghiên Cứu Về Các Nguyên Tắc Nhận Thức Của Con Người PDF của tác giả George Berkeley nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Luận Về Yêu (Alainde Botton)
Alain de Botton Sinh năm 1969 tại Zurich, Thụy Sĩ, hiện nay sống ở London. Ông là tác giả của nhiều tiểu luận và được gọi là tác giả của một “triết học về cuộc sống thường ngày”. Các chủ đề của ông có thể là: tình yêu, du lịch, kiến trúc hay văn chương. Các tác phẩm của ông từng trở thành bestseller tại hơn 30 nước. Một số tác phẩm tiêu biểu của Alain de Botton: Luận về yêu, The News: A User’s Manual, How to Think More about Sex, Status Anxiety, The Art of Travel, How Proust Can Change Your Life. Sơ lược về tác phẩm Cuốn sách này chứa đựng chính xác những gì lâu nay ta vẫn muốn biết về tình yêu: Không thiếu ảo tưởng nhưng cũng đầy sáng suốt, mê đắm nhưng biết giữ khoảng cách, nồng nhiệt và rất hài hước nhưng cùng lúc ngập tràn phân tích lạnh lùng. Chính khía cạnh “phân tích” này làm nên sự hấp dẫn nhất của Luận về yêu, vì tác giả đã sử dụng những triết thuyết tưởng chừng khô cứng để tiếp cận tình yêu một cách thấu đáo, từ rất nhiều phương diện, kể cả những phương diện mà những người đang yêu thường muốn giấu kín. Tìm mua: Luận Về Yêu TiKi Lazada Shopee Luận về yêu, tác phẩm thời trẻ của Alain de Botton, hiện nay là một nhà văn, triết gia và diễn giả nổi tiếng thế giới, còn đặc biệt hấp dẫn vì tùy theo tạng riêng của mình, độc giả có thể đọc nó như một tập tiểu luận sâu sắc, hoặc như một cuốn tiểu thuyết vô cùng hấp dẫn và không hề thiếu kịch tínhĐộc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Luận Về Yêu PDF của tác giả Alainde Botton nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.