Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Và Mùa Thu Chầm Chậm Đi Qua

“Tôi sinh ra ở làng quê, lớn lên trong thành phố! Nhiều năm qua, mải miết giữa phố và làng. Ở phố ngày nhộn nhịp và về làng tìm những phút bình yên. Tôi tự hào về cái gốc gác quê mùa ấy của mình đến nỗi bạn bè tôi dù Tây hay ta, quen nhau vài bữa là tôi đã khoe ngay tôi không phải người thành thị. Ấn tượng về làng của tôi là những mối quan hệ chằng chịt và sâu nặng giữa những người láng giềng, là tính chất tư hữu và bè phái, là óc gia trưởng tôn ti hằn sâu trong từng nếp nghĩ. Là những đình đền chùa bao quanh mà bao giờ những ngày rằm, dịp lễ mẹ tôi vẫn đi cho đủ. Là ông cụ từ đền râu bạc trắng như cước hàng ngày vẫn qua trước ngõ. Là hình ảnh bà tôi những ngày cưới con cháu, ngồi trên sập gụ, bỏm bẻm nhai trầu, đôi môi thắm đỏ và mái tóc phai màu thời gian. Hình ảnh ấy mãi neo lại trong tâm trí tôi như một ấn tượng bền vững mà sau này mỗi dịp đi xa tôi vẫn thấy nhớ quay quắt. Tôi tự hỏi mình nếu một mai này, mẹ tôi, vì thể theo những lời cằn nhằn của tôi mà bỏ đi hết những xoong nồi đen cáu nhọ nồi và bồ hóng, thím tôi không còn quấy bánh đúc lạc những dịp hội hè, thì cái “người nhà quê” trong thế hệ chúng tôi sẽ còn hay mất? Tôi viết những dòng nhật ký này đầu những năm 2007. Sau đó không lâu mẹ tôi cũng bỏ đi hết những xoong nồi đen cáu nhọ nồi và bồ hóng, còn tôi bắt đầu chuyến đi lớn đầu tiên trong đời đến Kenya. Rồi tôi cũng không còn sống ở cái làng to to tên là Hà Nội nữa mà chuyển tới một cái làng - toàn - cầu hơn, to và rộng hơn tên là London. Mười năm qua những chuyến đi của tôi đã được nối dài hơn, thường xuyên hơn. Ước mơ của cô gái nhỏ “sinh ra từ làng” được đi khắp năm châu bốn biển dần trở thành hiện thực. Cuốn sách nhỏ này bạn đang cầm trên tay là tập hợp những trang nhật ký viết vội trên những nẻo đường tôi đã đi qua. Bạn sẽ thấy những non nớt, bỡ ngỡ trong những bài viết đầu tiên, bao băn khoăn những năm tôi hai mươi, những ngày mùa đông cô đơn đi cùng những ngày xuân duyên dáng. Tôi trân trọng chia sẻ cùng bạn những ký ức ấy trong hành trình của tôi từ làng ra phố và rong chơi trên những cánh đồng! London những ngày thu 2017 Thùy Dương *** Kruger - Những hồi ức châu Phi Châu Phi với mỗi người trong số chúng ta là gì nhỉ? Là đỉnh Kilimanjaro quanh năm tuyết phủ tráng lệ, là cánh rừng già kỳ vĩ mà xa lạ, hay là những ngọn đồi xanh trong trang văn đậm chất phiêu lưu của Ernest Hemingway? Với tôi, châu Phi là mảnh đất hoang dã và bí ẩn được tái hiện trong thước phim đầy chất thơ “Lion King” của hãng Walt Disney. Hình ảnh chú sư tử mạnh mẽ trên bình nguyên bao la, đàn voi thong thả bước đi trong ánh chiều rực rỡ và buổi bình minh huy hoàng trên đồng cỏ đã ám ảnh tôi trong những giấc mơ về một miền đất lôi cuốn. Vì thế trong lần đầu đặt chân đến Nam Phi, bỏ qua những thành phố nhộn nhịp, những cánh đồng nho và xứ sở sản xuất rượu vang ngọt ngào, tôi thực hiện chuyến safari đầu tiên của mình tới công viên quốc gia Kruger như một dịp hồi tưởng và trải nghiệm thực tế những hình ảnh châu Phi vẫn còn đọng sâu trong ký ức từ bộ phim thuở nào. Chặng đường lái xe chín tiếng đồng hồ từ sân bay Johannesburg tới Kruger tưởng chừng dài như vô tận. Chúng tôi có dịp qua nhiều thành phố, thị trấn nhỏ của Nam Phi. Càng về phía Đông Bắc, không gian càng trải rộng với những cánh đồng cỏ savannah màu nâu nhạt, thấp thoáng những tán cây bụi xơ xác. Rồi hẻm núi Bryde River hiện ra sừng sững trước mặt. Lúc này, mặt trời đã ngả chênh chếch về hướng Tây, ánh nắng dát vàng lên vách núi, phía xa một dòng thác bạc đổ xuống róc rách từ lưng chừng. Thêm mấy chục vòng cua quanh hẻm núi, dăm bận hỏi đường, liên tục nhấn ga để chạy đua cùng mặt trời, chúng tôi cũng vừa kịp qua cổng Numbi, một trong số chín cổng chính dẫn vào công viên Kruger và về đến trại nghỉ trước khi trời tối sập xuống. Ngôi nhà chúng tôi ở được xây cách tân theo phong cách lều trại của người Zulu, tường gạch với mái lợp rơm hình chóp nón, trong nhà trang trí rất nhiều họa tiết của các bộ lạc châu Phi. Đêm trong rừng, không gian tĩnh mịch và im ắng tới lạ thường, phải để ý lắm mới nghe thấy những tiếng lích rích trong cỏ, tiếng lá khô xào xạc lối đi. Vầng trăng khuyết cong veo lạc giữa một thảm sao dày đặc trên bầu trời. Sáng hôm sau, khi trời vừa rạng, chúng tôi bắt đầu ngày đầu tiên chinh phục Kruger. “Tôi chưa bao giờ biết một buổi sáng châu Phi khi thức dậy mà lòng không hạnh phúc”. Hemingway từng viết những dòng đầy hào hứng như vậy về những tháng ngày rong ruổi trên lục địa đen này. Và giờ đây, ngày mới của tôi cũng bắt đầu đầy rộn ràng như thế. Nắng đã chiếu rạng rỡ trên con đường nhỏ chạy sâu vào rừng, nhưng trên trời vệt trăng lưỡi liềm vẫn còn mờ như một ảo ảnh. Gọi là công viên nhưng Kruger rộng hàng ngàn hecta tương đương với diện tích của một quốc gia như Israel hay xứ Wales. Đây là một trong những khu bảo tồn thiên nhiên hoang dã lớn nhất trên thế giới với thảm thực vật phong phú và hàng trăm loài động vật khác nhau. Mùa này là cuối đông đầu xuân, mặt đất trống toàn cỏ khô, điểm xuyết những bụi cây đơn độc. Chẳng mấy chốc tôi gặp cây bao báp đầu tiên, cô đơn mà kiêu hãnh giữa đồng cỏ bao la. Bao báp vươn cành khẳng khiu giống như một khối điêu khắc với hình thù kỳ dị của tạo hóa từ hàng nghìn năm qua tạc trên nền trời xanh thẳm. Từ sau một bụi cây xanh tươi, một cái cổ dài thò ra lấp ló, hóa ra hai chú hươu cao cổ đang lững thững vặt lá cây từ bụi này sang bụi khác. Cả thân hình khổng lồ cao tới vài thước mà chúng bước đi uyển chuyển như đang trình diễn vũ điệu. Chạy xe thêm vài kilomet, chúng tôi bất chợt bắt gặp một hồ nước lớn. Từ đây tất cả diễn ra như một thước phim quay chậm. Trên nền vàng sẫm của cỏ savannah, đàn ngựa vằn thong thả gặm cỏ bên cạnh lũ linh dương nhởn nhơ giữa đám cây khô, phía xa đám lợn rừng chậm chạp đi thành một hàng. Xe đã tắt máy, chúng tôi lặng im ngắm nhìn khung cảnh thơ mộng của thiên nhiên, cảm tưởng như chỉ khẽ lay động một chút thôi, khung cảnh huyền ảo trước mắt sẽ tan biến. Vài chú voi lững thững tiến đến mép hồ uống nước, chú hoẵng nhỏ ngơ ngác ngước lên nhìn những người khách lạ rồi chạy biến về bên mẹ. Không gian thanh vắng tới lạ kỳ, chỉ có tiếng gió rung cây, tiếng khua nước nhè nhẹ. Một con chim sặc sỡ bay vút từ đâu đậu xuống một cành khô giữa hồ mải mê rỉa lông rỉa cánh. Về trưa, sau bữa sáng kiếm mồi, những con vật đã lùi vào bóng cây nghỉ ngơi. Dưới tán cọ bên sông, đàn trâu rừng với những cặp sừng cong veo như lưỡi hái nhẩn nha hóng mát. Bên vệ đường hai chú sư tử đang nằm ngủ ngon lành, bộ lông vàng óng lẫn vào trong cỏ. Chúa sơn lâm bình thường oai hùng là thế mà bây giờ trông hiền lành như những chú cún con mèo con? Thấy vậy nhưng tôi cũng chỉ dám chiêm ngưỡng từ xa, không dám lại gần ngộ nhỡ làm chúng thức giấc. Khi chiều buông, những con vật lại bắt đầu hành trình kiếm ăn trong hoàng hôn. Bầy hà mã phì phò tắm bên bờ suối. Ở một vũng nước mưa lớn, lũ voi con tinh nghịch quạt nước trêu đùa, xa xa lừng lững bóng một con tê giác đơn độc. Mặt trời đỏ ối từ từ rớt xuống trên thảo nguyên bao la. Cánh rừng ban trưa vốn im ắng là thế mà nay bỗng trở nên sống động, chim rộn ràng gọi nhau về tổ, những con vật săn mồi đổ ra từ trong những bụi cây chuẩn bị tìm thức ăn, có thể sẽ là một chú dê rừng hay hoẵng cho bữa tối nay. Những ngày ở Kruger nối tiếp nhau đi qua, mỗi ngày như một giấc mơ. Chưa ở đâu tôi được sống với thiên nhiên gần gũi và sống động như thế, chưa bao giờ tôi thấy màu sắc và âm thanh của thế giới hoang dã giao hòa với nhau đồng điệu hơn thế. Thật lạ kỳ, đôi khi ở một nơi xa Hà Nội tới hàng ngàn kilomet, lại khiến tôi có cảm giác thân thuộc như ở nhà. Chẳng phải hàng ngàn năm trước những tán cây này, cánh rừng, dòng sông này đã từng là nhà của chúng ta sao? Tôi ngỡ như mình được trở về những năm tháng tuổi thơ chưa bao giờ thôi mơ về những miền đất lạ, những câu chuyện núi đồi và rừng thẳm, những buổi bình minh trong lành hay hoàng hôn xa xăm, có đàn chim bay về tự chân trời. Xuân, hạ, thu, đông rồi lại xuân... Cuộc sống vẫn trôi theo dòng, bốn mùa ở Kruger vẫn tiếp diễn như hàng ngàn đời nay vẫn thế. Chẳng mấy nữa, rồi mùa xuân sẽ về, cây cối sẽ ra lá xanh um, những dòng suối cạn rồi sẽ đầy ắp nước, mặt đất thôi khô khốc và mềm mại hơn dưới cơn mưa đầu mùa. Những con linh dương ăn lá rồi đến lượt chúng trở thành mồi cho đàn sư tử đi săn. Hoàng hôn buông để ngày mai lại bắt đầu buổi bình minh mới. Những mùa trăng nối tiếp nhau và cuộc sống giống như một bài ca vô tận… *** Giương buồm lên hay những suy nghĩ ở Mũi Hảo Vọng Năm lên sáu, khi bắt đầu biết nhận mặt chữ cái, tôi đọc cuốn sách đầu tiên trong đời có tên “Giương buồm lên”, kể về hành trình khám phá thế giới của những nhà hàng hải vĩ đại trong lịch sử. Cuốn sách khổ lớn với những câu chuyện lôi cuốn và hình ảnh minh họa bay bổng đã in sâu vào tâm trí tôi để rồi kể từ đó những cái tên như Ferdinand Magellan, Vasco da Gama, James Cook, Vitus Jonassen Bering, Marco Polo, Christopher Columbus đã trở nên thân thuộc và khơi gợi niềm cảm hứng vô biên trong tôi về những cuộc phiêu lưu tới những miền xứ lạ. Sau này, cuộc sống hào phóng đã cho tôi đặt chân tới nhiều địa danh khác nhau trên thế giới, theo dấu những nhà hàng hải năm xưa mà tôi hằng ngưỡng mộ. Tôi đã tới Genoa, nơi sinh thành của Columbus, tới Trinity House, London nơi James Cook gắn bó trước khi bắt đầu hành trình khám phá Thái Bình Dương, tới nhà thờ San Lorenzo ở Venice, nơi chôn cất của Marco Polo. Và hôm nay, tôi may mắn có mặt ở một tọa độ nổi tiếng: 34°21’23 vĩ nam, 18°29’15 kinh đông, nơi gắn bó với tên tuổi của hai nhà thám hiểm xứ Bồ Đào Nha Bartolomeu Dias và Vasco da Gama. Tôi đang ở Mũi Hảo Vọng, cực Nam châu Phi. Nằm cách trung tâm thành phố Cape Town chừng một giờ lái xe, đây là địa danh mà bất kỳ du khách nào cũng muốn được một lần đặt chân trong đời. Con đường từ Cape Town xuôi theo hướng Nam dọc bờ biển Đại Tây Dương có lẽ là một trong những cung đường lãng mạn nhất trên thế giới mà tôi từng đi qua. Một bên là núi non trùng điệp, một bên là biển xanh miên man. Phía xa, những dãy núi đá uy nghiêm vững vàng in bóng trên nền trời xanh thẳm. Chớm xuân, hoa đã lác đác nở trên triền núi, những vạt hoa dại vàng len lỏi vươn mình trên vách đá, mỏng manh mà kiêu hãnh, mặc cho những đợt gió lồng lộng từ biển thổi vào. Ngoài khơi, sóng nối đuôi nhau táp vào bờ tung bọt trắng xóa. Xe chúng tôi chạy qua Chapman’s Peak, cung đường với những khúc cua tay áo liên tiếp men theo vách đá ven biển, qua vịnh Camps, vịnh Hout, vịnh False đẹp tới mê hồn, qua những bờ biển rực rỡ như biển Clifton, biển Boulders nổi tiếng với những chú chim cánh cụt châu Phi lạch bạch chạy trên cát. Càng tới gần mũi Hảo Vọng, không gian càng trở nên khoáng đạt. Con đường nhỏ chạy dài tới miên man, ngoài xa, đường chân trời mờ mờ xa ngái. Một chú chim đà điểu nhẩn nhơ bước thấp bước cao bên bờ biển. Trước mắt chúng tôi, ngọn hải đăng trên đỉnh Cape Point đang dần hiện ra. Và một lần rẽ nữa thôi, tấm biển báo “Cape of Good Hope” đã hiện ra trước mắt. Trời đổ về chiều, gió lạnh hơn, mặt trời trút những ánh vàng lai láng cuối cùng nhuộm vàng rặng đá lô xô hướng đầu ra biển, hải âu bay thành từng đàn, tạo thành những vệt đen dài trên nền trời đầy mây cuộn lại. Tôi hít một hơi thật sâu, nếm trong gió vị mặn mòi của đại dương, lắng nghe những con sóng gầm gào vỗ vào ghềnh đá. Theo vạt đường mòn từng in dấu chân bao du khách, tôi leo lên mũi đá cao nhất, phóng tầm mắt ngút ngàn về phương xa. Ngắm nhìn đại dương mênh mông vô tận, trong lòng tôi tràn đầy niềm cảm phục vô bờ đối với những nhà thám hiểm vĩ đại. 500 năm trước đây, họ đã giong buồm ra khơi trên những con thuyền gỗ, vượt qua những hành trình lênh đênh trên biển cả, đón bao mùa trăng lên chỉ để thỏa mãn ước mơ khám phá và chinh phục những mảnh đất nơi miền viễn xứ xa xôi. Người đầu tiên đi vòng từ châu Âu qua khu vực này là nhà hàng hải người Bồ Đào Nha Bartolomeu Dias vào năm 1488 với hy vọng mở đường tiến tới vùng Viễn Đông. Sóng dữ và địa hình khắc nghiệt của vùng nước này khiến Dias đặt cho nó tên gọi Cabo das Tormentas (Cape of Storms - Mũi Bão Táp). Tuy nhiên nhà vua Bồ Đào Nha John II khi ấy đã tin rằng nếu vượt qua được mũi Bão Táp, đến vùng phương Đông trù phú thì sẽ có hy vọng mang về được những hàng hóa quý giá như vàng, tơ lụa, những loại hương liệu hiếm như quế và tiêu. Vì vậy ông đổi tên mũi đất này thành mũi Hảo Vọng (Cape of Good Hope). Sau đó không lâu, một nhà thám hiểm Bồ Đào Nha khác là Vasco Da Gama đã vòng qua mũi Hảo Vọng thành công, đi vào Ấn Độ Dương và cập bến Calicut, Ấn Độ. Ông trở thành người châu Âu đầu tiên đến Ấn Độ bằng đường biển, người đầu tiên kết nối châu Âu với châu Á qua chuyến hành trình xuyên đại dương, mở ra con đường quý giá đưa phương Tây và phương Đông xích lại gần nhau. Thế giới đã hoàn toàn thay đổi nhờ những phát kiến địa lý vĩ đại ấy của những người như Dias và Da Gama. Phong cảnh nơi tôi đứng hôm nay gần như không khác gì so với 500 năm trước. Trước mắt tôi, biển dạt dào như hàng ngàn năm vẫn thế. Dias và Da Gama đã chinh phục biển thành công, nhưng tôi biết, ẩn trong lòng đại dương còn là câu chuyện về hàng ngàn thủy thủ không tên, hàng trăm con tàu đắm đã bỏ mạng trong những hành trình không mệt mỏi của con người trên biển khơi. Không phải vô cớ mà mũi Hảo Vọng lại là nơi bắt nguồn của câu chuyện bí ẩn về con tàu “Người Hà Lan bay”, theo truyền thuyết, con tàu được điều khiển bởi những bóng ma thủy thủ cứ phải đi luẩn quẩn trong vùng nước mênh mông mà không bao giờ cập vào được bến bờ. Có lẽ con tàu “Người Hà Lan bay” chỉ là một ảo ảnh, một sự tích dân gian được thêu dệt nên, nhưng tôi tin rằng mũi đá chơi vơi bên bờ biển này là minh chứng cho những ước mơ rất thật của con người nhằm chinh phục đại dương mênh mông và khám phá những miền đất bí ẩn. Chiều buông dần, gió lạnh hơn, sóng gào lên dữ dội. Trên núi, chỉ còn lại mình tôi với trời nước mênh mông. Một niềm vui nho nhỏ len vào tâm trí tôi giữa khung cảnh tuyệt đẹp của hoàng hôn nơi cực Nam châu Phi khi chỉ còn “một mảnh tình riêng ta với ta”. Vọng về trong tôi là hình ảnh những cánh buồm đỏ thắm trong trang sách khi xưa. Tôi biết rằng những cuộc phiêu lưu của mình chỉ vừa mới bắt đầu! Khi viết lại những dòng này, tôi đã chia tay miền đất Nam Phi đầy gió, trở lại với cuộc sống bận rộn thường ngày ở Hà Nội. Mỗi sớm mai tôi đều dành thời gian uống một tách trà và ngắm nhìn cuộc sống từ ban công tầng ba. Dòng đời vẫn chảy đi hối hả, những em bé tất bật cắp sách cho một ngày mới đến trường. Chợt nhớ lại tuổi thơ tôi những ngày xưa cũ say mê bên những trang sách vỡ lòng. Tôi tin rằng với những cô bé, cậu bé lên năm, lên sáu vừa chập chững những bước đầu tiên tới trường này, ba chữ “Giương Buồm Lên” quả là câu thần chú kỳ diệu. Mời các bạn đón đọc Và Mùa Thu Chầm Chậm Đi Qua của tác giả Thùy Dương.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Món Lạ Miền Nam - Vũ Bằng
Suốt những năm tháng ròng rã vật lộn mưu sinh tại miền Nam, của ngon vật hiếm nơi đất khách đã giúp Vũ Bằng vơi đi nỗi buồn hoang hoải hướng về cố hương. Món lạ miền Nam đã ra đời như vậy, cuốn tùy bút độc đáo của Vũ Bằng về những trải nghiệm hương vị ẩm thực mà mới nghe tên thôi người ta đã cảm thấy thích thú. Công bằng mà nói, món ngon hay không là do khẩu vị mỗi người. Mỗi miếng ngon có thể sẽ thay đổi, biến chuyển theo từng giai đoạn để vừa lòng ông thần khẩu. Nhưng đồ ăn miền Nam thì không đổi thay. Thứ hương vị làm người xa quê cảm thấy ngon lành, khang khác, nhận thức được lòng thương yêu của cõi nhân sinh ở chung quanh vì thế mà tự nhiên rõ rệt đậm đà. *** Có người đọc cuốn "Miếng ngon Hà Nội" 1 của tôi xong, thúc giục: - Miền Nam nước Việt có nhiều thức ngon lành lắm, sao không sưu tầm lại mà viết thành một cuốn nữa coi chơi? Tôi bỏ nhà đi lang bạt từ lúc mười bảy tuổi. Đến Sài Gòn dạo đó, tôi đã ăn nem Thủ Đức, thưởng thức phá lấu Lồ Ồ, ăn tóp mỡ nhiễn đường ở Sa Đéc, nếm suông ở Cây Mai, thịt bò bảy món Bà Hom, mì Cột Đèn Năm Ngọn. Rồi đến kỳ này, lại trở về quê ngoại mến thương, tôi đã thưởng thức nhiều món hơn, nhưng thú thực tôi không thấy các món đó có nói lên được cái gì mới mẻ, lạ lùng cho lắm. Có lẽ tô cá chìa vôi ngon thực, nhưng lòng còn gởi về cố lý nên cá rô đầm Sét vẫn là hơn, trái su su mát như da cô gái tuyết trinh, ô hay, sao lại như đăng đắng, mà miếng thịt gà muốn chế hóa cách gì đi nữa cũng vẫn cứ nhạt phèo? Mãi đến gần đây, tôi mới nhận ra rằng hương vị của những miếng ngon không hoàn toàn do nơi khẩu cái. Tự nhiên, không vì lý do gì hết, vào một buổi chiều xuống mầu kia, mình thấy miếng thịt gà đậm đà hơn, trái su su thoang thoảng ngọt và con cá chìa vôi ăn béo mà thơm. Ồ, tại sao lại thế? ... Mời các bạn đón đọc Món Lạ Miền Nam của tác giả Vũ Bằng.
Viết Lên Hy Vọng - Erin Gruwell
Người Pháp có câu "Vouloir, c'est pouvoir" - "Muốn là sẽ được". Câu nói này dường như rất gần với "Never give up!" - "Đừng từ bỏ". Nếu mong muốn đủ lớn, mục tiêu đủ cao cả và nghị lực đủ nhiều, có lẽ mọi nghịch cảnh sẽ đều nằm dưới sức mạnh chinh phục của con người.  Cuốn nhật kí được dựng thành phim "Nhật kí những nhà văn tự do" với Hilary Swank - nữ diễn viên từng đoạt 2 giải Oscar - vào vai chính (2007).  Năm 1994, Erin Gruwel - một giáo viên ngữ văn mới 23 tuổi và tràn đầy lý tưởng - về dạy tại trường trung học Wilson, Long Beach, bang California. Cô phải đương đầu với một lớp toàn học sinh cá biệt, những thành phần "hết thuốc chữa" và vô cùng nguy hiểm.  Những đứa trẻ (hầu hết là da màu) lớn lên tại một thị trấn của nạn phân biệt chủng tộc, của những tay găngxtơ sẵn sàng xả súng chỉ vì sự khác biệt, của những ông bố bà mẹ thất học khốn khổ vì nhập cư trái phép. Không một ai trong số họ đã từng tốt nghiệp trung học, chứ đừng nói đến học đại học. Và mỗi ngày trôi qua, lại có những đứa trẻ trong vùng ngã xuống vì những vụ bạo động và nổ súng.  Học sinh của cô giáo Erin Gruwel trẻ tuổi thủ sẵn súng trong người khi bước ra ngoài đường phố. Có những em trốn học để hút chích, lang thang, có những em đánh vật với gia đình thiếu thốn và thậm chí phải ngủ ngoài đường. Những em còn lại thì thất vọng cùng cực. Mời các bạn đón đọc  Viết Lên Hy Vọng của tác giả Erin Gruwell.
Trên Bục Giảng - Brad Cohen & Lisa Wysocky
AudioBook Trên Bục Giảng Cuốn sách đã làm rung động hàng triệu trái tim trên thế giới về niềm khát khao đứng trên bục giảng của một cậu bé mắc hội chứng rối loạn thần kinh. Brad Cohen mắc hội chứng rối loạn thần kinh (có tên gọi Tourette) từ khi còn nhỏ. Căn bệnh này khiến anh thường xuyên bị co giật, phát ra những âm thanh không kiểm soát được. Vào thập niên 80, đây là một chứng bệnh không phổ biến và các bác sĩ hầu như không thể lý giải được nguyên nhân căn bệnh. Chính vì thế, anh trở thành nỗi sợ hãi của những người trong thị trấn, bị tất cả xa lánh, bị cấm tới rạp chiếu phim, rạp hát, nhà hàng hay những nơi công cộng. Đứng trước nỗi đau bị cười nhạo và ghê sợ, ngoài gia đình, Brad bấu víu vào niềm hy vọng cuối cùng gắn kết anh với xã hội, đó chính là những giáo viên mà anh vô cùng ngưỡng mộ và kính trọng. Đáng tiếc thay, ngay cả những người thầy, người cô mà anh tin tưởng cũng nhiều lần đuổi anh ra khỏi lớp, để lại trong Brad nỗi đau về một tuổi thơ đầy khắc nghiệt. Thế nhưng, thay vì đau đớn trốn tránh xã hội, khép lại mọi ước mơ hòa nhập, chấp nhận thực tại bị cô lập, bị xa lánh và hắt hủi, Brad từ đó mang trong mình nỗi khát khao trở thành một người thầy mà anh chưa bao giờ có được – một người giáo viên chân chính, người không chỉ là nguồn tri thức cho học trò, mà còn là đôi cánh nâng đỡ những số phận cần được cảm thông, giúp đỡ. Vậy là, cuộc hành trình đầy khó khăn và trắc trở của anh bắt đầu trước bao nhiêu nghi hoặc của những người xung quanh, để rồi nhiều năm sau đó, Brad Cohen chạm tay vào cái đích cuối cùng của mình một cách ngoạn mục, trở thành một giáo viên – một tác giả nhiệt huyết. Anh sáng lập nên trung tâm dành cho trẻ mắc hội chứng Tourette và được đưa lên chương trình Oprah. Năm 2006, cuốn sách mang tên “Trên bục giảng”của anh giành giải thưởng sách giáo dục dành cho những nhà xuất bản tự do. Cuộc đời của anh cũng trở thành chủ đề cho bộ phim của hãng Hallmark Hall of Fame. “Quyển sách Trên Bục Giảng là câu chuyện dành riêng cho những người chịu thiệt thòi trong cuộc sống, những người từng vấp ngã trên đường đời, những người cho rằng cuộc đời này gây cho mình quá nhiều khó khăn trắc trở.” - Jim Eisenreich, cựu vận động viên bóng chày Major League, mắc hội chứng Tourette. “Câu chuyện về một đứa trẻ gặp trở ngại to lớn trong việc học, cuối cùng lại giành được giải thưởng Giáo viên giỏi nhất năm ở bang Georgia là một minh chứng cho ý chí bất diệt của con người.” - Tạp chí Foreword. Mời các bạn đón đọc Trên Bục Giảng của hai tác giả Brad Cohen & Lisa Wysocky.
Người Thầy: Hồi Ức Của Một Nhà Giáo Mỹ - Frank McCourt
AudioBook Người Thầy   Hồi ức của Frank McCourt (1930-2009) - một tài năng văn chương “nở muộn” - viết về khoảng thời gian hơn 30 năm đeo đuổi sứ mệnh làm thầy trên đất Mỹ. Cuốn sách này dành cho tất cả những ai ưu tư về ý nghĩa tối hậu của nghề sư phạm. 1. Trước hết, cuốn sách  Người thầy(*) được viết từ một độ lùi thời gian, khi McCourt đã về hưu và đã có tác phẩm Angela’s ashes ( Tro tàn của Angela - Hoàng Nguyên và Nguyễn Bích Lan đã dịch sang tiếng Việt, NXB Phụ Nữ, 2004) đoạt giải Pulitzer được nhiều người biết đến. Từ điểm nhìn khoan dung này có thể thấy đây là một tác phẩm mang cảm giác kiêu hãnh, đầy thanh thản của một người đã hoàn thành lý tưởng sự nghiệp nhà giáo của mình, nhìn lại một quá khứ hào sảng hơn là bày tỏ bức xúc hay cay đắng về nghề của người trong cuộc. Nước Mỹ thời bấy giờ, như tác giả viết: “Có phồn vinh, nhưng sự phồn vinh này không nhỏ giọt xuống tới các trường học, tới những ông thầy mới vào nghề cần học cụ cho việc giảng dạy lại càng không”. Điều đó tác động trực tiếp đến đời sống sư phạm của người thầy trẻ McCourt, người Ireland, chọn New York làm nơi lập nghiệp. Tuy nhiên, như đã nói, cuốn sách bằng một giọng văn tếu táo, hài hước cho thấy sự hào hứng, nhiệt huyết dấn thân vào nghề nhiều hơn là sự căng thẳng trước cơ chế. Trung tâm của nghề giáo là đời sống mô phạm của người thầy. Nhưng sự mô phạm đã được thầy McCourt “tư duy lại” như một kẻ đi ngược lối nghĩ thông thường của những đồng nghiệp khác. Những giáo viên nghiêm khắc, quen sống trong tháp ngà khiến học sinh luôn lo sợ điểm xấu không thể chấp nhận được một kiểu mô phạm như McCourt, người thầy mà ngay từ buổi đầu đi dạy đã mắc cái lỗi - nhặt mẩu bánh mì kẹp thịt trên nền đất (của đám học trò choai choai nghịch ngợm ném nhau) để... gặm ngon lành. Những giáo viên luôn đóng kín mình, coi việc dạy học là trách nhiệm khô khan, xem học trò là bọn quỷ quyệt cần cảnh giác sẽ khó chấp nhận một lối dạy tự do, gần gũi, ở đó ông thầy trẻ dám lấy tuổi thơ lớn lên ở khu ổ chuột Limerick, Ireland tồi tàn, lấy thời sinh viên nghèo nhưng nhiều mộng tưởng đến quãng thời gian xếp bằng đại học đi bốc vác ở những hải cảng để làm chất liệu cho bài giảng... 2. Từ sự quan tâm, nắm bắt tâm lý “những chuyển động trong tâm hồn” học trò cộng với những trải nghiệm cuộc sống đã cho thầy giáo trẻ McCourt khả năng nhập vai đầy sáng tạo: “Anh thủ đủ mọi vai, là ông bốc xếp, thầy rabbi (giáo sĩ Do Thái), là cái vai cho học sinh gục đầu vào khóc, nhà mô phạm nghiêm khắc, ca sĩ, học giả xoàng, thầy ký, trọng tài, gã hề, ông cố vấn, người giám sát ăn mặc, người soát vé xe, người biện hộ, triết gia, kẻ đồng lõa, vũ công clacket, chính trị gia, bác sĩ trị liệu, gã điên, cảnh sát giao thông, mục sư, mẹ-cha-anh-chị-cô-chú, nhân viên kế toán, nhà phê bình, nhà tâm lý, chiếc phao cấp cứu...” mặc dù phía sau bục giảng đầy hào hứng bao giờ cũng là một thế giới đầy những căng thẳng, tranh cãi. Điều đáng sợ nhất là chính McCourt phải đối diện với những quan điểm dạy học truyền thống đầy khô khan và lạnh lùng của đồng nghiệp, cấp trên. Và kết quả của những cuộc va chạm là người thầy này đã phải nhiều lần bị thôi việc. Từng dạy tiếng Anh tại các trường McKee, Seward Park, trung học danh tiếng Stuyvesant..., thầy giáo McCourt vẫn là một kẻ vui vẻ hi sinh những đam mê danh vọng khác, chấp nhận nghịch cảnh và xác tín với con đường mình theo đuổi. Lần đầu tiên có một người thầy làm cái công việc lưu trữ và phân loại hai chồng thư: một chồng do những bà mẹ viết xin lỗi giáo viên về việc con mình nghỉ học với những lý do tẻ ngắt, còn chồng kia là của đám học trò giả phụ huynh viết phịa ra lý do rất xuất sắc và siêu tưởng để đôi chối việc nghỉ học của mình. Từ đó, thầy giáo McCourt thực hiện ý tưởng biến giờ giảng của mình thành một buổi nghiên cứu nghệ thuật viết thư xin lỗi. Ông cho học sinh tưởng tượng và viết những lá thư kiểu như “Thư Adam xin lỗi Chúa Trời” hay “Thư Eva xin lỗi Chúa Trời”... Và chúng ta cũng đọc thấy câu chuyện có một ông thầy “chịu chơi”, dám đi xem vở Hamlet với 29 học trò nữ da đen nghịch ngợm, ngổ ngáo, thực hiện ý tưởng biến giờ học sáng tác thành nơi trình diễn các món ăn truyền thống của dân nhập cư, phổ biến những cuốn sách ẩm thực kết hợp với chơi nhạc “cây nhà lá vườn”... 3. Nhưng sau những bài giảng đầy hứng thú, sau thế giới vui nhộn ở những lớp học, đời sống của một giáo viên nghèo nhập cư là một chuỗi hi sinh cay đắng: đó là sự thiếu thốn trong đời sống khiến vợ chồng McCourt phải ly dị; đó là những ngày ông phải sống lang bang với một gian trọ trên quán rượu nơi hải cảng, vây quanh bởi thế giới ô tạp anh chị, giang hồ, đĩ điếm; đó là sự gan lì, khoan dung, bỏ qua những lời lẽ chế nhạo đầy vô tâm của những học sinh lãnh đạm, những phụ huynh thực dụng... Điều đáng quý là sự cô độc và giằng xé đau đớn ấy đã không làm mất đi niềm say mê mở ra những biên độ sáng tạo, tinh thần hài hước trong các bài giảng, trong những giờ ngoại khóa của thầy McCourt. Cuối cùng, điều cốt yếu mà chúng ta nhận ra trách nhiệm lớn lao, cao trọng nhất đối với người thầy đó chính là bằng tài năng và thiên chức của mình, biết khơi gợi sự sáng tạo nơi giang sơn - lớp học của mình, chống lại sự cưỡng bức trong giáo dục. Vì sự cưỡng bức sẽ hủy hoại thứ cảm xúc lành mạnh, lòng trung thực và sự tự tin nơi học sinh. Cưỡng bức trong giáo dục có nguy cơ sinh ra những công dân chỉ biết run sợ và phục tùng. Xã hội đang rất cần những người thầy biết xua đi nỗi sợ hãi bên lề trái của bảng đen để đem lại động lực hiểu biết, khuyến khích tinh thần tự do sáng tạo nơi mỗi học sinh, mỗi công dân tiến bộ của tương lai. Đó có lẽ là hình mẫu người thầy mà bất cứ xã hội nào cũng mong đợi.   Mời các bạn đón đọc Người Thầy: Hồi Ức của Một Nhà Giáo Mỹ của tác giả Frank McCourt.