Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Học Giả Herzog

Tiểu thuyết Herzog của tác giả Saul Bellow cho đến nay vẫn được coi là một trong những tiểu thuyết văn học vĩ đại nhất của nước Mỹ thời hậu chiến. HERZOG, một học giả về chủ nghĩa lãng mạn, một người hầu như chỉ sống cùng các ý tưởng của mình, một người chồng tồi bị vợ bỏ, một người cha nghèo khổ, một đứa trẻ vô ơn, một người anh em xa cách, một người bạn ích kỷ, một công dân lãnh đạm và ở tuổi bốn mươi bảy, hôn nhân tan vỡ, công việc tan vỡ, anh mang nỗi u sầu đi tìm kiếm miền đất hứa, tìm lại sự cân bằng, và cứu rỗi. Cùng với kỹ thuật viết sáng tạo, Saul Bellow đã kể một câu chuyện đậm chất dí dỏm của người Do Thái, tính hài hước, cái bệnh hoạn, niềm đam mê tri thức cùng các giá trị đạo đức, và sự hăng hái với những tư tưởng tiến bộ. Ngày nay Herzog vẫn được coi là một trong những tiểu thuyết văn học vĩ đại nhất của nước Mỹ thời hậu chiến. Tiểu thuyết Herzog được dịch giả Thiếu Khanh chuyển ngữ và được Tao Đàn xuất bản tháng 1/2019.  *** “Herzog” là cuốn sách đã làm nên danh tiếng của Saul Bellow. Cuốn sách xuất bản năm 1964, khi ấy ông 49 tuổi. Ông đã được giới phê bình đánh giá cao từ cuốn tiểu thuyết đầu tay “Dangling Man” (1944) và vào năm 1954 đã giành giải National Book Award cho “The Adventures of Augie March”. Nhưng “Herzog” mới thực sự đưa ông trở thành một nhân vật của công chúng, một cây bút được cả ngoài giới mộ điệu văn chương biết đến – một “tác gia”. Theo như lời Greg, con trai của Bellow, “Herzog” đánh dấu thời điểm mà “Saul trẻ” hóa “Saul già”. Mang danh tác gia – nghĩa là thành một gười truyền cảm hứng, đôi khi được thần tượng, đôi khi bị ghen tị, hoặc cả hai. Tên tuổi lọt vào các danh sách đề cử, quan điểm được trích dẫn. Với trường hợp của Bellow, ông lên đến đỉnh cao danh vọng trong lớp tác gia đương thời với 3 lần nhận giải National Book Awards, 1 giải Pulitzer và cuối cùng là Nobel Văn chương. Ông cũng bị lôi kéo vào các tranh cãi về chính trị, khác biệt thế hệ và chiến-tranh-văn-hóa mà khi còn trẻ, ông đã luôn cẩn thận né tránh. Bellow là người sắc bén, đọc nhiều, có óc quan sát và ông cũng tự nhận mình là người sỏi đời. Nhưng sau rốt ông vẫn là một tiểu thuyết gia, không phải một nhà báo xã luận – hay như ông nói, một chú chim chứ không phải một nhà điểu học. *** Saul Bellow từng tự nhận, mình là một con mèo độc lai độc vãng (I was the cat who walked by himself). Nhưng sự thực phải nói đầy đủ hơn thì: ông là một con mèo thường xuyên ở trong thời kỳ động dục. Ông chỉ có 5 bà vợ chính thức, và hàng tá người tình. Người ta nhận xét về ông như sau: đẹp trai, quyến rũ, tài giỏi, khéo ăn nói, và nhiều bạn tình, quan trọng là các bạn tình của ông đều trẻ và đẹp. 74 tuổi ông còn cưới được cô vợ mới 31 tuổi là biết rồi đó. Saul Bellow bị bạn thân cướp mất vợ, nhưng bù lại ông cũng cướp bạn gái của bạn thân. Bạn thân ông chính là Nhà văn nổi tiếng Philip Roth. Vâng, các bạn đang nghĩ đúng rồi đó. Saul Bellow cướp bạn gái của Philip Roth. Chuyện vợ con gái gú của Saul Bellow không biết nói sao cho hết được. Kể các bạn nghe chơi vài cố sự trong cuộc đời ông mà thôi. Chúng ta hãy bắt đầu bằng Herzog nha. Herzog được viết dựa trên nhiều tình tiết có thật đã xảy ra trong đời của Saul Bellow. Nhân tiện sách Herzog của Tao Đàn đã xuất bản và có bán tại đây https://goo.gl/CwSLJ4 nha. Năm 1953, Saul Bellow nhận một công việc mới ở Bard College. Lúc này Saul Bellow đã ly thân với với người vợ đầu - Anita, và ngay anh đã cặp kè với một người bạn gái mới có cái tên Nga ngố đọc muốn trẹo lưỡi Sondra Tschacbasov, nên cô thường được gọi thân mật là Sasha. Sasha làm thư ký ở Partisan Review, và quan trọng là Sasha đẹp và cực kỳ hấp dẫn, đã thế lại còn trẻ hơn Saul Bellow 16 tuổi. (hi hi bạn nào đọc Herzog rồi hẳn đã mường tượng ra cô vợ Madeleine rồi đúng không?) Tại Bard College, Saul Bellow chơi thân với một giáo sư văn học có tên là Jack Ludwig, người cũng đã có vợ rồi. Tay GS Ludwing này có mọi tính xấu của người Do Thái. Nhưng lại rất thần tượng Saul Bellow. Ludwing thường xuyên đi bách bộ cùng Saul Bellow, rồi khen ngợi, rồi ca ngợi các tác phẩm của Saul Bellow hết lời, nói chung thân thiết đến độ không bút nào tả xiết. (đến đây các bạn đã thấy nhân vật Valentine Gersbach xuất hiện rồi đúng không?) Năm 1956, Saul Bellow kết hôn với Sasha, sau khi li dị xong người vợ đầu. Sasha sanh cho Saul Bellow một bé trai đặt tên là Adam. (đoạn này hơi khác trong truyện chút xíu nhỉ?) Và Saul Bellow nói với Sasha rằng: đứa bé là trách nhiệm của cô, ông đã quá già để chăm bẵm cho một đứa trẻ. Quả thật không oan khi sau này con trai của ông (ko phải Adam) viết một cuốn sách về bố mình chỉ để kể rằng: Saul Bellow, một nhà văn vĩ đại, nhưng là một ông bố tệ hại (Great author, terrible father). Đến năm 1958 Saul Bellow được mời đến dạy ở ĐH Minnesota. (Chuyện diễn biến gần giống với Herzog rồi nè.) Saul Bellow khăng khăng một mực bảo nhà trường, đã nhận ổng rồi, phải nhận luôn cả anh bạn thân, GS văn chương, Jack Ludwig. Hoặc là nhận cả hai, hoặc là không ai cả. Mọi chuyện được thu xếp ổn thỏa, cả 2 cặp gia đình rồng rắn kéo nhau chuyển nhà lên Minneapolis. Và giờ đây mẫu thuẫn giữa Saul Bellow và cô vợ hai Sasha bắt đầu lên cực điểm. Lý do là bởi không thỏa mãn được nhu cầu tình dục của nhau. (hi hi chuyện này Saul Bellow cũng có nói trong Herzog đó, ông có thổ lộ là nếu tuổi 40 mà mỗi tháng còn make love được 1 lần thì đó là thành công rồi, và chuyện “chưa đến chợ đã hết tiền” cũng được ông viết rất kỹ càng trong Herzog đó.) Lúc này anh bạn thân Jack Ludwing đóng vai trò hòa giải cho vợ chồng nhà Bellow, lắng nghe an ủi cả hai bên. Nhưng mọi việc có vẻ không thành công. Một ngày mùa thu năm 1959, Sasha nói với Saul Bellow rằng cô sẽ rời xa ông. Không phải vì người thứ ba mà là bởi cô không yêu ông. Mọi thủ tục cho vụ li dị được tiến hành vào tháng 6/1960. (Vụ này cũng kha khá giống như trong Herzog, tình tiết cả hai bên cùng có một luật sư, rồi trong thời gian li dị, Saul Bellow bỏ đi châu Âu chơi, nói chung là y hệt nha.) Tháng 11 năm 1960, Saul Bellow được một cô trông trẻ rất có lương tâm không nỡ nhìn cái sừng trên đầu ông mãi, nên bèn kể cho ông nghe việc anh bạn thân Ludwig đang ngủ với cô vợ Sasha của ông. Đất trời như sụp đổ, Saul Bellow đứng không vững vì cái sừng nó quá lớn. Hai sự phản bội đến trong phút chốc đã làm ông phát điên. Người ta kể lại, ông cũng về nhà vớ lấy khẩu súng giống y như nhân vật Herzog luôn. Cũng đúng thôi, hãy thử đặt mình vào hoàn cảnh: vợ mình ngoại tình cùng bạn thân mình, trong khi mình xin việc cho bạn thân mình, tìm cho nó chỗ làm, đưa danh vọng đến cho nó, thì nó ngủ với vợ của mình, trong khi mình vẫn lải nhải tâm sự với nó về vấn đề “sinh lý nam”. Còn biết giấu cái sừng vào đâu nữa cơ chứ? Saul Bellow trong cơn tuyệt vọng đã biến nó thành tiểu thuyết. và Herzog ra đời. Herzog giống như một cuốn tiểu thuyết báo thù bạn thân với vợ cũ. Nhưng may cũng được trời thương, sách Herzog vừa ra đời lập tức bán hết cả trăm ngàn bản ngay trong tuần đầu ra mắt. (chắc cũng nhiều đàn ông đồng cảm chịu chung cảnh ngộ đội nón xanh chăng?) Đến đây anh bạn thân – giáo sư văn chương - Jack Ludwig lên tiếng bảo: “Ôi, Herzog là một cuốn sách rất được đấy bà con, nhưng đừng đọc nó như một cuốn tự truyện. Herzog là một bước đột phát lớn của anh chàng bị tôi cắm sừng, nhưng đằng sau nó là tâm thế của một gã đàn ông đang bước vào khủng hoảng tuổi trung niên, cùng sự phi lý của thân phận đàn ông.” Lời kêu gọi của anh bạn thân của Saul Bellow đã thành công, không ai đề cập đến cơ sở tự truyện của cuốn sách Herzog cả. Và câu chuyện của Herzog bịa đặt hay một phần sự thật đã không còn ai quan tâm nữa, vì giá trị văn chương và sự khổng lồ của nó. *** saul bellow(1915-2005) Saul Bellow là nhà văn người Mỹ gốc Do Thái. Từ nhỏ ông đã đọc Shakespeare và các nhà văn thế kỉ XIX, nói thạo bốn ngoại ngữ và được dạy dỗ theo những truyền thống được ghi trong Kinh Cựu Ước. Saul Bellow là nhà văn được trao rất nhiều giải thưởng: giải Guggenheim năm 1948 cho tiểu thuyết The Victim; giải Pulitzer năm 1976 cho tiểu thuyết Humbold’s Gift, là người duy nhất ba lần giành Giải thưởng Quốc gia năm 1954 cho The Adventures of Augie March,cho Herzog năm 1964, Mr. Sammler’s Planet năm 1971. Năm 1976, Saul Bellow được trao giải Nobel Văn Chương vì những đóng góp lớn lao cho sự phát triển văn học Mỹ và thế giói bằng những tác phẩm mang tính nhân đạo sâu sắc có ngôn ngữ và văn phong bậc thầy. *** herzog Dù mình có hóa rồ đi nữa thì mình cũng vẫn ổn thôi, Moses Herzog nghĩ. Có người cho là anh bị hâm, có lúc chính anh cũng không biết mình có tỉnh táo hay không nữa. Nhưng lúc này, tuy vẫn còn hành xử khá kỳ quặc, anh cảm thấy tự tin, vui vẻ, minh mẫn, và khỏe mạnh. Trước đó anh như bị bỏ bùa, dở chứng viết thư cho tất thảy mọi người. Những lá thư ấy khuấy động anh đến nỗi từ hồi cuối tháng Sáu, anh mang theo chiếc va li đầy ắp giấy đi hết chỗ này sang chỗ khác. Anh đã mang chiếc va li này từ New York đến Martha’s Vineyard§, rồi lại rời bỏ nơi này để quay lại ngay tức khắc; hai ngày sau anh bay sang Chicago, rồi từ Chicago anh đến một ngôi làng ở phía tây Massachusetts. Ẩn mình ở vùng quê, anh viết liên miên bất tận, viết một cách cuồng nhiệt, cho các nhật báo, cho những nhân vật của công chúng, cho bạn bè người thân, sau đó là cho những người đã chết, cho những người chết vô danh mà anh biết, và cuối cùng là cho những người chết có tiếng tăm. Bây giờ đang vào giữa mùa hè ở Berkshires. Herzog đơn độc trong ngôi nhà cũ rộng lớn. Vốn có thói quen ăn uống đặc biệt, giờ đây anh ăn bánh mì hiệu Silvercup đựng trong bao giấy, đậu đóng hộp, và phô mai Mỹ. Thỉnh thoảng, anh hái trái mâm xôi trong khu vườn cây cối um tùm, lơ đễnh nhấc những cành song mây đầy gai. Còn chuyện ngủ nghê thì anh nằm trên tấm nệm mà chẳng cần trải ga - đó là chiếc giường tân hôn của anh bị bỏ bê - hay ngủ trên võng, lấy áo khoác đắp lên. Cỏ đuôi chồn, châu chấu và những cây thích con trong vườn vây lấy anh. Khi anh mở mắt trong đêm, những ngôi sao gần gũi như những thực thể linh thiêng. Lửa cháy, dĩ nhiên, khí ga - khoáng chất, hơi nóng, nguyên tử, chỉ lên tiếng hùng hồn lúc 5 giờ sáng với người đàn ông nằm cuộn mình trong chiếc áo khoác trên võng. Khi một ý mới nào đó nảy ra trong tâm trí, anh đi vào bếp, tổng hành dinh của anh, để ghi chép lại. Sơn trắng bong ra từ những bức tường gạch, thỉnh thoảng Herzog dùng tay áo lau phân chuột trên bàn, thản nhiên nghĩ ngợi tại sao bọn chuột đồng mê sáp và parafin đến thế. Chúng khoét lỗ vào những hòm chứa đồ khằng kín bằng parafin, chúng gặm những cây nến sinh nhật đến nỗi chỉ còn lại cái bấc. Một chú chuột nhắt moi vào gói bánh mì, để lại cái lỗ hình dạng thân nó qua các lát bánh! Herzog ăn nửa ổ bánh mì còn lại cùng với mứt. Anh cũng có thể chia phần ăn với những con chuột nhà. Suốt thời gian đó anh vẫn dành một góc tâm trí mình mở ra với thế giới bên ngoài. Anh nghe tiếng quạ kêu vào buổi sáng. Giọng khàn khàn của chúng thật thú vị. Anh nghe chim hoét kêu vào lúc nhá nhem tối. Đêm thì có chim ụt. Khi anh đi dạo trong vườn, cao hứng với một lá thư trong đầu mình, anh nhìn hoa hồng quấn quanh ống máng hứng nước mưa, hay những trái dâu tằm - bầy chim đang làm tiệc trên cây dâu. Ban ngày thì nóng, buổi chiều tối thì bức bối và bụi bặm. Anh nhìn chăm chăm mọi thứ, nhưng cảm thấy mình mù dở. Bạn anh, người bạn cũ Valentine, và vợ anh, người vợ cũ Madeleine, đã loan truyền tin đồn tinh thần anh đã suy sụp. Có đúng vậy không? Anh đi vòng qua ngôi nhà trống trơn và nhìn thấy bóng khuôn mặt mình trên một khung cửa sổ mạng nhện giăng xám xịt. Trông anh thanh thản kỳ lạ. Một đường sáng chạy dài từ giữa trán qua chiếc mũi thẳng và đôi môi dày lặng lẽ. Mời các bạn đón đọc Học Giả Herzog của tác giả Saul Bellow & Thiếu Khanh (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Cái Chết của Ivan Ilich - Lev Tolstoy
Ivan Illich tuyệt vọng vì thấy cuộc đời mình đang chấm dứt. Trong thâm tâm, ông biết mình sắp chết. Ý tưởng ấy hoàn toàn xa lạ đối với ông. Ông không hiểu nó, hoàn toàn không thể hiểu được nó. Ông đã được học trong sách Luận Lý của Kizeveter một thí dụ của tam đoạn luận như sau : "Caius là một con người, mọi con người đều phải chết, nên Caius phải chết". Lý luận trên rất đúng khi nó được áp dụng cho Caius, nhưng không thể là sự thực khi nó được áp dụng cho ông. Khi nói đến Caius, hay con người nói chung, thì sự chết là tự nhiên, nhưng ông, ông không phải là Caius, cũng không phải là con người nói chung. Ông là một con người đặc thù, cá biệt, là Vania của bố, của mẹ, của Mitia và Volodia, với những đồ chơi, người đánh xe, chị giúp việc, và Katenka … với bao niềm vui, nỗi buồn, bao sự phấn khởi, say mê, của tuổi thơ, của lúc dậy thì và thời xuân trẻ. Caius có bao giờ ngửi thấy mùi thơm của quả bóng da mà Vania vô cùng yêu thích? Caius có bao giờ hôn bàn tay mẹ? Có bao giờ nghe tấm váy lụa của bà kêu sột soạt? Có phải ngày kia Caius đã gây bao ồn ào trong trường học, chỉ vì mấy cái bánh ngọt? Caius có từng yêu? Có từng chủ trì một cách thần tình những phiên tòa phức tạp (Ivan là một quan tòa cao cấp - NHV)? Caius phải chết, và cái chết của hắn là tự nhiên. Nhưng tôi, Vania, Ivan Illich, với tất cả những cảm xúc, trí tuệ, của riêng tôi, không liên hệ gì đến hắn. Cái chết của tôi là một nghịch lý, là phản tự nhiên một cách khủng khiếp. Ivan Illich tự nói với mình :  "Nếu tôi phải chết như Caius, thì tôi đã biết, một tiếng nói nội tâm nào đó đã báo cho tôi điều ấy. Nhưng tôi không hề nghe thấy gì về chuyện này. Tôi và các bạn tôi đều biết rất rõ là giữa chúng tôi và Caius có một sự khác biệt rất lớn.  Và, bây giờ, chuyện ấy lại xảy đến ! Không ! Không thể được ! Hoàn toàn không thể được ! Nhưng, nó vẫn đang xảy đến … Làm sao, làm sao hiểu được điều này?  Quả thật, ông không thể hiểu nổi, và cố sức gạt bỏ cái tư tưởng thường tình, sai lạc, bất công, bệnh hoạn ấy, để thay thế nó bởi những tư tưởng lành mạnh hơn, hợp lý hơn. Tuy nhiên, tư tưởng kia luôn quay lại, sừng sững trước mặt ông, không phải như một tư tưởng, mà như một thực tế" *** “Bá tước” Lev Nikolayevich Tolstoy sinh ngày 9 tháng 9 năm 1828 tại điền trang Yasnaya Polyana thuộc tỉnh Tula. Yasnaya Polyana là nơi Tolstoy khởi đầu sự sống của mình, là nơi khơi nguồn sáng tạo nghệ thuật, là nơi chứng kiến những tìm tòi, những biến chuyển trong nghệ thuật cũng như trong những tư tưởng triết lý, đạo đức của ông, và đó cũng là nơi mà vào đêm 28 tháng 10 năm 1910 ông đã chạy trốn khỏi, từ bỏ tất cả: gia đình, tài sản... để đi trên con tàu vô định đến cái chết khi đã ở tuổi 82 với tên tuổi đã nổi tiếng trên thế giới. Tác phẩm tiêu biểu Dịch thuật Một chuyến đi đầy xúc cảm qua Pháp và Ý Bút ký Những mẩu chuyện Sevastopol Một người cần bao nhiêu ruộng đất ? Tôn giáo của tôi Vương quốc của Chúa là ở bên trong bạn Tóm tắt Phúc âm   Truyện ngắn Bản sonata Kreytser (bản in năm 1901) Một lịch sử của ngày hôm qua (1851) Lucerne (1857) Ba cái chết Kholstomer Một cuộc xưng tội Hadji Murat Cái chết của Ivan Ilyich Đức cha Sergy (1898)   Tiểu thuyết Thời thơ ấu (1852) Thời niên thiếu (1855) Thời thanh niên (1856) Người Kazak (1963) Chiến tranh và Hòa bình (1865) Anna Karenina (1877) Con người sống bằng gì (1881) Bản sonata Kreytser (1889) Phục sinh (1899) *** Từ phút đó bắt đầu cuộc kêu rên liên tục suốt ba ngày, tiếng kêu rên khủng khiếp đến nỗi cách hai lần cửa, khi nghe thấy, người ta vẫn thấy khiếp sợ. Vào giây phút khi ông trả lời vợ, ông biết rằng ông đã đi đứt rồi, không cứu vãn được, thế là hết rồi, hết hẳn rồi, còn mối hoài nghi thế là đã không được giải quyết và vẫn sẽ cứ là một mối hoài nghi. - U! U-u! U! – ông kêu là bằng các giọng điệu khác nhau. Ông bắt đầu kêu: “Tôi không muốn!” – và cứ thế tiếp tục kêu theo âm “uốn”. Trong suốt ba ngày, ông không nhận ra thời gian, ông giãy giụa trong chiếc túi đen ngòm mà một sức mạnh vô hình không cưỡng lại được đã ném ông vào đó. Ông giãy giụa như kẻ bị án tử hình giãy giụa trong tay đao phủ, biết rằng mình không thể thoát được. Và cứ mỗi phút ông lại cảm thấy rằng bất chấp mọi nỗ lực đấu tranh, ông đang đi ngày càng gần tới chỗ ông khiếp sợ. Ông cảm thấy nỗi đau đớn giày vò ông cả ở chỗ ông đang bị cuốn vào cái lỗ đen ngòm đó và ông càng bị giày vò đau đớn hơn nữa, vì ông không thể lọt qua cái lỗ đó được. Cái ý nghĩ cho rằng cuộc sống của ông là tốt đẹp đã ngăn trở không cho ông chui lọt qua lỗ đó. Chính sự bào chữa cho cuộc sống của mình đã bám chặt, không thả cho ông lăn đi và nó làm cho ông đau đớn nhiều hơn cả. Bỗng nhiên, một sức mạnh nào đó thúc vào ngực, vào sườn ông, ông càng thấy nghẹt thở hơn, ông lăn xuống cái lỗ và ở đấy, tại đáy lỗ có cái gì sáng lóe lên. Tình hình xảy ra với ông cũng giống như khi ông ngồi trên một toa xe lửa: ông tưởng tàu sẽ chạy về phía trước, nhưng nó lại chạy về phía sau, và ông bỗng nhiên nhận ra hướng đi thật của con tàu. ... Mời các bạn đón đọc Cái Chết của Ivan Ilich của tác giả Lev Tolstoy.
Trong Gia Đình - Hector Malot
Trong Gia Đình là một câu chuyện đẹp dành cho những em thiếu nhi và những ai đã trưởng thành. Đến với Trong Gia Đình chúng ta sẽ thấy được rằng nghịch cảnh có khó khăn đến mấy thì chỉ cần chúng ta có niềm lạc quan và biết lao động chăm chỉ thì cũng có thể vượt qua. Cách hành văn của Hector Malot có đôi chút hóm hỉnh, trong sáng, cách xây dựng nhân vật có cá tính rất riêng đã mang đến cho Trong Gia Đình một hơi thở độc đáo và tuyệt vời. Cùng với Không Gia Đình, Trong Gia Đình là một tròng hai tác phẩm nổi triếng nhất cuat Hector Malot và đã từng đoạt giải thưởng của viện hàng lâm văn học Pháp. *** Hector Malot (20 tháng 5, 1830 – 17 tháng 7, 1907) là nhà văn nổi tiếng người Pháp, các tiểu thuyết của ông được nhiều thế hệ độc giả trên thế giới yêu mến. Ông sinh năm 1830 tại La Bouille, miền Bắc nước Pháp. Tác phẩm đầu tay Những người tình (Les Amants) của ông xuất bản năm 1859 đã gây được tiếng vang lớn. Trong sự nghiệp của mình ông đă viết trên 70 tác phẩm. Các tác phẩm Romain Kalbris (1869), Trong gia đình (En Famille 1893) và đặc biệt là Không gia đình (Sans Famille 1878) được các độc giả nhỏ tuổi yêu thích. Ông mất năm 1907 tại Fontenay sous Bois.  *** - Phabry về đó! Ông Vunphran nói bằng một giọng khác thường, trong đó có sự lo ngại chen lẫn với sung sướng nữa. Đúng thế! Phabry đi nhanh vào trong buồng giấy. Ông ấy cũng thế, hình như đang ở trong một trạng thái lạ lùng! Ông ta đưa mắt nhìn Perin trước làm em bối rối, mà chẳng hiểu vì sao. - Xe hỏng máy nên tôi về chậm. – Ông nói. - Anh về, đó mới là cái chính! - Tôi đã đánh điện báo cho ông. - Bức điện của anh ngắn và lờ mờ quá. Khó đem hy vọng lại cho tôi. Cái tôi cần là những khẳng định chắc nịch kia! - Tôi có được phép báo cáo trước mặt cô? - Được chứ, nếu những tin ấy vẫn như anh đã nói. Đây là lần đầu, Phabry báo cáo một nhiệm vụ đặc biệt, mà lại hỏi ông chủ, có thể làm việc ấy khi có mặt Perin không? Em đang bối rối, thì câu chuyện giữa ông Vunphran và Phabry, qua giọng nói cảm động, dáng điệu khác thường của họ chỉ làm tăng thêm nỗi lo lắng cho em. - Như lời dự đoán của vị thám tử của ông, - Phabry nói, và không nhìn Perin. – Cái con người nhiều lần không để lại dấu vết, đã đến Paris. Tại đây, trong lúc đọc cái bản khai tử, người ta đã tìm thấy vào tháng sáu năm ngoái, một bản mang tên Mari Đôrétsany, quả phụ của Étmông Vunphran Panhđavoan. Đây là một bản sao. ... Mời các bạn đón đọc Trong Gia Đình của tác giả Hector Malot.
Một Đứa Con Đã Khôn Ngoan - Nguyễn Công Hoan
Trong truyện Một đứa con đã khôn ngoan, nhà văn giáo dục trẻ em đức tính yêu lấy tiếng Việt. "Ta có tiếng nói riêng. Bổn phận ta là phải giữ lấy tiếng ta, vì tiếng ta tức là tinh thần nước ta". Cậu bé Chỉ trong truyện này chỉ mê tiếng Pháp và cho rằng tiếng Việt không đủ để diễn tả hết mọi suy nghĩ và sự vật. Ngay cả lúc viết thư cho bạn, cậu cũng phải dùng thêm tiếng Pháp. Cậu (bố) của cậu bé Chỉ không đồng ý và phân tích cho cậu rằng: "Con thấy thiếu chứ tiếng ta không thiếu. Nếu thiếu chăng, thì nó thiếu ở ý mới, vật mới xưa kia không có. Còn những ý cũ vật cũ thì tiếng nước ta vẫn đủ như thường. Xem ngay như về gia đình, ta có biết bao nhiêu tiếng: kỵ, cụ, ông, bà, cha, mẹ, con, cháu, chắt, chút, bác, cậu, mợ, dì, cô, thím, âu yếm, thân, hiếu, đễ, từ và biết bao nhiêu tiếng nữa. Lại nói như cách mang đồ đạc, ta có đội, gánh, xách, vác, cầm, khênh, ôm, cõng, bẽ, tải, cắp, khuân, bế, mỗi tiếng một nghĩa riêng" và "Cậu dám đánh cược với ông cử, ông nghè Tây dùng tiếng Pháp mà dịch nổi tiếng "lôi thôi" của ta đấy". Dù được phân tích thấu đáo như thế nhưng cậu bé Chỉ vẫn không tin. Và cậu chỉ thật sự tin khi mợ (mẹ) của cậu bị ốm và nhờ cậu đọc giùm tiểu thuyết tiếng Việt. Cậu bất ngờ là không ngờ nó lại hay đến thế! "Truyện Tây cũng đến thế là cùng". Thật bùi ngùi khi đọc lại những lời của người mẹ nói với con: "Mợ mua sách Quốc văn, được sách hay đã đành, dù phải sách dở mợ cũng vui lòng. Mình không có tài làm cho Quốc văn hay đẹp hơn lên, thì phải có chút khuyến khích những người có công quý hóa ấy vậy". *** Nguyễn Công Hoan sinh ngày 6 tháng 3 năm 1903, tại thôn Xuân Cầu, xã Nghĩa Trụ, huyện Văn Giang, tỉnh Bắc Ninh, nay là tỉnh Hải Hưng, trong một gia đình Nho học. Chính nơi sinh cũng là quê hương ông. Ông bắt đầu viết văn rất sớm, ngay từ khi còn đương học ở trường Bưởi. Tập truyện ngắn đầu tiên của ông là Kiếp hồng nhan xuất hiện năm 1923, khi ông tròn hai mươi tuổi. Từ đó ông viết nhiều truyện ngắn và truyện dài đăng trên các báo đương thời. Năm 1932 ông bắt đầu được bạn đọc chú ý khi cuốn truyện dài Những cảnh khốn nạn ra đời và nổi tiếng sau khi ra tập Kép Tư Bền (1935). Ông viết văn vừa dạy học cho đến Cách mạng tháng Tám. Do tham gia hoạt động trong phong trào Quốc dân đảng của Nguyễn Thái Học rồi Đảng xã hội Pháp, và bắt liên lạc được với những người cộng sản Đông Dương, ông luôn luôn bị Sở mật thám theo dõi. Hai lần ông bị bắt giữ rồi lại được thả vì không đủ chứng cớ kết tội. Lần cuối cùng, ông bị Nhật bắt giam cho đến ngày khởi nghĩa tháng Tám. *** Một buổi sáng, Tâm vừa ngủ dậy, chợt có hai người bịt mặt, lại gần Tâm. Một người giơ lưỡi dao sáng quắc, nói: — Hễ nói, ta đâm chết. Tâm sợ hết hồn, không dám nhúc nhích. Tức thì một người lại ôm lấy Tâm, lấy khăn buộc ngang mắt. Thế là Tâm không trông thấy gì nữa. Tâm hiểu biết rằng lần này ông Bẩy sai đem Tâm đi một nơi khác, mà không muốn cho Tâm biết đường. Tâm im lặng, thì thấy một người lấy cái gậy, gõ vào đầu Tâm, nghiến răng nói: — Bé mà bé hạt tiêu, liệu hồn! Đau nhưng Tâm không dám kêu. Một lát, Tâm ra dáng hiền lành, hỏi: — Các ông định đưa cháu đi đâu? Khốn nạn, Tâm chẳng được một câu trả lời; trái lại, một cái tay có năm ngón như năm quả chuối ngự đã tát mạnh vào má Tâm, khiến Tâm điếng người đi. Một người đắc chí, cười khanh khách, nói: — Rồi cháu đi đâu, cháu khắc biết. Cháu định đưa các ông đi chỗ nào, thì các ông cũng đưa cháu đi chỗ ấy. Tâm vơ vẩn nghĩ mãi câu ấy mà không hiểu. Nào Tâm có định đưa đảng Rổ Bẫy đi đâu đâu. Một người nói: — Kẻo rồi lại hiện làm ma về kêu oán nhé. Tâm giật nẩy mình. Rồi họ nói chuyện cùng nhau: — Tôi đã bảo cứ bẻ cổ nó đi có hơn là dìm xuống sông không? Tâm hết hồn. Đích là họ giết Tâm rồi. Tâm sực nhớ lại ngày trước ông Bẩy có giao hẹn với Tâm. Thì ra nay ông định cho Tâm chết, chứ không phải ông chỉ cho Tâm đi chỗ khác mà thôi. Bỗng Tâm rớt nước mắt, thút thít khóc, thì thình lình một cái bạt tai thật mạnh làm Tâm ngã dúi dụi. Nhưng may quá, Tâm đã nghe rõ ràng tiếng ông Bẩy quát: — Không được thế. Rồi ông Bẩy lại, nắm lấy tay Tâm, dắt đến ghế ngựa, bảo Tâm ngồi đó, rồi hỏi: — Con có oán gì thày không? Tâm không đáp, vì cho là đáp cũng vô ích. — Bất đắc dĩ thày mới xử con tàn nhẫn, con đừng oán thày nhé. Tâm cũng chẳng đáp, bởi vì Tâm cho rằng đến nông nỗi này thì còn mong gì sống nữa. Tâm có mỗi một mình, lại là trẻ con. Đảng Rổ Bẫy làm gì chẳng nổi. Thôi đành vậy, biết làm thế nào? Một lát, Tâm ngửi thấy mùi đồ ăn thơm ngào ngạt. Rồi dễ đến năm bảy người kéo nhau tới. Họ mời nhau ăn uống no say. ... Mời các bạn đón đọc Một Đứa Con Đã Khôn Ngoan của tác giả Nguyễn Công Hoan.
Địa Ngục hay Thiên Đường - Mark Twain
Gia đình bà góa Margaret, đứa con gái Helen, cùng hai người dì Hester và Hannah Gray luôn tôn sùng sự trung thực. Dù chỉ một lần nói dối rồi thú nhận ngay lập tức của Helen cũng đủ khiến hai người dì thấy hổ thẹn. Nhưng để Margaret khỏi chịu thêm đau khổ vì bệnh tật đau đớn, hai người dì đã nói dối Margaret về tình trạng sức khỏe của con gái bà - Helen. Và sau sự ra đi của hai mẹ con Margaret, một thiên thần đã xuất hiện hỏi tội hai người dì. Thiên đường hay địa ngục đang chờ đợi cả hai? *** Samuel Langhorne Clemens, thường được biết tới với bút danh Mark Twain (30/11/1835 – 21/4/1910) được vinh danh là nhà văn khôi hài vĩ đại nhất nước Mĩ – từ lời khuyên bỗ bã dành cho các bé gái, lập trường quái gở về sự sáng tạo và kiệt tác của ông xoay quanh vấn đề thủ dâm. Nhưng đằng sau sự hài hước đầy quyến rũ ấy là sự chiêm nghiệm sâu sắc về tinh thần con người cùng với những rối rắm của nó. Trong The Autobiography of Mark Twain: Volume 1 (tạm dịch: Cuốn tự truyện của Mark Twain: tập 1) (public library) – nơi Twain bàn về sự tương phản, kiềm hãm lẫn nhau của hai khía cạnh đạo đức và trí tuệ – ta bắt gặp câu chuyện cảm động về cách mà mẹ ông đã dạy ông về tầm quan trọng của lòng vị tha. Nếu bạn chưa từng đọc The Autobiography of Mark Twain (tạm dịch: Cuốn tự chuyện của Mark Twain), thì xin hãy cân nhắc – Twain đã dành nhiều thập kỷ để viết nó, nhưng tác phẩm chưa bao giờ được hoàn tất và ông đã cấm con cháu của mình xuất bản bản thảo cho đến 100 năm sau ngày ông mất. Một thế kỉ chờ đợi cũng đáng lắm cho một tác phẩm như vây. *** N ửa đêm, hai bà lão còn ngồi bên nhau, than khóc thì họ tưởng chừng trông thấy một thiên thần hiện ra giữa vầng hào quang chói loà. Thiên thần bảo hai bà: — Những kẻ nói dối sẽ bị đày xuống hoả ngục đời đời. Hai người hãy hối cải đi! Hai bà lão quỳ xuống dưới chân thiên thần và cúi đầu, tỏ lòng tôn kính. Nhưng lưỡi của hai bà cứng lại nên họ đành ngậm câm. — Nói đi, - thiên thần bảo, - nói lên để cho ta có thể mang lời giải đáp ra trước toà án của Thiên Chúa và mang lại cho hai người phán quyết tối hậu. Hai bà vẫn quỳ, hai mái đầu bạc vẫn cúi rập xuống, một người nói — Tội chúng tôi lớn lắm, và chúng tôi rất nhục nhã, tủi hổ. Chỉ có một sự ăn năn, hối cải triệt để mới cứu rỗi được chúng tôi. Chúng tôi là những kẻ khốn khổ đã biết rõ sự yếu đuối của loài người là vô hạn và chúng tôi biết nếu chúng tôi còn bị đẩy vào những tình thế nghiệt ngã thì chúng tôi cũng sẽ phạm tội như trước. Những người cương nghị có thể chống chọi và được cứu rỗi, còn chúng tôi, chúng tôi sẽ sa ngã và đánh mất linh hồn. Hai bà lão ngẩng đầu lên để van xin. Nhưng thiên thần đã biến mất. Trong lúc họ ngạc nhiên và than khóc, thiên thần trở lại và cúi xuống hai bà, nói nhỏ phán quyết. Mời các bạn đón đọc Địa Ngục hay Thiên Đường của tác giả Mark Twain.