Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Dì Ghẻ

Dì ghẻ" là một danh từ cực kì có tính đánh sâu vào mỗi khi nhắc đến. Ai ai cũng sẽ xuất hiện cảm giác chán ghét khi nhắc đến từ này. "Mấy đời bánh đúc có xương, mấy đời dì ghẻ lại thương con chồng". Mọi người ngầm hiểu điều đó, mặc dù không thích nhưng thật sự chẳng mấy ai có thể nói nên lời chê trách. Cái khó, cái khổ của người làm dì ghẻ cũng không phải ai cũng hiểu...  Cuộc sống gia đình của hai đứa trẻ phải ở với mẹ kế sẽ được câu chuyện khắc hoạ lại, đồng thời còn mang đến những trải nghiệm cuộc sống chân thật nhất, những tâm tính, phản ứng, đậm chất tâm lý xã hội, cho nên không tránh khỏi những tình tiết có hơi hướng bạo lực và kích thích. Hi vọng Dì Ghẻ sẽ mang lại cho bạn đọc một cảm nhận chân thực nhất về xã hội. *** Ba ngày hôm sau, Nam lúc này đã tỉnh lại. Ký ức kinh hoàng ngày hôm đó vẫn in sâu vào trong đầu của nó. Lúc mở mắt ra nó đã giật mình hoảng sợ bởi không biết mình đang ở đâu. Khi ấy chú Đại phải lập tức trấn an Nam, đến nay sau mấy ngày Nam phần nào cũng đã ổn định trở lại. Mấy ngày qua nó im lặng không nói gì, cho ăn là ăn, ăn xong lại quay mặt vào tường không muốn nói chuyện với ai cả. Đột nhiên hôm nay nó nhìn chú Đại hỏi một câu khiến chú Đại bất ngờ: - - Bố cháu đâu rồi ạ…? Câu hỏi khiến chú Đại lúng túng, nhưng có vẻ như Nam nó khác với những đứa trẻ khác. Trong khi chú Đại chưa biết trả lời ra sao nó đã nói tiếp: - - Có phải bố cháu chết rồi không..? Một lời nói lạnh lùng phát ra từ miệng một đứa trẻ 16 tuổi với anh mắt nhìn thẳng vào mặt người đối diện khiến chú Đại rùng mình. Chú Đại chỉ biết gật đầu: - - Đúng vậy….Chú...chú...xin…. Nam lặng người một hồi rồi nó ngẩng mặt lên hỏi tiếp, lúc này mắt nó đã rưng rưng nhưng không có giọt lệ nào chảy ra cả: - - Vậy….vậy còn em gái cháu…? Chú Đại nhìn Nam nói: - - Bé Hạnh vẫn an toàn, hiện nó đang ở với cô Thúy, biết cháu sẽ lo cho em nên chú có nhắn cô Thúy chiều nay sẽ đưa Hạnh đến. Còn chuyện bố cháu, thật sự chú xin lỗi….Nhưng cháu đừng lo, chú sẽ thay bố nuôi…. Nam nhìn chú Đại ngắt lời: - - Cháu biết, cháu biết bố cháu vì sao mà chết…..Cháu cũng nhìn thấy bố cháu lúc đó...Chú không có lỗi…. Có vẻ như lúc này đã quá sức chịu đựng đối với một thằng nhóc, hoặc có thể sau khi biết em gái vẫn an toàn thì nó mới được giải tỏa. Chú Đại nhìn nó chảy nước mắt, chú Đại nói: - - Không phải kìm nén nữa, chú hiểu cảm giác của cháu bây giờ như thế nào….Bởi những ngày qua chú cũng thế….Cứ khóc đi, khóc to vào…. Lập tức Nam ngồi trên giường òa khóc, nó khóc nức nở, nó khóc to như chưa bao giờ nó phải chịu một nỗi đau lớn như vậy. Đây là lần thứ hai nó trải qua cảm giác này từ ngày ông ngoại mất. Không, nỗi đau này có gì đó khác hẳn, nỗi đau này còn đau hơn nỗi đau nó mất đi ông ngoại nhiều lần…...Bởi vì nó biết bố nó vì cứu nó mà chết. Chú Đại ôm nó vào lòng rồi cũng ứa nước mắt, chú Đại cố gắng an ủi: - - Không sao, không sao…..Bố cháu nói đây là điều bố cháu có thể làm được duy nhất cho cháu. Bố cháu cảm thấy hạnh phúc khi cháu còn sống….Cháu phải trân trọng điều này. Sau này tất cả sẽ ổn thôi….Còn chú ở đây hai đứa sẽ không phải lo gì cả. Chú sẽ thay bố mẹ chăm sóc cho hai đứa. Nước mắt giàn dụa, nỗi đau mất đi người thân nó thực sự khiến con người ta trở nên yếu đuối. Nhưng khi con người rơi vào hoàn cảnh ấy thì lại càng phải mạnh mẽ. Đầu giờ chiều, Nam đột nhiên thao hết băng trên người ra. Chú Đại thấy thế định ngăn lại thì nó nói: - - Mấy chỗ này có bị sao nữa đâu, chỉ có….. Nhìn xuống ngón tay út nó thoáng buồn, nhưng rối nó nói tiếp: - - Chẳng phái chú bảo lát nữa cô giáo sẽ đưa em cháu vào đây sao...Cháu không thể để nó lo lắng khi nhìn cháu toàn thân băng bó thế này được. Nhìn chú Đại nó hỏi: - - Vậy bà ngoại có biết chuyện của cháu, với bố cháu không ạ..? Chú Đại lắc đầu: - - Không ai biết cả, có chăng chỉ có bác Dung….Nhưng chú cũng nói với bác Dung rồi….Chú sợ bà ngoại sẽ lo lắng, bà vẫn nghĩ hai anh em cháu lên bệnh viện thăm bố. Nam vội đáp: - - Đúng rồi chú đừng nói cho bà cháu biết, bà mà biết là chết đấy. Chú cứ bảo mọi người cháu bị tai nạn là được. Nam khiến chú Đại đi hết từ bất ngờ này sang bất ngờ khác, một thằng nhóc vừa phải trải qua nhiều chuyện kinh hoàng như thế vậy tại sao nó lại có thể bản lĩnh đến vậy. Dường như nó chỉ biết lo cho người khác, đột nhiên chú Đại lại thấy hình ảnh ông Tuấn ở trong Nam ngay lúc này. Nó giống hệt bố nó, cũng chỉ biết lo lắng cho anh em mà quên đi bản thân mình phải hứng chịu những gì. Chú Đại bỗng mỉm cười: - - Được, vậy coi như đây là bí mật của chú cháu mình. Nam gật đầu đồng ý, chiều hôm ấy cô Thúy dẫn bé Hạnh vào bệnh viện thăm Nam, không chỉ có cô Thúy và Hạnh, cả cô bạn gái thân nhất của Nam là Trang cũng đến. Nam mặt vẫn còn hơi bầm, cơ thể vẫn hơi đau nhưng nó cố tỏ ra bình thường khi bé Hạnh vừa mở cửa phòng ra đã lao vào anh như hai anh em lâu ngày không găp: - - Anh Nam …..anh Nam ơi…...Sao anh không đến đón em…? Cú ôm từ con bé khá mạnh khiến Nam cảm thấy đau nhói nhưng nó cười tươi rồi gõ nhẹ vào đầu em nói: - - Không thấy anh bị ốm đây à…? Đồ ngốc này…. Cô Thúy nhìn chú Đại hỏi: - - Mấy hôm nay Nam không đi học, suýt chút nữa là tôi phải ra nhà thông báo rồi ấy. May cho anh là gọi điện kịp thời…. Chú Đại khẽ cười: - - Cảm ơn cô, tôi không muốn bà ngoại của hai đứa lo lắng….Hiện giờ bà nghĩ cả hai đứa vẫn đang đi với tôi. Làm phiền cô giáo rồi….Cảm ơn cô mấy ngày vừa qua, con bé không làm phiền cô chứ…? Cô Thúy nói: - - Nó dễ thương lắm, lại ngoan nữa….Nhưng hay hỏi anh, tôi cứ phải nịnh là anh Nam đi học thêm sắp về nó mới chịu. Có con bé ở cùng mấy ngày qua tôi lại thấy thoải mái. Mà anh bảo Nam vào viện vì lý do gì vậy..? Chú Đại ấp úng vì không biết nói dối thế nào trước phụ nữ, Nam tinh ý bèn nói: - - Dạ thưa cô, mấy hôm trước em bị tai nạn…..Cô nhìn xem, giờ em bị mất một ngón tay út rồi...Hì hì. Vừa nói Nam vừa giơ tay lên khoe để cứu chú Đại, cô Thúy với Trang tròn mắt ra nhìn. Trang xót xa vội cầm tay Nam hỏi: - - Có đau không..? Mà sao lại mất cả một ngón tay….. Vừa nói cô bé vừa trực khóc, bé Hạnh cũng cầm tay anh nhìn nhìn, nó thổi thổi như cách bà ngoại hay làm mỗi khi nó bị thương ở đâu đó. Nam mỉm cười: - - Giờ hết đau rồi, tai nạn mà…..Cũng may mà có chú Đại đưa đi kịp thời. Tuy còn vài chuyện chưa rõ, còn những nghi ngờ muốn hỏi nhưng cô Thúy thấy hai chú cháu dường như cũng không muốn nói thêm nên cô Thúy chỉ trách: - - Bị như thế này mà vẫn còn cười được thì cô chịu em rồi. Nam nhìn chú Đại nói: - - Cháu có thể ra viện được rồi chú ạ….Ở đây chán lắm, để cháu đưa em về bà ngoại. Chú Đại hơi lưỡng lự, tuy nhiên về cơ bản Nam cũng không bị thương nặng. Hơn nữa cũng đã 4 ngày trôi qua, nếu không đưa hai anh em về bà ngoại sẽ lo lắng. Bằng chứng là ngày hôm qua bác Dung đã gọi điện cho chú Đại hỏi han rồi. Chú Đại cũng muốn nhanh chóng làm đám tang cho ông Tuấn, khi mà mọi chuyện vừa trôi qua còn quá nhiều việc phải lo thì xác ông Tuấn lúc này đang được bảo quản trong kho lạnh của một lưu giữ tử thi. Mấy hôm nay nghe ngóng thông tin thì dường như phía công an cũng chưa hoặc không phát hiện được gì cả. Suy cho cùng tất cả những kẻ có liên quan đều đã chết banh xác sau vụ nổ. Chú Đại cũng cần phải tổ chức tang lễ cho anh của mình. Vậy là chú Đại đồng ý, Nam được xuất viện, hai anh em được chú Đại chở về nhà bà ngoại, trên xe Nam khẽ hỏi: - - Liệu sau này….? Chú Đại đáp: - - Đừng lo, mọi chuyện xong hết rồi…..Cái chính là mọi người sẽ chấp nhận chuyện này thế nào thôi. Nam im lặng. nó nhìn bé Hạnh, con bé vẫn chưa biết rằng bố nó đã chết. Đột nhiên Nam nhớ tới mụ Hường: - - Vậy còn, bà Dì Ghẻ thì sao ạ…? Chú Đại im lặng một lát rồi đáp: - - Bà ấy trốn rồi, sẽ không bao giờ quay lại nữa đâu. Chú Đại và Nam không còn cách nào khác ngoài chuyện nói dối bà ngoại, bà ngoại chỉ biết Nam bị tai nạn nhẹ, nhưng đau xót nhất vẫn là ngón tay út của Nam. Ba ngày tiếp theo chú Đại đến thông báo cho bà ngoại việc ông Tuấn mất, lý do đó là vết thương lần trước tái phát, rách ra không qua khỏi. Bà ngoại nhìn hai đứa cháu buồn bã bởi từ nay thì cả hai đứa đã thật sự trở thành trẻ mồ côi. Đám tang ông Tuấn được tổ chức long trọng, ngày hôm đó tất cả những anh em của ông Tuấn đều mặc đồ đen xếp hàng ngay ngắn để tưởng nhớ người đàn anh đáng kính lần cuối cùng. Nam cả ngày hôm đó không khóc, bởi nó đã khóc quá nhiều trước đó rồi. Từ những bà cô bên đằng nội đến những người bạn của mụ Hường trước đây không có cảm tình với anh em nó đều nói nó là thằng nhóc máu lạnh. Bé Hạnh lại một lần nữa kéo tay anh hỏi: - - Bố đi đâu rồi hả anh..? Nam nắm tay em mỉm cười rồi khẽ đáp: - - Bố hôm nay đi gặp ông ngoại rồi em ạ…. Bé Hạnh hỏi tiếp: - - Vậy bao giờ bố về…? Câu hỏi của Hạnh khiến mắt Nam ướt đẫm, nhưng nó hít một hơi dài thật sâu rồi trả lời em gái: - - Khi nào em lớn bố sẽ về…… Cô Thúy cũng có mặt trong đám tang, nhìn những người đến dự, nhìn anh em xã hội của ông Tuấn đến viếng, nhìn chú Đại, cô chợt nhớ đến cái hôm chú Đại chở Hạnh đến nhà cô gửi, rồi nhớ đến hôm Nam ở trong bệnh viện….Cả vụ nổ gây xôn xao dư luận những ngày qua. Cô Thúy biết mọi chuyện không như lời chú Đại nói….Vẫn như vậy, cuộc sống của chú Đại vẫn là một ẩn số lớn đối với cô giáo. Cũng từ sau hôm đó, chú Đại không liên lạc gì với cô nữa. Ngay lúc này đây tuy đứng cách nhau chỉ tầm vài mét nhưng khoảng cách giữa hai người chưa bao giờ lại xa đến thế. Cái thế giới mà cả hai đang sống dường như khác nhau một cách đối nghịch, sau khi làm lễ thắp nhang cho bố Nam, cô Thúy quay mặt đi ngang qua chú Đại lúc này đang đứng cạnh linh cữu đáp lễ mọi người. Mặt đối mặt nhưng dường như ánh mắt của họ không hề chạm nhau. Có lẽ cả hai đều hiểu: Cuộc sống của người này sẽ tốt hơn khi không có người kia. Sau tất cả mọi chuyện, cái mà hai người giữ lại cho nhau chỉ là hai bức thư không có lời đáp. Mỗi người mang một cung bậc cảm xúc khác nhau, đứng bên này Nam cũng nhận ra điều không bình thường giữa hai người lớn. Nó nói với chú Đại: - - Chú có biết khi cháu kể chú thích cô giáo bố cháu vui thế nào không..? Chú Đại quay sang nhìn Nam rồi gật đầu đáp: - - Thằng quỷ….Sao mày dám kể … Nam hướng mắt nhìn theo cô Thúy, chú Đại khẽ nói: - - Long, đứng đây thay anh...Anh phải đi có chút việc. Anh không để anh Tuấn phải thất vọng được. Long gật đầu, đúng là một tình huống trớ trêu chỉ có thể xảy ra bởi những con người không bình thường. Nhưng đâu có sao, bởi nếu bỏ qua cơ hội thì đó mới là điều đáng tiếc. Mọi người đều nói sai thì sửa nhưng trong cuộc sống có những sai lầm khi bạn nhận ra và muốn sửa sai thì đã không còn cơ hội. Có những thứ thiêng liêng xung quanh mà bạn chưa từng trân trọng để rồi khi mất đi bạn mới khóc thì đã quá muộn, Nước mắt hay lời xin lỗi không thể giúp bạn lấy lại bất cứ một thứ gì cả, nó chỉ khiến bạn cảm thấy đau đớn hơn mà thôi. Thay vì khóc lóc, đau buồn hãy sống làm sao cho bản thân cảm thấy sự tồn tại của mình có ý nghĩa. Vài tháng sau, theo như kế hoạch từ trước, chú Đại xin phép đón bé Hạnh lên Hà Nội để chăm sóc. Chú muốn đón cả ba bà cháu đi nhưng Nam và bà ngoại muốn ở lại để còn hương khói cho ông ngoại. Bản thân Nam cũng bị bà ngoại “ đuổi “ vì lo cho tương lai của cháu nhưng nó nhất quyết không chịu. Nó nói để bé Hạnh ở với chú Đại còn nó sẽ ở đây chăm sóc bà ngoại. Chú Đại dặn nó phải canh chừng cô Thúy giúp chú. Lần này nó không buồn khi phải xa em gái nữa, bởi sau tất cả nó biết chú Đại sẽ chăm sóc bé Hạnh rất tốt. Con bé sẽ được vui vẻ, chỉ một thời gian ngắn mà Nam đã thay đổi rất nhiều, sau đám tang của bố, Nam chững chạc hơn, ra dáng đàn ông mặc dù năm nay nó chỉ bước qua tuổi 17. Một ngày được nghỉ, Nam chở Trang ra thăm mộ của bố. Khi nó đến đã thấy một người đàn ông ăn mặc lôi thôi, đội cái mũ rộng vành đứng trước mộ bố nó, trên tay cầm một bó hoa trắng đặt xuống dưới mộ. Nam tiến lại gần thì lập tức người đó quay lại. Nam lễ phép: - - Cháu chào chú….Chú là bạn của bố cháu phải không ạ…? Người này không trả lời, khẽ lấy tay kéo cái mũ xuống hắn đi qua Nam. Nam có cảm giác dường như đã thấy người này ở đâu rồi, khuôn mặt đen xì, dáng người, dáng đi hình như Nam đã nhìn thấy ở đâu. Nhưng có một điều khiến nãy giờ Nam thấy lạnh cứng người đó là vừa rồi chỉ nhìn qua ánh mắt sắc lẹm, lạnh lùng của người đó Nam thấy như bị áp đảo. Nơi ngón tay út bị cắn bỗng nhiên có cảm giác nhói mặc dù vết thương đã lành từ lâu. Trang thấy bạn đứng yên bèn đi lại lay người hỏi: - - Cậu làm sao đấy..? Người kia là người quen à..? Nam ấp úng: - - Ơ...ơ….không sao….Tớ cũng không rõ, chắc là bạn của bố. Hai bạn trẻ đặt hoa, nhổ cỏ xung quanh mộ. Đứng ở một góc khuất kẻ đội mũ rộng vành kia vẫn đang quan sát hai đứa, hắn sụp hẳn cái mũ xuống rồi quay đi, miệng khẽ nói: - - Đại ca, thằng bé quả thật rất giống anh…...Vậy là em lại phải sống thêm một khoảng thời gian nữa rồi. - ------Kết Thúc------- Cảm ơn các bạn đã theo dõi bộ truyện dài nhất của mình cho tới thời điểm hiện tại. Có thể kết không hay, không được như mong muốn của mọi người nhưng một lần nữa cảm ơn tất cả đã ủng hộ mình cho đến lúc này. Hẹn gặp lại các bạn trong những bộ truyện khác. Thanks All My Friends Mời các bạn đón đọc Dì Ghẻ của tác giả Trường Lê.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Nhà Khổ Hạnh Và Gã Lang Thang - Hermann Hesse
Tập tu ở tu viện Mariabronn, Narcisse nổi bật bởi năng lực trí tuệ và văn hoá của mình. Người ta giao phó cho thầy cậu học sinh Goldmund mà thân sinh cậu ta muốn định phận làm một tu sĩ: để chuộc tội cho cuộc sống xáo động trong quá khứ của thân mẫu cậu. Narcisse kết bạn với chú em thông minh ấy. Thầy cảm nhận khuynh hướng của cậu không phải ở tu viện, và giúp cậu chọn con đường đi. Từ ấy, Goldmund lao vào sống lang thang: trải qua các cuộc phiêu lưu tình ái, cậu tha thiết bắt gặp được tiện mạo lý tưởng của người phụ nữ "Êva vĩnh cửu", gương mặt thần tượng có thể thay cho thân mẫu cậu đã qua đời. Goldmund trải qua mọi nỗi gian truân, phạm nhiều lỗi lầm trong cuộc sống nay đây mai đó. Không phải Goldmund không ý thức về bản ngã, các điều đối lập nhau trong tâm hồn và xúc cảm của mình. Trong một giờ khắc suy tư tỉnh táo và sâu lắng, cậu quyết định trở thành một nhà điêu khắc: nghệ thuật là phương sách để tìm cái đẹp. Tuy vậy, cậu lại ra đi, cuốn hút theo cuộc sống lang thang... Narcisse và Goldmand kết thân với nhau; tư chất, lối sống, số phận của họ khác nhau, nhưng họ có những điểm gặp để hiểu và yêu quý nhau, để bổ sung cho nhau, khi còn trẻ cũng như về sau này. *** Văn hào lỗi lạc người Đức Hermann Hesse sinh ngày 2/7/1877 tại Đức. Cha mẹ ông đều là những nhà truyền giáo từng làm nhiệm vụ ở Ấn Độ, còn ông ngoại là nhà nghiên cứu nổi tiếng về Ấn Độ, bởi vậy tư tưởng của Hesse chịu ảnh hưởng sâu sắc của Phật giáo. Cảnh gia đình trí thức ngoan đạo với sự pha trộn của nhiều nền văn hoá khác nhau ảnh hưởng rất sâu đậm trong con người nhà văn Hermann Hesse. Tâm hồn ông luôn chuyển động giữa hai cực Đông - Tây để đi tìm một nhân loại thuần khiết, một nhân loại sống trong cảnh bình yên. Hermann Hesse khởi nghiệp sáng tác bằng thơ ca năm 1898, với tập thơ "Romantische Lieder" (Các bài hát lãng mạn). Tuy nhiên, tên tuổi ông được biết đến nhiều hơn qua các tiểu thuyết "Peter Camenzind", "Demien", "Steppenwolf" (Sói đồng hoang), "Siddhartha" và "Das Glasperlenspiel" (Trò chơi với chuỗi hạt cườm). Con đường sáng tác của Hesse đi từ tình cảm cô đơn và nỗi buồn lãng mạn của cuối thế kỷ XIX đến tầm nhìn xa trông rộng, có trách nhiệm đối với xã hội ở thế kỷ XX, ước mơ và tin chắc vào tương lai tốt đẹp hơn của con người. Hermann Hesse đã từng viết : "Dù bị đau đớn quằn quại, tôi vẫn tha thiết yêu thương trần gian điên dại này". Cuộc đời ông đã trải qua vô vàn những thăng trầm đau đớn, nhưng ông vẫn miệt mài sáng tạo. Năm 1946 ông được tặng Giải Goethe và Giải Nobel Văn học. *** Mùa hạ lướt qua, những loài hoa trổ bông mùa hè cũng tàn rụi dần rồi mất hẳn. Ếch nhái im tiếng trong ao vũng. Cò hạc tung cánh bay xa, và Đan Thanh trở về. Chàng về đến một buổi trưa, mưa bay lất phất, không vào tu viện, từ cổng lớn chàng bước thẳng vào xưởng mỹ nghệ. Chàng đi bộ, không mang theo ngựa. Bảo Ân giựt mình khi thấy chàng bước vào. Dù nhận ra chàng ngay thoáng nhìn đầu tiên, cậu ta vẫn bàng hoàng khi chào đón chàng, người trở về dáng dấp hoàn toàn khác lạ: không phải là Đan Thanh thật, mà già đi nhiều tuổi, mặt mũi bơ phờ, đầy bụi và nhăn nhíu, với đôi má hóp bệnh hoạn, cặp mắt như đau đớn, nhưng chàng không lộ vẻ gì thống khổ, nụ cười vẫn nở trên môi, một nụ cười quen thuộc, già cỗi và kiên nhẫn. Chàng bước đi khó nhọc, hai chân lê lết, có vẻ như nhuốm bệnh và quá mệt mỏi. Một Đan Thanh lột xác khác lạ đang nhìn cậu tập sự với đôi mắt dị thường. Chàng trở về trong âm thầm, như chưa hề rời xa nơi đây giây phút nào và bước vào xưởng như từ phòng bên cạnh. Chàng bắt tay Bảo Ân, không nói gì, không chào hỏi hoặc kể chuyện. Chàng chỉ nói: Tôi muốn ngủ,” dáng điệu thật mệt mỏi. Chàng gọi Bảo Ân đi chỗ khác và vào phòng riêng cạnh xưởng. Chàng cất mũ để nước mưa nhiễu xuống, cởi giày và đến gần giường. Bên trong là tượng Đức Mẹ phủ tấm vải che, chàng gật đầu nhưng không tháo vải che xuống để mừng đón. Chàng tiến đến khung cửa sổ, thấy Bảo Ân bứt rứt đứng chờ bên ngoài, chàng lên tiếng gọi: “Bảo Ân, cậu không cần nói với bất cứ ai là tôi đã về. Tôi mệt lắm. Hãy đợi đến mai!” ... Mời các bạn đón đọc Nhà Khổ Hạnh Và Gã Lang Thang của tác giả Hermann Hesse.
Người Mẹ - Pearl S. Buck
Pearl Buck (tên thật là Pearl Comfort Sydenstricker, có tên Trung Quốc là Trại Chân Châu) là con một nhà truyền giáo người Mỹ. Sau khi ra đời chưa đầy 5 tháng, bà đã được cha mẹ đưa sang Trung Quốc sinh sống. Từ nhỏ và suốt cả cuộc đời bà yêu mến và thích tìm hiểu cuộc sống của người dân Trung Quốc, cảm thông với những người dân địa phương bị nhiều tầng áp bức. Năm 1938 Pearl Buck nhận giải thưởng Nobel vì các tác phẩm mô tả đời sống nông thôn Trung Hoa một cách phong phú và xác thực (chủ yếu với tiểu thuyết Đất Lành và hai cuốn tự truyện Người Tha Hương (1936) viết về người mẹ và Thiên Thần Chiến Đấu (1936) viết về cha của bà). Sau khi nhận giải, Pearl Buck tiếp tục sáng tác rất nhiều, ngoài văn xuôi bà còn viết kịch, kịch bản phim, tiểu luận và sách cho thiếu nhi. Bà cũng là người đã dịch Thủy Hử (All men are brothers) và một số tác phẩm văn học Trung Quốc sang tiếng Anh. Cuối đời, bà quan tâm đến đề tài các nhà bác học nguyên tử buộc phải chế tạo vũ khí giết người hàng loạt. Đồng thời, bà tích cực tham gia các hoạt động từ thiện, xã hội như: sáng lập ra tổ chức không vụ lợi Hiệp hội Đông Tây (The East and West Association, 1941) nhằm truyền bá những hiểu biết giữa các dân tộc trên thế giới; cùng chồng lập nên tổ chức Căn nhà tình nghĩa (Welcome Home, 1949) giúp trẻ mồ côi; lập ra Quỹ Pearl S. Buck (The Pearl S. Buck Foundation, 1963) và tặng cho quỹ này 7 triệu đôla. • Tác phẩm đã dịch ra tiếng Việt: Gió Đông, gió Tây; Ảo vọng; Sống vì đất; Tiếng gọi đồng quê; Lá thư Bắc Kinh; Tình yêu sau cùng; Người mẹ; Nhớ cảnh nhớ người; Yêu muộn; Nạn nhân buổi giao thời; Mấy người con trai Vương Long; Đứa con người yêu; Một phút một đời; Một lòng với em; Một cuộc hôn nhân; Lưu đày; Lưu đày biệt xứ; Cánh hoa e ấp; Đông phương huyền bí qua truyện cổ thần tiên; Truyện Đông phương; Người vợ tiên; Những người đàn bà tuyệt vời trong gia đình Kennedy; Những người đàn bà trong gia đình Kennedy; Tà áo xanh; Nỗi buồn nhược tiểu; Người yêu nước; Ngoài chân mây; Hứa hẹn; Bão loạn; Mẫu đơn; Quỷ địa ngục chẳng bao giờ ngủ; Yêu mãi còn yêu; Ba người con gái của Lương phu nhân; Trái tim kiêu hãnh; Một trái tim tự hào; Biên giới tình yêu; Tình cõi chân mây; Nô tì Mẫu Đơn; Đóa hoa ẩn mình; Trang; Người thành phố; Bí mật đời nàng; Người yêu nước; Thiên Hậu; Người cung nữ; Từ Hi Thái hậu; Con rồng linh diệu; Hạt giống của rồng; Vương Nguyên; Đất lành; Chuyện Kinh Thánh; Những người con của tiến sĩ Lương; Tiếng nói trong nhà; Tử thần và rạng đông; Người mẹ; Những mảnh hồn sầu xứ. Mời các bạn đón đọc Người Mẹ của tác giả Pearl S. Buck.
Ngài Đại Tá Chờ Thư - Gabriel García Márquez
G. Garcia Marquez  nói : Trên thực tế mỗi nhà văn chỉ viết có một cuốn sách. Cuốn sách tôi đang viết là cuốn sách nói về cái cô đơn.  Trong tác phẩm của ông, cái cô đơn được biểu hiện như là mặt trái của sự đoàn kết, như là sự tách mình khỏi cộng đồng xã hội của con người, hay nói khác đi, đó là những biểu hiện khác nhau của chủ nghĩa cá nhân ích kỷ của con người trong xã hội tư bản. Đó là những típ người đã tha hoá xuống hạng người - thú, người - công cụ - những loại người ở mức dưới Người...  *** Gabriel Garcia Márquez (sinh năm 1927) tại Aracataca, một thị trấn bên bờ biển Caribê, thuộc miền Bắc Columbia, ông là nhà văn nổi tiếng người Colombia. Ngoài viết văn ông còn là một nhà báo và một nhà hoạt động chính trị. Ông được biết đến với các tiểu thuyết Tình yêu thời thổ tả, Mùa thu của vị trưởng lão, Hồi ức về những cô gái điếm buồn của tôi, Trăm năm cô đơn... Gabriel Garcia Márquez sinh ra và lớn lên tại một gia đình trung lưu gồm 11 người con và ông là anh cả. Những năm đầu tiên học tại đại học Quốc gia Colombia Márquez đã bắt đầu tham gia viết báo và bắt đầu những tác phẩm văn học đầu tiên gồm 10 truyện ngắn nổi tiếng. Sau khi học được năm kỳ, ông quyết định bỏ học rồi chuyển về Barranquilla thực sự bước vào nghề báo và viết tiểu quyết đầu tay La hojarasca (Bão lá). Trong năm 1955, ông tới Thụy Sỹ làm đặc phái viên của tờ El Espectador. Sau đó qua Ý học tại Trung tâm thực nghiệm điện ảnh rồi sang Paris sinh sống trong điều kiện vật chất vô cùng khó khăn. Trong thời gian này ông viết cuốn tiểu thuyết La mala hora (giờ xấu), đồng thời tách từ cuốn này viết nên El coronel no tiene quien le escriba (Ngài đại tá chờ thư). Năm 1982 ông nhận giải Nobel văn học cho những cống hiến của mình. Sau đó ông vẫn tiếp tục sáng tác và có nhiều tác phẩm giá trị, ngày càng khẳng định được tên tuổi trên văn đàn thế giới. *** Tác phẩm đã dịch ra tiếng Việt: - Ký sự về một cái chết đã được báo trước (tiểu thuyết), Nguyễn Mạnh Tứ dịch, NXB Văn Học, 1983. - Ngài đại tá chờ thư (tập truyện), Nguyễn Trung Đức - Phạm Đình Lợi - Nguyễn Mạnh Tứ dịch, NXB Văn Học, 1983; 2001. - Người chết trôi đẹp nhất trần gian, Nguyễn Trung Đức dịch, NXB Hải Phòng - NXB Đồng Nai, 1987. - Giờ xấu (tiểu thuyết), Nguyễn Trung Đức dịch, NXB Thanh Niên, 1989; NXB Văn Học, 2001. - Tướng quân giữa mê hồn trận (tiểu thuyết), Nguyễn Trung Đức dịch, NXB Văn Học, 1990; NXB Hội Nhà Văn, 1999.  - Mười hai truyện phiêu dạt (tập truyện), Nguyễn Trung Đức dịch, NXB Quân Đội Nhân Dân, 1995; NXB Văn Học, 2004. - Tình yêu thời thổ tả (tiểu thuyết), Nguyễn Trung Đức dịch, NXB Văn Học, 1995; 2000. - Trăm năm cô đơn (tiểu thuyết), Nguyễn Trung Đức - Phạm Đình Lợi - Nguyễn Quốc Dũng dịch, NXB Văn Học, 1986; 1992; 1999; 2000. - 36 truyện đặc sắc (tập truyện ngắn), Nguyễn Trung Đức dịch, NXB Văn Học, 2001. - Tin tức về một vụ bắt cóc (tiểu thuyết), Đoàn Đình Ca dịch, NXB Đà Nẵng, 1998; NXB Văn Nghệ TP. HCM, 2001. - Những người hành hương kì lạ (tập truyện ngắn), Phan Quang Định dịch, NXB Thanh Niên, 2002. - Tuyển tập truyện ngắn, Nguyễn Trung Đức dịch, NXB Văn Học, 2004. - Sống để kể lại (hồi kí), Lê Xuân Quỳnh dịch, NXB TP. Hồ Chí Minh, 2005. - Ông già và đôi cánh khổng lồ, Nguyễn Trung Đức dịch, in trong Tập truyện ngắn nước ngoài chọn lọc, NX B Quân Đội Nhân Dân, 1998; Tuyển tập truyện ngắn Châu Mỹ Latinh, NXB Hội Nhà Văn, 1999. - Làng này không có kẻ trộm, Quà Tết, Nguyễn Trung Đức dịch, in trong Truyện ngắn chọn lọc - tác giả đoạt giải Nobel, NXB Hội Nhà Văn, 1998; Tuyển tập truyện ngắn các tác giả đoạt giải Nobel, NXB Hội Nhà Văn, 2004. - Dấu máu em trên tuyết (tập truyện), Nguyễn Trung Đức dịch, NXB Đà Nẵng, 1997. - Máy bay của người đẹp ngủ, Gió Bắc, Mùa hè hạnh phúc của bà Phorớt, Thánh bà, Người bạn Mutit của tôi, Thưa Tổng thống - chúc ngài thượng lộ bình an, Dấu máu em trên tuyết, Nguyễn Trung Đức dịch; Giấc ngủ trưa ngày thứ ba, Nguyễn Kim Thạch dịch, in trong Tuyển tập truyện ngắn Châu Mỹ Latinh, NXB Hội Nhà Văn, 1999. - Chuyện buồn không thể tin được của Êrênhđira ngây thơ và người bà bất lương, Nguyễn Trung Đức dịch, in trong cuốn Thời cơ của Matraga, NXB Mũi Cà Mau, 1986; Những truyện ngắn nổi tiếng thế giới, NXB Hội Nhà Văn, 1999. - Buổi chiều tuyệt vời của Bantaxa, Dương Tường dịch; Thần chết thường ẩn sau ái tình, Người chết trôi đẹp nhất trần gian, Nguyễn Trung Đức dịch, in trong Tuyển tập truyện ngắn các tác giả đoạt giải Nobel, NXB Văn Học, 1999. - Biển của thời đã mất, Nguyễn Trung Đức dịch, in trong Truyện ngắn chọn lọc - tác giả đoạt giải Nobel, NXB Hội Nhà Văn, 1998; Tuyển tập truyện ngắn các tác giả đoạt giải Nobel, NXB Văn Học, 1999; Truyện ngắn Châu Mỹ, NXB Văn Học, 2000; Tuyển tập truyện ngắn các tác giả đoạt giải Nobel, NXB Hội Nhà Văn, 2004. - Bà Maria Dos Przeres, Đoàn Đình Ca dịch, in trong Truyện ngắn Châu Mỹ, NXB Văn Học, 2000. - Đôi mắt chó xanh, Nguyễn Trung Đức dịch, in trong Truyện ngắn Châu Mỹ, NXB Văn Học, 2000; Truyện ngắn chọn lọc - tác giả đoạt giải Nobel, NXB Hội Nhà Văn, 1998; Tuyển tập truyện ngắn các tác giả đoạt giải Nobel, NXB Hội Nhà Văn, 2004. - Thần chết thường ẩn sau ái tình, Nguyễn Trung Đức dịch, in trong Truyện ngắn đặc sắc các tác giả đoạt giải Nobel, NXB Văn Học, 2004. *** Êrênhđira đang tắm cho bà nội thì cơn gió bất hạnh của đời cô cũng bắt đầu nổi lên. Căn nhà khổng lồ, tường đã lở vôi, vốn đã xiêu vẹo trong cảnh cô đơn của hoang mạc, rùng mình ngay từ cơn gió giật đầu tiên. Nhưng Êrênhđira và người bà đã quen với những nguy hiểm của thiên nhiên hung bạo ấy, cho nên cả hai người, đang ở trong buồng tắm, cái buồng tắm được trang trí bằng những chiếc lông công bện lại và bằng những bức khảm nổi thường dùng trong các nhà tắm thời các Hoàng đế Xêda – hầu như không nhận ra được sức gió mạnh tới mức nào.   Bà già, trần truồng và khổng lồ như một con cá voi, nằm trong chậu tắm bằng đá hoa cương. Cô cháu vừa xấp xỉ tuổi mười bốn, dáng người mảnh khảnh và quá ngây thơ so với tuổi của mình. Với cử động thong thả mang vẻ kính cẩn, cô cháu tắm cho bà mình bằng thứ nước lá thơm mà cứ mỗi bận dội nước xong, lá bám vào cái lưng nần nẫn, lá bám vào mái tóc ngã màu cước, lá bám trên đôi vai vạm vỡ có xăm hình nhăng nhít với vẻ giễu cợt của các thủy thủ.   - Đêm qua bà nằm mơ thấy mình đang chờ thư – người bà nói.   Êrênhđira, vốn chỉ nói khi thật cần thiết, hỏi bà:   - Bà nằm mơ vào hôm nào cơ?   - Vào ngày thứ Năm!   - Vậy là một lá thư buồn bã ạ! Nhưng có lẽ không khi nào nó tới, bà đừng lo!   Khi tắm xong cho bà già, cô cháu dắt bà mình vào phòng riêng. Bà già béo ục ịch tới mức mỗi bận đi lại bà phải vịn vào vai cô cháu hay chống một cái ba-toong giống hệt cây gậy của Đức giáo chủ. Nhưng trong những cử chỉ nặng nề ấy của bà già, người ta vẫn nhận ra cái vẻ oai phong của lối sống vương giả đã hết thời. Trong căn phòng bày biện có phần hơi bừa bãi y hệt sự bày biện trong toàn căn nhà, Êrênhđira phải mất hai giờ liền mới trang điểm xong cho bà nội mình. Trước tiên cô cháu gỡ từng sợi tóc một, xức nước hoa và chải mượt mái tóc cho bà sau đó mặc cho bà bộ váy hoa sặc sỡ. Cuối cùng cô tô điểm cho bà: thoa phấn da mặt, tô môi son, đánh má hồng, tô móng tay. Khi trang điểm xong cho bà mình như trang điểm cho con búp bê có cỡ người thực, Êrênhđira dẫn bà ra vườn hoa, cái vườn hoa nở toàn hoa sặc sỡ y hệt màu hoa trên váy áo bà, rồi để bà ngồi trên chiếc ghế có tay dựa y như chiếc ngai vàng của các đấng Quân vương, một mình lặng lẽ nghe đĩa hát. ... Mời các bạn đón đọc Ngài Đại Tá Chờ Thư của tác giả Gabriel García Márquez.
Narcisse và Goldmund - Hermann Hesse
Tập tu ở tu viện Mariabronn, Narcisse nổi bật bởi năng lực trí tuệ và văn hoá của mình. Người ta giao phó cho thầy cậu học sinh Goldmund mà thân sinh cậu ta muốn định phận làm một tu sĩ: để chuộc tội cho cuộc sống xáo động trong quá khứ của thân mẫu cậu. Narcisse kết bạn với chú em thông minh ấy. Thầy cảm nhận khuynh hướng của cậu không phải ở tu viện, và giúp cậu chọn con đường đi. Từ ấy, Goldmund lao vào sống lang thang: trải qua các cuộc phiêu lưu tình ái, cậu tha thiết bắt gặp được tiện mạo lý tưởng của người phụ nữ "Êva vĩnh cửu", gương mặt thần tượng có thể thay cho thân mẫu cậu đã qua đời. Goldmund trải qua mọi nỗi gian truân, phạm nhiều lỗi lầm trong cuộc sống nay đây mai đó. Không phải Goldmund không ý thức về bản ngã, các điều đối lập nhau trong tâm hồn và xúc cảm của mình. Trong một giờ khắc suy tư tỉnh táo và sâu lắng, cậu quyết định trở thành một nhà điêu khắc: nghệ thuật là phương sách để tìm cái đẹp. Tuy vậy, cậu lại ra đi, cuốn hút theo cuộc sống lang thang... Narcisse và Goldmand kết thân với nhau; tư chất, lối sống, số phận của họ khác nhau, nhưng họ có những điểm gặp để hiểu và yêu quý nhau, để bổ sung cho nhau, khi còn trẻ cũng như về sau này.  *** Văn hào lỗi lạc người Đức Hermann Hesse sinh ngày 2/7/1877 tại Đức. Cha mẹ ông đều là những nhà truyền giáo từng làm nhiệm vụ ở Ấn Độ, còn ông ngoại là nhà nghiên cứu nổi tiếng về Ấn Độ, bởi vậy tư tưởng của Hesse chịu ảnh hưởng sâu sắc của Phật giáo. Cảnh gia đình trí thức ngoan đạo với sự pha trộn của nhiều nền văn hoá khác nhau ảnh hưởng rất sâu đậm trong con người nhà văn Hermann Hesse. Tâm hồn ông luôn chuyển động giữa hai cực Đông - Tây để đi tìm một nhân loại thuần khiết, một nhân loại sống trong cảnh bình yên. Hermann Hesse khởi nghiệp sáng tác bằng thơ ca năm 1898, với tập thơ "Romantische Lieder" (Các bài hát lãng mạn). Tuy nhiên, tên tuổi ông được biết đến nhiều hơn qua các tiểu thuyết "Peter Camenzind", "Demien", "Steppenwolf" (Sói đồng hoang), "Siddhartha" và "Das Glasperlenspiel" (Trò chơi với chuỗi hạt cườm). Con đường sáng tác của Hesse đi từ tình cảm cô đơn và nỗi buồn lãng mạn của cuối thế kỷ XIX đến tầm nhìn xa trông rộng, có trách nhiệm đối với xã hội ở thế kỷ XX, ước mơ và tin chắc vào tương lai tốt đẹp hơn của con người. Hermann Hesse đã từng viết : "Dù bị đau đớn quằn quại, tôi vẫn tha thiết yêu thương trần gian điên dại này". Cuộc đời ông đã trải qua vô vàn những thăng trầm đau đớn, nhưng ông vẫn miệt mài sáng tạo. Năm 1946 ông được tặng Giải Goethe và Giải Nobel Văn học. *** M ùa hè trôi qua, hoa phù dung, cúc lam, hoa cây đen và cúc sao tàn rơi, ếch nhái trong ao im tiếng, lũ cò bay lên cao, chuẩn bị ra đi. Bấy giờ Goldmund lại trở về. Một chiều mù sương, cậu trở về, không vào tu viện mà đi thẳng đến cổng vào gian xưởng của mình. Cậu đi bộ, không có ngựa nữa. Erich hoảng hốt khi thấy thầy bước vào. Chú thợ bạn nhận ra ngay thầy qua cái nhìn đầu tiên, con tim chú nhưng muốn bay ra đón thầy, nhưng dường như đây là một người hoàn toàn khác lạ: Một Goldmund giả, già đi nhiều năm, bộ mặt gần như tàn tạ, đầy phong trần, héo hon, nhăn nheo, bệnh hoạn, đau khổ, nhưng không để lộ mình đang đau đớn mà điểm một nụ cười nhân từ và kiên nhẫn. Goldmund kéo lê bước chân vật vã và dường như rất uể oải, mệt nhọc. Cậu Goldmund biến dạng và không ai nhận ra ấy chăm chăm nhìn chú thợ bạn trẻ với một con mắt kỳ lạ. Chuyến trở về của cậu rất kín đáo; cậu ứng xử như mình vừa ở căn phòng bên cạnh, như thể mới chốc lát vừa rồi, cậu đã ở đây. Chìa bàn tay cho người học trò, cậu không nói gì, không chào hỏi, chỉ bảo: “Ta cần ngủ”, có vẻ rất mệt nhọc. Cậu cho Erich đi nơi khác và sang phòng của mình ở bên cạnh gian xưởng. Nơi đây, cậu dỡ mũ và đánh rơi xuống đất, cởi giày và lại bên chiếc giường. Trong góc phòng, dưới lớp rào che, cậu nhận ra pho tượng Đức Mẹ Đồng Trinh của mình, ra một dấu hiệu tỏ ý bạn bè nhưng không dở lớp vải che và không chào hình ảnh ấy. Ngược lại, cậu xuất hiện ở khung cửa sổ nhỏ, nhìn thấy Erich ở ngoài sân đang bối rối, và cậu lên tiếng réo gọi: - Erich, cháu không cần báo với bất cứ ai là ta đã trở về. Ta đang rất mệt. Từ bây giờ đến mai, còn thời gian. Sau đó, cậu để nguyên quần áo đang mặc, nằm lăn ra giường. Hồi lâu, không ngủ được, cậu ngồi dậy, nặng nề bước lại gần bức tường có treo một chiếc gương soi và đưa mắt nhìn vào đó. Cậu qua sát chăm chú lão Goldmund từ trong gương nhìn cậu: Một bộ mặt quen biết nhưng lại như xa lạ, đối với cậu nó dường như không thực sự hiện hữu, và cậu không hề cảm thấy có chút quan hệ nào. Cậu chỉ nhớ những bộ mặt khác từng quen biết: Một ít vì thầy Niklaus, một chút về vị hiệp sĩ già ngày trước đã ra lệnh may cho cậu một bộ áo quần đung thời trang, cũng có phần thánh Jacques trong ngôi nhà thờ, vị thánh Jacques cao niên, nhiều râu, dưới chiếc mũ khách hành hương có vẻ rất già, rất già và da xạm, tuy vậy vẫn toát ra một ấn tượng vui vẻ và nhân từ. ... Mời các bạn đón đọc Narcisse và Goldmund của tác giả Hermann Hesse.