Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Người Trong Đêm Hè

Người Trong Đêm Hè là cuốn tiểu thuyết đã góp phần đưa giải Nobel Văn học năm 1939 về cho Frans Emil Sillanpää và về cho đất nước Phần Lan. Chính Sillanpää đã gọi "đứa con tinh thần" này là "chuỗi thơ mang tính tự sự" bởi sự đan kết tự nhiên giữa bốn mươi tám văn khúc tả cảnh, đối thoại, độc thoại, có lúc đầy kịch tính, khi lại man mác, nên thơ. Tuy là một tác phẩm ngắn trong địa hạt tiểu thuyết, Người trong đêm hè vẫn dựng được tuyến nhân vật phong phú và sinh động. Trước hết, Sillanpää dành nhiều trang viết cho những phụ nữ ở miền quê: cô thiếu nữ Helka đang trải qua quãng đời thanh xuân yên bình; còn hai người vợ - Hilja và Santra - mỗi người đối diện với một hoàn cảnh, đeo nặng một tâm tư. Song hành cùng các nhân vật nữ, dĩ nhiên, là bóng hình những người đàn ông: chàng sinh viên Arvid hào hoa (bạn trai Helka); anh nông dân Jalmari ngu ngơ, vụng về (chồng Hilja); Jukka - người chồng thờ ơ của Santra. Họ cùng xuất hiện trên nền bối cảnh điền trang, một không gian tưởng chừng đơn sơ, yên ả song lại làm nảy lên bức tranh nội tâm sâu kín, đa chiều. *** Frans Sillanpää sinh ra trong một gia đình nông dân nghèo, thuộc xứ đạo Hämeenkyrö. Cuộc sống vất vả khiến bố mẹ ông chỉ có thể nuôi ông ăn học trong 5 năm đầu tại trường trung học Tampere, 3 năm sau đó ông phải tự kiếm tiền để học tiếp. Năm 1908, ông đỗ vào Đại học Helsinki, ngành sinh vật học, với số điểm loại ưu. Nhưng chỉ theo học được một thời gian ngắn, ông đã phải bỏ, về nhà mở cửa hàng văn phòng phẩm kiếm sống. Ở nhà, ông bắt đầu viết truyện và ngay từ truyện ngắn đầu tiên, ông đã được tổng biên tập một tờ báo lớn đánh giá cao và mời cộng tác. Tiểu thuyết đầu tay của ông là Elämä ja aurinko (Cuộc sống và mặt trời), in năm 1916. Năm 1919, tiểu thuyết Hurskas kurjuus (Cái nghèo thanh cao) đã đưa ông vào hàng ngũ những nhà văn danh tiếng, khiến một nhà xuất bản nổi tiếng đề nghị ông viết sách cho họ và sẵn sàng ứng tiền để ông chuyên tâm vào công việc; từ năm 1920 ông được chính phủ Phần Lan trao một khoản trợ cấp trọn đời. Tiểu thuyết đỉnh cao giúp ông đoạt giải Nobel năm 1939 là Nuorena nukkunut (Thiếu nữ chết trẻ), kể về số phận bi thảm của những gia đình nông dân Phần Lan bị những mối quan hệ tư bản thâm nhập vào nông thôn tàn phá. Cuối đời ông viết nhiều tiểu luận và hồi ký tự thuật. Trong các tác phẩm của mình, Frans Sillanpää luôn khẳng định sức mạnh bản năng và tư tưởng thần bí, bi quan. Năm 1936, ông được Đại học Helsinki trao bằng Tiến sĩ Danh dự và năm 1939 được Viện Hàn lâm Thụy Điển trao giải Nobel. Do chiến tranh, buổi lễ trao giải không tổ chức được nhưng ông đã nhận bằng trong một cuộc họp của Viện Hàn lâm Thụy Điển vào tháng 12 năm 1939. Thời gian này, sức khỏe của ông giảm sút, ông rơi vào trạng thái trầm cảm nặng vì vợ mất và đất nước bị chiến tranh tàn phá, phải điều trị tại bệnh viện tâm thần đến năm 1943. Tác phẩm cuối cùng của ông là bộ hồi ký gồm ba cuốn xuất bản từ năm 1953 đến năm 1956. Frans Sillanpää được toàn thể nhân dân Phần Lan yêu quý, ông thường được mời phát biểu trên đài phát thanh. Ông mất ở Helsinki năm 66 tuổi. Tác phẩm: Elämä ja aurinko (Cuộc sống và mặt trời, 1916), tiểu thuyết Ihmislapsia elämän saatossa (Những con người trong đường đời,1917), tập truyện Hurskas kurjuus (Cái nghèo thanh cao, 1919), tiểu thuyết Rakas isänmaani (Tổ quốc yêu dấu, 1919), tiểu thuyết Hiltu ja Ragnar (Hiltu và Ragnar, 1923), tiểu thuyết Enkelten suojatit (Sự bảo trợ của các thiên thần, 1923), tiểu thuyết Omistani ja omilleni (Về chính tôi và cho chính tôi, 1924), tiểu thuyết Maan tasalta (Từ độ cao của Trái Đất, 1924), tiểu thuyết Töllinmäki (Ngọn đồi ổ chuột, 1925), tiểu thuyết Rippi (Xưng tội, 1928), tiểu thuyết Kiitos hetkistä, Herra... (Cảm ơn Chúa đến đúng lúc..., 1930), tiểu thuyết Nuorena nukkunut (Thiếu nữ chết trẻ, 1931), tiểu thuyết Miehen tie (Con đường của người đàn ông, 1932), tiểu thuyết Virran pohjalta (Dưới đáy sông, 1933), tiểu thuyết Ihmiset suviyössä (Người trong đêm hè, 1934), tiểu thuyết Viidestoista (Thứ mười lăm, 1936), tiểu thuyết Elokuu (Tháng Tám, 1944), tiểu thuyết Ihmiselon ihanuus ja kurjuus (Hạnh phúc và đau khổ của đời người, 1945), tiểu thuyết Poika eli elämäänsä (Cậu bé đã sống cuộc đời mình, 1953), hồi ký Kerron ja kuvailen (Tôi kể chuyện và tôi mô tả, 1954), hồi kí Päiva korkeimmillaan (Ngày cực điểm, 1956), hồi kí *** Review SP: Tác phẩm văn học “Người trong đêm hè” – bản giao hưởng cho mùa hạ trắng Phương Bắc.Tiểu thuyết cũng đã nhận được nhiều giải thưởng cũng như đánh giá tích cực của công chúng. “Mùa Hè phương Bắc gần như không có đêm, chỉ có ánh sáng mờ ảo ngập ngừng, chầm chậm trôi qua. Nhưng trong chạng vạng vẫn ngời lên tia sáng không ngôn từ nào có thể tả nổi. Đó chính là lời thì thầm của sáng Hè đang đến gần. Khi giai điệu hoàng hôn lắng lại thành nốt mềm xanh tim tím màu hoa violet, mê say dịu dàng ngân dài ngay trong quãng ngắt ngắn ngủi, là lúc violon chính bừng tỉnh và bắt vào giai điệu cao nghiêng nghiêng, để cho violon xen nhanh chóng hòa nhịp. Ta cảm nhận được từ trong sâu thẳm tâm hồn bức tranh giai điệu đó” trích Tiểu thuyết, tác phẩm văn học, “Người trong đêm Hè” của Frans Emil Sillanpää, (người dịch: Tiến sĩ Bùi Việt Hoa) Tiểu thuyết hay còn được gọi là “chuỗi thơ mang tính tự sự” với 48 bài văn dài ngắn khác nhau của nhà văn Frans Emil Sillanpää (1888 – 1964) cùng với những sáng tác trước đó đã đem giải Nobel văn học đầu tiên vào năm 1939 và cho đến giờ vẫn là giải Nobel duy nhất của Phần Lan. Mùa Hè, tháng Bảy ở Phần Lan, đất nước Cực Bắc của châu Âu, gần như không có đêm nên thường được gọi là mùa hạ trắng với những đêm trắng khi mặt trời gần như không ngủ và thiên nhiên được miêu tả đẹp như tranh vẽ. Tại vùng nông thôn, thiên nhiên êm đềm, không gian tĩnh lặng, trong lành, cũng có nhiều người không ngủ với nhiều lí do khác nhau. Có những lí do rất đẹp và lãng mạn như khi đôi lứa yêu nhau, cô gái mải suy tư mà không dỗ được giấc ngủ, có người mải chèo thuyền trên hồ và đi ngắm nghía đất đai, người đi dự tiệc đính hôn, người trò chuyện, khiêu vũ, người trở dạ sinh con, và có cả những thương đau như đứa trẻ không được chào đời hay người đàn ông mắc tội giết người, người chồng đi không trở về … Người kể chuyện, kể về các cảnh khác nhau với những giọng điệu khác nhau từ trẻ tới già, từ giàu tới nghèo, từ người không có học đến người học thức, có cả mặt tốt và mặt xấu. Ngôn ngữ của tác giả rất chân thật, biểu cảm và giàu chất thơ ngay từ những đoạn văn khởi đầu của cuốn tiểu thuyết mini đã tạo nên một tấm gương phản chiếu đời sống nông thôn điển hình của Phần Lan những năm 30’ nơi thiên nhiên và con người gần như hòa làm một, nơi mọi hoạt động đều chứa đựng nhiều xúc cảm, nơi trong sinh, yêu và tử có đan xen trong niềm vui, nỗi đau, sự trăn trở, tiếc nuối, những khát khao giới tính kỳ lạ… ”Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng trong Người trong đêm Hè thiên nhiên mới là nhân vật trung tâm xuyên suốt tiểu thuyết. Ánh sáng và âm thanh, mặt trời và đêm trắng, cánh đồng lúa, rừng cây, mặt hồ nước, trang viên… một vùng quê với đủ mọi thăng trầm và cuộc sống của những người dân đủ mọi tầng lớp trong ánh sáng mờ ảo của đêm Hè hiện lên thật hoàn hảo dưới ngòi bút của Sillanpää. Đây là tác phẩm văn xuôi mang tính trữ tình đậm đặc nhất, nhiều tính nhạc nhất của nhà văn”. Dịch giả Bùi Việt Hoa, người đã có nhiều năm sống và làm việc ở Phần Lan, nghiên cứu văn hóa và văn học Phần Lan, cho biết. Tác phẩm văn học không chỉ đem đến những áng văn tả cảnh tuyệt đẹp, những câu chuyện đời sinh động, chân thực mà còn nêu ra những triết lý vô cùng đơn sơ mà sâu sắc: “Trên thế gian này ai cũng có lúc nghĩ họ đau khổ nhất trần gian – khi không nghĩ đến người khác, mà chỉ chăm chăm nghĩ về mình”. Chỉ một năm sau khi ra đời, tác phẩm văn học Người trong đêm Hè đã được dịch và xuất bản ở Thụy Điển năm 1935 và hai năm tiếp theo được dịch và xuất bản ở Estonia (1936), Đan Mạch (1937), Na Uy (1937) và Latvia (1937), Anh (1966). Cho đến nay, tiểu thuyết này đã được dịch ra 17 thứ tiếng khác nhau trên thế giới. Tiểu thuyết được chuyển thể thành phim cùng tên vào năm 1948 và nhận được nhiều giải thưởng cũng như đánh giá tích cực của công chúng.   Mời các bạn đón đọc Người Trong Đêm Hè của tác giả Frans Emil Sillanpää.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Bạch Mã Hoàng Tử, Chàng Ở Đâu? - Agathe Hochberg
Một điều vô cùng chắc chắn: thời nay chẳng kiếm đâu ra bạch mã hoàng tử! Nam giới toàn những kẻ hoặc miệng lưỡi dẻo quẹo, hoặc bủn xỉn, hoặc ích kỷ vô trách nhiệm, hoặc gàn dở thậm chí ấu trĩ và nhu nhược đến nực cười. Bằng chứng ư? Chính là vô số những bức mail độc nhất vô nhị và cùng lúc hấp dẫn khôn cưỡng giữa hai cô nàng Ariane và Justine, một ở Paris, một ở New York, một đã có chồng, một còn độc thân. Và một điều còn chắc chắn hơn nữa: chính bạn sẽ bị cuốn theo mối bận tâm chung của hai cô nàng ấy từ lúc nào chẳng hay, đến mức chỉ có thể buông cuốn sách xuống chừng nào bạn đã biết được kết cuộc. “Trong tấn hài kịch lôi cuốn, vui nhộn và đúng mực này, Agathe Hochberg biết bắt lấy nhạc điệu của thời gian với cả sự thông tuệ lẫn hài hước.” - Pascale Frey, Lire *** Đôi nét về tác giả Sinh tại Paris, Agathe Hochberg lớn lên và trưởng thành tại cả Pháp và Mỹ. Sau khi tốt nghiệp chuyên ngành luật và thương mại quốc tế, cô quay sang lĩnh vực điện ảnh. Trải qua quãng thời gian tác nghiệp như một nhà báo chuyên về lĩnh vực âm nhạc và nhờ vào sự sáng dạ, tinh tế và hài hước, Agathe Hochberg đã có được một lượng lớn độc giả ngay sau khi phát hành cuốn tiểu thuyết đầu tay Bạch mã hoàng tử: chàng ở đâu? vào năm 2003. Tiếp nối thành công ấy là một loạt các tiểu thuyết khác như Mes amies, mes amours, mais encore? (2005), La Coupe du monde et autres footaises: le dico non officiel (2006), Lettres à ma fille (2006), Lettres à mon amour (2007), và Lettres à ma mère (2007). *** - Trượt tuyết nhé? Dĩ nhiên là không. Hồi còn nhỏ tôi đâu có được học: tôi trèo lên ván trượt tuyết lần đầu tiên vào năm mười bảy tuổi; thật điên khùng, cái gọi là ý thức về sự nguy hiểm có thể làm hỏng bét mọi thú vui. Thế nhưng tôi đã nỗ lực, bạn bè thay phiên nhau chỉ bảo cho tôi còn tôi thì ngoan ngoãn chống gậy, gập đầu gối... trong khi lũ nhóc bốn tuổi vượt mặt tôi cái vèo. Sau một tuần, trên người tôi xuất hiện những vết tím bầm hẳn là khả dĩ giúp tôi có thể xuất hiện trong bách khoa thư về những bọc máu, và rốt cuộc tôi đã có thể khập khiễng trở về nhà. Đấy, những kỷ niệm duy nhất về núi non của tôi là thế đấy, đống kỷ niệm ấy và chuyện ăn mặc. Chưa bao giờ tôi lại mất nhiều thời gian đến vậy cho việc khoác đồ vào và cởi đồ ra. Khoác đồ, cởi đồ; trèo lên, bước xuống: chẳng phải chuyên môn của tôi. Mà ở đó trời còn lạnh, rất lạnh nữa chứ. Tôi ghê sợ cái lạnh, khi lạnh tôi cảm thấy mình thật nhỏ nhoi. Lạnh lẽo thật chẳng phải thứ gì thân thiện cho lắm, vả lại, đã co ro là chỉ có co ro một mình. Được rồi, giờ thì phải trả lời cô ấy thôi: Không, tớ không định đi trượt tuyết cũng chẳng định đi ra biển, trong kỳ nghỉ tớ thích tham quan các thành phố hơn. Tôi viết cho Justine, cô bạn mới quen vẫn giữ liên hệ với tôi qua mạng, chúng tôi gặp ở một đám cưới nơi cả hai cùng là người làm chứng. Đến tiệc cocktail, cô ấy hỏi tôi: - Cuộc sống khi kết hôn sẽ thế nào? Tôi hơi lưỡng lự chút xíu, tôi không muốn làm cô ấy thất vọng nhưng cuối cùng tôi cũng trả lời: - Rất khó khăn. - Sao ai cũng nói thế nhỉ? - Vì đó là sự thật... Có thể nói điều đó giống như việc cặp đôi mà không kết hôn và có khuynh hướng tai hại là tin rằng mình đã chiếm được người kia. Justine sống ở New York, cô ấy ba mươi hai tuổi, tóc đen và mắt xanh quyến rũ. Cô ấy cũng rất thông minh và sinh động, đến nỗi mà ngay cả một cô gái tự nhận là hiện đại như tôi cũng phải tự hỏi sao cô ấy lại không kết hôn. Thế là ngay lập tức chúng tôi bị cuốn vào phần sôi nổi nhất của câu chuyện. Các cô gái tuổi chúng tôi không có thời gian để lãng phí, dù câu chuyện là gì đi chăng nữa. ... Mời các bạn đón đọc Bạch Mã Hoàng Tử, Chàng Ở Đâu? của tác giả Agathe Hochberg.
Cuộc Đời Chín Ngày - Thierry Cohen
Một chuyện tình được viết ra với phong cách từa tựa như Marc Levy và Guillaume Musso - nhẹ nhàng, lãng mạn, ngập tràn cảm xúc nhưng cũng không kém phần hồi hộp và ly kỳ. Jeremy luôn tin rằng Victoria yêu anh, họ sẽ chung sống với nhau. Cái ngày cô rời bỏ anh, 8/5/2001, Jeremy quyết định từ giã cuộc đời và kết tội Chúa là người đã gây ra mọi bất hạnh cho anh. "Chúa ơi... Tại sao con lại kêu tên Người? Người có ở đó không? Có từng ở đó không? Người có thấu được những lời cầu nguyện của con? Thôi nào Chúa ơi, chúng ta hãy thanh toán nợ nần nhé! Làm sao Chúa trời nhân từ là thế lại tạo ra một con người tuyệt vời như nàng ở cận kề con rồi lại chối từ không trao nàng cho con? Vì mục đích gì vậy? Đế con phải đau khổ ư? Người đã thành công rồi đấy! Con đang đau khổ đây. Đến mức không thiết sống nữa. Thế nào, Người tự hào về mình chứ? Con trả lại Người tương lai của con đấy. Hãy đem nó cho kẻ khác đi. Người chỉ mách con vực thẳm thì con xuống đó đây". Nhưng kỳ lạ thay, khi Jeremy tỉnh dậy, Victoria đang ở đó và cô vẫn yêu anh. Đó là ngày 8/5/2002. Một năm đã trôi qua và mặc cho mọi sự ngỡ ngàng, ngạc nhiên, anh thấy mình như đang ở chốn Thiên đường trần gian... Sau một ngày đầy bất ngờ, Jeremy lại chìm vào giấc ngủ sâu. Khi anh mở mắt ra, lại một năm nữa đã trôi qua, một năm mà anh không có chút ý niệm nào về những gì đã xảy ra. Victoria đang mang thai đứa con của anh... Khi Jeremy tỉnh dậy vào ngày 8/5/2004, anh đã là bố... Nhưng thời gian dường như trôi ngày càng nhanh, Jeremy thấy mọi việc diễn ra trong những lần tỉnh dậy của mình ngày càng hỗn loạn. Những giây phút thức tỉnh hiếm hoi, anh dành để cố tìm hiểu xem chuyện gì đang xảy với mình... Và rồi đến sáng ngày 8/5/2010, khi anh mở mắt ra, Victoria đã bỏ đi. Cô đã bỏ anh và kết tội anh là một kẻ độc ác, ích kỷ, tồi tệ, không thể chịu đựng nổi. Dần dần, anh phát hiện ra mình đã gieo rắc nỗi sợ hãi cho những người xung quanh. Trong cái cuộc sống mà anh đã cố rời bỏ ấy, anh trở thành một con người hoàn toàn khác và cư xử như một tên khốn nạn với tất cả những người mà anh yêu quý. Cho tới khi anh thấy mình chỉ còn lại một mình trên thế giới này. Liệu anh có thể thoát ra khỏi chốn địa ngục này? Ai là kẻ đã đóng giả anh và phá hoại cuộc đời anh? Jeremy đã chết? Hay anh đã phát điên? Hay mất trí nhớ? Hay anh bị trừng phạt vì đã dám thách thức Chúa? Thierry Cohen, tác giả của Cuộc đời chín ngày, dẫn dắt người đọc vào một câu chuyện tình kỳ lạ bắt đầu bằng... một vụ tự tử, một câu chuyện tình diễn ra nơi hành lang thời gian, giữa sự sống và cái chết, nơi thực và ảo đan xen... Câu chuyện của Jeremy bắt đầu khi tất cả đã kết thúc. Khi tự tử, anh đã bước vào một thế giới khác, trong đó anh phải đối diện với những hậu quả do hành động điên rồ của mình gây ra. Chính với tác phẩm đầu tay Cuộc đời chín ngày, Thierry Cohen được trao giải Grand Prix d'Ormesson của Pháp năm 2007. Cuốn sách đã được dịch ra 10 thứ tiếng và chuyển thể thành kịch bản phim. Bắt nguồn từ việc một người bạn thân của mình tự tử, Thierry Cohen tự hỏi liệu ông có thể kể câu chuyện gì để bạn từ bỏ quyết định kia, phải nói gì để bạn hiểu rằng anh ta không cô độc giữa thế giới này và vẫn còn rất quan trọng đối với nhiều người khác. *** Thuốc ngủ, rượu whisky, cần sa. Nằm xuống. Mình biết mình làm gì. Chỉ nghĩ đến phương pháp. Chỉ nghĩ đến những động tác. Chỉ nghĩ đến bản thân, ở đây, trong phòng khách này, đến chai rượu, đến những viên thuốc. Chỉ mình mình thôi. Cái nút. Ống thuốc. Há miệng, để thuốc lên lưỡi, đưa chai lên môi. Nuốt. Nghĩ đến phương pháp. Không gì khác. Không nghĩ đến bố, không nghĩ đến mẹ. Nhất định không. Nghĩ đến nỗi nhục nhã của mình. Chỉ một mình, ở đây. Mình và nỗi nhục của mình. Mình biết mình đang làm gì. Rồi bố mẹ sẽ hiểu. Có thể. Mà mình đâu thèm quan tâm đến việc họ có hiểu hay không! Không… Không nghĩ đến điều ấy. Không nghĩ đến ai hết. Hôm nay, mình là người quyết định! Mình không thiết gì cuộc sống này nữa. Nó là một cuộc tra tấn, một sự sỉ nhục. Mình là người quyết định. Và mình quyết định sẽ vứt quách nó đi. Mình hoàn toàn làm chủ được tình thế! Và nếu không đủ can đảm, nếu có ý định đứng dậy hay dừng tất cả những việc này lại, mình sẽ nghĩ đến nàng. Đến nàng, cuộc sống của mình và là người đã từ chối mình. Không nghĩ đến ai khác, những người yêu thương mình, mà nghĩ đến nàng, người không hề yêu mình, không muốn yêu mình. Thậm chí không hề muốn thử yêu mình. Làn da mịn màng, đôi mắt xanh biếc, nụ cười của nàng. Nụ cười của nàng! Đó chính là sự ve vuốt mà vẻ đẹp của nàng trao tặng cho những ai đến gần. Giờ nó đã trở thành một nỗi đau. Không, tất cả những gì thuộc về nàng đã khiến mình lạc lối, đã xô mình đến vực thẳm này. Vực thẳm của cái chết đối lại với nỗi trống rỗng của cuộc đời mình. Nào có khác gì nhau đâu? Chúa ơi, sao đầu óc con quay như chong chóng thế này. Chúa ơi… Tại sao con lại kêu tên Người? Người có ở đó không? Có từng ở đó không? Người có thấu được những lời cầu nguyện của con? Thôi nào Chúa ơi, chúng ta hãy thanh toán nợ nần nhé! Làm sao Chúa trời nhân từ thế lại tạo ra một con người tuyệt vời như nàng ở cận kề con rồi lại chối từ không trao nàng cho con? Vì mục đích gì vậy? Để con phải đau khổ ư? Người đã thành công rồi đấy! Con đang đau khổ đây. Đến mức không thiết sống nữa. Thế nào, Người tự hào về mình ư? Con trả lại Người tương lai của con đấy. Hãy đem nó cho kẻ khác đi. Người chỉ mách con vực thẳm thì con xuống đó đây. Mình không sợ. Chỉ nghĩ đến phương pháp. Mẩu giấy vẫn còn bốc khói. Phê thêm một chút nữa. Đưa mình ra khỏi chính mình để tách khỏi nàng. Này đây tâm hồn mình bay bổng, được ru đưa bởi khói và rượu. Tiếp đến là thuốc ngủ. Đó là phương pháp. Mình đang vã mồ hôi. Không sợ. Chỉ vài giây nữa thôi. Nghĩ đến nàng. Mình đã quyết định nói hết với nàng. Ngày hôm nay, ngày mình tròn hai mươi tuổi. Để tự mình giải thoát khỏi những mối ngờ vực. Và cuối cùng là để biết. Mình đã chuẩn bị thật kỹ… Nhưng liệu có cần phải chuẩn bị không nhỉ? Mình có biết bao nhiêu điều muốn nói với nàng. Nhưng nào nàng có muốn nghe, muốn hiểu. Mình đã nói với nàng tình yêu thời thơ ấu. Phần đầu của câu chuyện. - Nhưng hồi đó bọn mình mới có chín tuổi mà, Jeremy! nàng vừa cười vừa nói. Mười tuổi. Không trẻ con lắm đâu khi đã lên mười. Mình yêu nàng đến phát điên, còn nàng thì rất quý mình. Với nàng, tất cả chỉ là một trò chơi con nít, một vài nụ hôn trong sáng, một tình cảm thân tình trìu mến, một giai điệu yêu kiều. Một kỷ niệm xa vời nhuốm màu dĩ vãng. Còn với mình, đó lại là khởi đầu của cuộc sống. Một thứ ánh sáng nóng bỏng đến trước ánh sáng mùa hè và chia rẽ hai đứa. - Chúng mình đã trở thành bạn. Thậm chí cậu từng là người bạn tâm tình của mình! ... Mời các bạn đón đọc ​Cuộc Đời Chín Ngày của tác giả Thierry Cohen.
Cuộc Hội Thảo - Milan Kundera
Trong Lời cuối sách của bản tiếng Pháp, François Ricard đề nghị coi kết cấu của bảy truyện trong Những mối tình nực cười là kết cấu đối xứng, trong đó sáu truyện ngắn đối xứng nhau qua tâm điểm truyện thứ tư, thành những đường tròn đồng tâm, những cặp tương ứng 1-7 (Sẽ không ai cười và Edouard và Chúa), 2-6 (Quả táo vàng của ham muốn vĩnh cửu và Bác sĩ Havel hai mươi năm sau), 3-5 (Trò chơi xin quá giang và Người chết cũ phải nhường chỗ cho người chết mới) ; các cặp đó tương đồng cả về hình thức (độ ngắn dài) lẫn các ý tưởng, chủ đề. Đứng ở vị trí trung tâm, Cuộc hội thảo dĩ nhiên có tầm vai trọng đặc biệt và khác với sáu truyện còn lại. Xét về dung lượng, Cuộc hội thảo có độ dài lớn nhất, đó cũng là truyện duy nhất có kết cấu theo lối kịch 5 màn. Đó là một khảo sát đầy tính châm biếm về tình thế của Don Juan trong thế giới hiện đại, cái chết của một biểu tượng “cao quý” ; trong thế giới hiện đại Don Juan không còn đất sống, bị rút gọn thành một hình ảnh hài hước và mơ hồ đến thảm hại, từ chỗ Nhà Chinh Phục trở thành Nhà Sưu Tập. Khái niệm tự do cũng được Kundera khai thác, một tự do khác với cách hiểu của Sartre, không phải là điều kiện sẵn có, bị áp đặt từ bên ngoài, mà là một chút không gian để cựa quậy theo ý mình, cái sẽ dần dà bị thu hẹp đến mức khó thở. Nhưng quan trọng hơn cả là Cuộc hội thảo trình bày một suy tư về thân phận con người, về những sự thật nhiều mặt của con người, trong đó nhìn từ khía cạnh nào những sự thật đó cũng đúng đắn, và cùng lúc cũng sai lầm, mất giá một cách trầm trọng. *** Mời các bạn đón đọc Cuộc Hội Thảo của tác giả Milan Kundera.
Con Đường Cách Mạng - Richard Yates
“Còn hơn cả lối viết đẹp, đó là tất cả những gì làm cho cuốn sách này trở thành sống động một cách mạnh mẽ, rực sáng và ngay lập tức là một tuyệt tác” Tennessee Williams “Được đón nhận như một tuyệt tác ngay từ lần xuất bản đầu tiên, Con đường Cách mạng là câu chuyện kể về Frank và April Wheeler, một đôi vợ chồng trẻ nhàm chán với cuộc sống tầm thường, vô vị ở ngoại ô và luôn mong mỏi được trở thành đặc biệt. Richard Yates đã để lại cho người đọc một sự hoài nghi về quyết định thay đổi nhằm đạt được những điều tốt hơn trong cuộc sống của Frank và April Đơn giản đây là cuốn tiểu thuyết hay nhất trong năm mà tôi đã được đọc” Nick Hornby *** Những âm thanh kết thúc cuối cùng của buổi diễn tập thử trang phục đã làm cho nhóm Laurel không còn việc gì để làm ngoài việc đứng đó, im lặng và đầy tự tin, lung linh qua ánh đèn chiếu của khán phòng trống không. Họ hầu như không thở được khi diện mạo nghiêm nghị và thấp tè của người quản lý xuất hiện từ hàng ghế trống gọi họ nhóm họp lại trên sân khấu, và khi ông kéo chiếc thang cọt kẹt từ phía cánh gà, leo lên đó và nói với họ rằng, bằng tất cả nhiệt huyết của mình, họ là những diễn viên thật tài năng và ông thấy thật tuyệt vời khi được làm việc với họ. “Đây quả thật không phải là công việc đơn giản”, ông nói, với cặp kính lấp lánh trang nhã nhìn quanh sân khấu. “Chúng ta đã có rất nhiều vấn đề, và thật sự, đã đôi lúc tôi phải bắt mình không được mong chờ quá nhiều. Nghe như là ủy mị, nhưng thật sự tối nay chúng ta đã làm được. Ngồi ở dưới kia, đột nhiên tối nay, tận sau trong đáy lòng, tôi nhận thấy lần đầu tiên các bạn đã làm việc bằng cả trái tim mình”. Một tay ông đặt lên ngực để chỉ rằng đường đi đến trái tim thật đơn giản và tự nhiên; rồi tay kia ông nắm lại, không lời, đưa qua đưa lại thật chậm, gây ấn tượng thật sâu sắc, một bên mắt nhắm lại với môi dưới cong lên thể hiện niềm vui hân hoan và đầy vẻ tự hào. “Tối mai hãy biểu diễn như thế này nhé”, ông nói “và chúng ta sẽ có một đêm diễn hoàn hảo”. Họ đã có thể khóc trong sự nhẹ nhõm. Nhưng, trong sự rung động, họ đã cười, nói, bắt tay và hôn nhau. Ai đó ở tình huống như họ sẽ đi uống bia, còn họ lại cùng nhau hát quanh chiếc đàn piano ở khán phòng cho đến tận khi cùng thống nhất ra về và chúc nhau có một giấc ngủ ngon. “Hẹn gặp nhau ngày mai nhé!”, họ nói với nhau, hạnh phúc như những đứa trẻ, và dưới ánh trăng trên đường về nhà họ chợt nhận thấy họ nên kéo cửa xe ô tô xuống để tận hưởng khí trời, mùi thơm của đất và hoa. Đây là lần đầu tiên nhóm Laurel cho phép họ được cảm nhận sự đến gần của mùa xuân. ... Mời các bạn đón đọc Con Đường Cách Mạng của tác giả Richard Yates.