Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Kho Đựng Nỗi Đau

“Chỉ cần có thể truy ngược dòng dõi lên được bốn đời, ít gia đình nào không cho rằng mình có các quyền đối với một tước hiệu mơ ngủ nào đó, hoặc đối với lâu đài hay khu đất nào đó, những quyền chắc hẳn khó lòng đứng vững trước một phiên tòa nhưng chúng ve vuốt trí tưởng tượng và làm ngắn lại các giờ khắc vô công rồi nghề. Các quyền của một con người đối với quá khứ chính anh ta còn chập chờn hơn nhiều.”   R. L. Stevenson, Một chương về những giấc mơ *** Patrick Modiano là Nhà văn Pháp với hơn 30 tác phẩm bao gồm tiểu thuyết, kịch bản phim,... các tác phẩm của ông đã được dịch 36 thứ tiếng trên thế giới, đạt nhiều giải thưởng danh tiếng, phải kể đến giải Nobel Văn học năm 2014. "Lối viết văn của Modiano rất dễ đọc. Các tác phẩm của ông trông có vẻ đơn giản bởi vì nó tinh tế, thẳng thắn, đơn giản và rõ ràng. Bạn mở sách đọc một trang, và sẽ nhận ra ngay là sách của ông ta, rất thẳng thắn, câu văn ngắn gọn, không cầu kỳ - nhưng nó rất là tinh vi trong cách đơn giản của nó."_ Bí thư thường trực của học viện Nobel Peter Englund Để từ đó người đọc có thể thấy được văn chương của Patick Modiano là văn chương của ký ức, bất định tương lai. *** Kho đựng nỗi đau (tựa gốc: Remise de peine, viết năm 1988), Hoa của phế tích (tựa gốc: Fleurs de ruine, 1991), Con chó mùa xuân (tựa gốc: Chien de printemps, 1993) được nhà văn Patrick Modiano (giải Nobel Văn học, 2014) hoàn thành trong ba mốc thời gian khác nhau, nhưng mang đầy đủ những nét đặc thù của không khí, phong cách văn chương ông. Kho đựng nỗi đau lần đầu tiên bức chân dung thời thơ ấu của chú bé Patrick cùng em trai sống trong căn hộ của những diễn viên xiếc ở vùng ngoại vi Paris. Hoa của phế tích là cuộc lần theo manh mối về một vụ tự sát với lý do bí hiểm của đôi vợ chồng kỹ sư trẻ tuổi vào một ngày tháng 3 năm 1933. Còn Con chó mùa xuân là cuộc dò tìm của một người viết tiểu thuyết trẻ tuổi với nỗ lực phục dựng bản tiểu sử của Jasen - một nhiếp ảnh gia sống và ghi chép về Paris nhưng căn cước cá nhân lại nhiều điểm mù bởi dư chấn của thời Đức tạm chiếm… Ba cuốn tiểu thuyết này là dẫn chứng xuất sắc, thuyết phục cho điều mà Patrick Modiano viết trong diễn từ nhận giải Nobel Văn học vào năm 2014: “Người ta có thể lạc lối hoặc biến mất trong một đô thị. Người ta thậm chí có thể thay đổi căn cước và sống một đời khác. Người ta có thể lao mình vào một cuộc điều tra rất dài lâu để tìm lại những dấu vết của một ai đó, và lúc khởi đầu chỉ có một hoặc hai địa chỉ trong một khu phố đã mất biệt. Chỉ dấu ngắn ngủi đôi khi hiện lên trên những phiếu tra cứu luôn luôn tìm được một âm hưởng trong tôi: Nơi cư trú cuối cùng được biết.” Trong lần ấn hành ba tiểu thuyết này, Phanbook cũng phát hành hộp giấy đựng sách Patrick Modiano với thiết kế đẹp, trang nhã dành cho độc giả sưu tầm đủ ba tác phẩm. *** VỀ NHÀ VĂN PATRICK MODIANO Patrick Modiano là nhà văn người Pháp, sinh năm 1945. Ông đạt giải Nobel văn học năm 2014. Nhiều tác phẩm của Modiano đã được in tại Việt Nam. Ba tác phẩm của Patrick Modiano do Phanbook ấn hành: Kho đựng nỗi đau, Hoa của phế tích, Con chó mùa xuân, đều do Hoàng Lam Vân dịch. *** LỜI GIỚI THIỆU Tôi chưa hai mươi khi đọc Remise de peine lần đầu. Việc đọc này cũng ít nhiều xảy ra cùng thời điểm của phần đầu câu chuyện kết nối tôi với những cuốn sách của Modiano. Tôi không nhớ cuốn đầu tiên là cuốn nào. Có thể là Voyage de noces, Quartier Perdu, Fleurs de ruines, Les boulevards de Ceinture. Tôi không nhớ nữa. Nhưng tôi nhớ đó là một trong mấy cuốn này. Và cũng nhớ anh tôi, người đã mua một cuốn sách bỏ túi gần như tình cờ, một buổi sáng, trong quán Hachette của nhà ga Juvisy, vì anh đã quên ở nhà cái cuốn mà anh định đọc trong lúc ngồi tàu đến trường Đại học Paris, nơi anh theo ngành Luật. Tôi nhớ là anh đã ào vào phòng tôi, tôi nhớ những bức tường màu vàng nhạt treo một tấm poster mà hình dung lại tôi thấy đẫm chất Modiano đến kỳ lạ, mặt tiền bí hiểm bị các bụi gai cào xước và các dây thường xuân bám chặt của một biệt thự trùng với những gì người ta thường tưởng tượng về các biệt thự ngoại ô Paris với một cửa sổ sáng đèn, cổng cao và thấp thoáng một khu vườn, những bóng người đây đó, những dấu vết, những mảnh đời bí hiểm, một hình ảnh như vừa bước thẳng từ chính cuốn sách đó, nơi mà sự phân bố địa lý ít chất của một Paris bấp bênh rất đặc trưng cho tác giả, nhưng nhiều chất của những ngoại ô xa, “chưa phải là ngoại ô như bây giờ”, những thị trấn nhỏ yên tĩnh và giàu có lạc lõng sát cạnh nông thôn mà tôi thoáng thấy vào những dịp đi thi dương cầm ở rìa hạt Essonne. Tôi nhớ anh tôi chia cho tôi cuốn sách và nói “Đọc cái này đi, em sẽ thích đấy” và tôi nghe lời, để ngay lập tức bị hút vào đó và tiếp theo chỉ còn biết thán phục. Đương nhiên, tất cả những gì của Modiano đều có hết ở đây: các tên phố, danh bạ, địa tầng thời gian chồng chất, những hình bóng mờ ám, những vụ mất tích, quá khứ xấu xa, gợi nhớ thời hợp tác và phố Lauriston, những cuộc điều tra mà tưởng như đi lang thang, những mối giao du khả nghi, nỗi cô đơn, sự bỏ bê, một ông bố lâu lâu xuất hiện sau các hoạt động và các chuyến công tác đáng ngờ, người mẹ diễn viên thấp thoáng đâu đó sau các buổi diễn, sự thiếu vắng của phả hệ, cách viết kín đáo và thanh lịch, nỗi sợ và niềm đau giữ lại trong lòng, những vùng chưa tỏ và những hố đen, tóm lại là tất cả cái huyền thoại quý báu và duy nhất đó, trong một văn phong có âm điệu đặc sắc, buồn bã và dịu nhẹ, nhưng lại giản dị, không mang tính cách rõ ràng, không gây ấn tượng, không có vẻ phong phú. Những ngày tiếp theo, tôi đến thư viện và ngấu nghiến tất cả tiểu thuyết ghi tên Modiano. Rồi mùa hạ giá trong khu Saint-Michel và tiền tiết kiệm có được từ nhiều tháng nhịn ăn đã cho phép tôi bổ sung và bằng cách ấy mà tự cập nhật: ngồi rình những đầu sách mới, hầu như hàng năm, những dịp mà từ đấy tôi không bao giờ để lỡ, không bao giờ khiến tôi thất vọng, ngược lại, còn khiến tôi có cảm giác là cứ cuốn sách này ra thì nỗi bồn chồn đợi cuốn tiếp theo còn tăng hơn nữa, giống như khao khát nhấc lên tấm màn tưởng đã nhấc được ở từng cuốn, nhưng cuối cùng để lộ ra những tấm màn khác, và lại phải lao vào nhấc lên mà không chắc mọi sự có rõ ra hay lớp sương mù kia còn dày thêm. Tôi nhớ những tháng ngày đọc sách đó như một thời kỳ của kinh ngạc, như thể được ban phép màu. Đó là quãng thời gian đầu tiên của tôi ở Paris, tôi học không xa rừng Boulogne, thường lai vãng các hiệu sách, các rạp chiếu phim nghệ thuật và thử nghiệm trong khu La-tinh và Saint-Germain-des-Pres, thỉnh thoảng cũng đến nhà bạn nằm trong những con phố yên tĩnh của ngoại ô có nhiều biệt thự và sang trọng hơn khu phố có căn nhà của gia đình tôi mà cứ cuối tuần tôi lại ngồi tàu D để trở về. Tôi lớn lên cùng với những cuốn sách đó, tôi bước đi trong bối cảnh của chúng, tôi là một trong những nhân vật của chúng, hoặc ít ra cũng là một người anh em hay cháu chắt của các nhân vật. Tất cả trộn với nhau, xuyên vào nhau, cuộc đời của chính tôi và những cuốn sách bao trùm nó, tái tạo nó, uốn cong nó, trong một kiểu lẫn lộn giữa thực và ảo. Tất cả đều hòa hợp: nơi chốn, cảm giác đang sống cùng một lúc hai cuộc đời, những chuyến đi dạo bên dưới những tòa nhà cao tầng có cửa sổ sáng đèn, những cái tên ghi trong sảnh chính, tất cả được chiếu bởi một thứ ánh sáng rất đặc biệt, của một hiện tại đầy ứ quá khứ và bị đẩy vào tương lai, của một hiện diện bấp bênh, mờ ảo. Sự phân chia địa lý trong tâm tư tôi vận động, biến đổi, chồng chất lên nhau những lãnh thổ gốc, hoàn toàn ngoại biên, nằm ở ngoại ô, và những lãnh thổ nơi con người tôi lớn lên, những lãnh thổ được các tiểu thuyết của Modiano vẽ lại, chỉnh sửa và sáng tác thêm. Tôi rình rập khắp nơi cái dáng thanh cao của ông, tôi - kẻ chỉ chú ý đến tác phẩm chứ không đến tác giả, tôi - kẻ thường không quan tâm đến những ai đứng đằng sau hay bên trong những cuốn sách mà tôi yêu, ở nơi nào tôi cũng tưởng tượng ông sẽ hiện ra, quanh vườn Luxembourg, trên đại lộ Victor Hugo, dọc theo những hồ nước của rừng Boulogne, nhưng điều ấy không bao giờ xảy ra, chỉ mới cách đây vài hôm, khi vừa bắt đầu viết những dòng này, tôi bắt gặp ông giữa những kệ sách của cửa hàng Bon Marché, vừa rõ ràng, vừa xa xôi, mặc áo mưa màu be, giống như một cái nháy mắt, một sự ra hiệu, một trùng hợp kỳ lạ, “kỳ cục”, có lẽ ông sẽ nói như thế. Đương nhiên tôi không lại gần ông, không dám. Nhưng dù tôi có dám hay không thì huyễn tưởng cũng cho tôi biết đủ về tầm quan trọng của ông trong mắt tôi, sự hâm mộ mà tôi dành cho ông và tôn ông ngang hàng với những huyền thoại của cá nhân tôi. Lùi lại một chút, tôi ước tính bao nhiêu những kỷ niệm có thật về thời kỳ đầu ở Paris đã bị thế chỗ bởi những cuốn sách mà tôi ngấu nghiến lúc đó, hai “câu chuyện” đó, một thì xa xôi nhưng thuộc về tôi trọn vẹn, một thì nằm trong những trang sách mà tôi không phải là tác giả và chẳng thực sự kể gì về tôi, cả hai từ lâu đã lẫn lộn với nhau. Đó chính là sức mạnh của những tác phẩm đã luồn lách vào bên trong bạn. Chúng quyện lấy đời bạn đến mức không sao gỡ ra nổi. Những ngày này đọc lại Remise de peine, hiện ra trước mắt tôi tất cả những thứ đã rèn nên tính cách con người tôi, và từ đó tác động đến cả quang cảnh, nội dung, chất liệu của những gì tôi viết, dù rằng điều này chỉ hiển nhiên với tôi, dù rằng những dấu vết về sự ảnh hưởng đó hầu như là vô hình, hoặc ngầm đến mức không ai nhìn thấy. Ấy thế mà nó mang tính nền tảng, và bên cạnh Annie Arnaux, Raymond Carver hay Henri Calet (vì những lý do và dưới những biểu hiện khác) các cuốn sách của Modiano được xếp một vị trí đặc biệt, giữa những tác phẩm có tầm quan trọng với tôi: các tác giả đã làm tôi chao đảo, chỉnh sửa tôi, chuyển biến tôi vừa trong tư cách nhà văn lẫn con người. Đọc lại Remise de peine hai mươi năm sau ngày phát hiện ra nó, thế là bởi mối bận tâm phải đuổi kịp sự chậm trễ không tài nào đuổi kịp (ai?, cái gì?, để chống lại cảm giác nào về sự bịp bợm?, ấn tượng gì về tính bất hợp pháp?) tôi không bao giờ mất thời gian đọc lại những tác phẩm và những tác giả đã tạo nên tôi, dù ký ức tôi ngắn ngủi và lỗ chỗ, đến độ mà tôi thường xuyên có cảm giác rằng nó càng xóa đi những gì đã có trước đó thì tôi càng tiến về phía trước mà vẫn không ngừng bị ám ảnh bởi những gì đã mất, cái hố đen vĩnh viễn đó cứ sâu thêm mãi, tác động tới tôi, bao nhiêu dấu vết mà cuốn sách này từng để lại, những dấu vết vừa rõ ràng vừa mờ ảo, như nó phải thế mỗi khi người ta nhắc tới Modiano: ngôi nhà nơi mà ông và em trai bị cha mẹ bỏ mặc, mặt tiền phủ đầy dây thường xuân, và cả những con phố cạnh đó, những người phụ nữ đi đi về về, băng bạn cùng trường, lâu đài bỏ hoang của hầu tước Caussade, gánh xiếc và tai nạn đu bay, một chiếc xe hơi của Mỹ và một áo vét kiểu cao bồi, tên của một hộp đêm, những lần ông bố xuất hiện, những xưởng chữa xe ở Paris, đám người lớn mà cuộc sống và hoạt động chỉ được nhìn thấy qua những thông số, những giấy tờ rời rạc, những dấu hiệu không đầy đủ và thường không thể nào đoán được. Nhưng trên hết, tất cả cảm giác bơ vơ sờ sợ, nỗi bồn chồn âm ỉ, thậm chí không thực, mà tôi cho là đồng nghĩa với thời thơ ấu như tôi cảm nhận, được xây trên cát, thường xuyên tuột qua các kẽ tay, không rõ ràng, không có đường viền và trọng tâm, bề mặt bấp bênh, người ta bước đi như bị mù, chỉ giữ được những mảnh vụn, trong sự lẫn lộn giữa có và không, để mặc bạn bước ra tuổi thiếu niên trong sự chông chênh lơ mơ, không căn cước chẳng cội nguồn, như con chó lạc mà không có vòng đeo cổ. Cảm giác này còn được Modiano xác định trong một tác phẩm khác nữa và có vẻ hoàn toàn thích hợp với Remise de peine, tạo cho nó phạm vi và quá trình “Những sự kiện mà tôi sẽ gợi lại cho đến năm hai mươi mốt tuổi, tôi đã sống một cách không che đậy, cách thức này bao gồm việc cho di chuyển các bối cảnh nền, còn các diễn viên đứng im trên sân khấu trường quay. Tôi muốn giải thích cái cảm giác mà nhiều người khác từng có trước tôi: mọi thứ nối tiếp nhau chuyển động không che đậy và tôi chưa thể sống đời mình”. Cũng chính dưới ánh sáng của những tác phẩm tiếp theo, đặc biệt là Un pedigree (đang mời chúng ta làm sáng tỏ), mà Remise de peine lại mang một sắc vẻ đặc biệt giữa các tác phẩm của Modiano, một gam màu độc nhất vô nhị. Đầu tiên bởi vì đó là một trong những tiểu thuyết hiếm hoi đã thẳng thừng tự nhận là tự truyện, hay cho ảo tưởng như thế, Modiano có vẻ tự đặt mình lên sân khấu với tên thật, (mỗi khi có dịp lại biến thành “Patoche” cho thân mật, gần gũi hơn), để vẽ lại một cách vừa chính xác vừa đáng ngờ, rất đặc trưng cho hình thức kỷ niệm, một giai đoạn thơ ấu mà chúng ta đã biết là của ông, di chuyển giữa ký túc xá và ngôi nhà ở nhờ, trong những thời gian biểu kỳ bí và một dĩ vãng mờ ám, bà mẹ diễn viên và ông bố có các hoạt động, quá khứ và các mối giao du tất cả đều dính dáng tới vũng bùn thời Đức chiếm đóng, chờ đợi được các vị phụ huynh liên lạc và đón về nhà vài ngày, vài tuần hay vài tháng để rồi lại gửi đến chỗ khác, cho những người khác. Tóm lại, tất cả những chuyện này có xác thực hay không, điều gây xúc động ở đây chính là hiệu quả của việc chiếu sáng, câu chuyện đã được tháo chốt, lột trần, đập ngay vào mắt, đã khiến ta rung động. Và cùng một lúc với mạch tự truyện vẫn được dệt lên bởi một sự lộn xộn kinh hoàng, biết bao ngờ vực và các câu hỏi. Như để đào sâu hơn điều bí mật mà tác giả đang ra vẻ giải tỏa. Như thể là, tận sâu trong cuộc tìm kiếm của mình, Modiano cho thấy sự vắng bóng của một chuyển đổi mang tính hư cấu, hoặc vẻ ngoài của nó, sự trung thành, thật hay bịa, không là bằng chứng cho một cái gì cả, không bảo đảm một sự thật rõ ràng hay một lời giải cho những điều ngờ vực, nhập nhằng nước đôi. Sau đó chính nhờ bám chặt tuổi thơ cùng những cảm nhận và sự hoảng loạn đeo dính mà Modiano có vẻ đã thuật lại những kỷ niệm này. Những mảnh vụn: vừa là những mảnh vụn của một ký ức rách mướp, không đầy đủ, vừa là những mảnh vụn của thời thơ ấu giữa đám người lớn, nghe được ở khe cửa, khoảng cách giữa các tầng nơi mỗi phòng mở ra rồi đóng lại, chỉ cho phép cảm nhận sự việc qua những tiếng vọng đinh tai, những tiếng vỡ biến dạng, những tiếng nói chuyện thì thào và những tiếng động của thìa dĩa, những tiếng vang của xe hơi đang rời ra tít xa. Những mảnh vụn cuộc sống của đám người lớn chỉ được nhìn thấy qua vẻ ngoài những bí mật và những được thua, như là chúng ở trong một bộ phim vô tuyến bị mất tiếng và ta chỉ có thể đoán động tác của các nhân vật, mà không biết hoàn cảnh, đầu đuôi, và cả căn cước chính xác của họ. Trong trò chơi domino, thuyền buồm thú vị mà văn chương Modiano mời ta tham gia này, tôi luôn bám vào Un pedigree (Một phả hệ) ngay từ khi tác phẩm ra đời, để tiếp sức cho tác giả trong cuộc điều tra của chính ông, lồng giọng của tôi vào đó. Như kiểu điều tra một cuộc điều tra. Điều mà mỗi độc giả đều làm một cách bí mật thông qua những cuốn sách và trong nhiều năm trời, tôi tin là thế. Thời kỳ từng được nhắc đến ở Remise de peine chiếm khoảng một trang trong tiểu thuyết này. “Giữa Jouyuen Josas và Paris, bí ẩn của một vùng ngoại ô mà lúc đó chưa là ngoại ô. Lâu đài tàn phế, và trước mắt anh, đồng cỏ mọc cao nơi chúng tôi từng thả diều ngày nào. Rừng Metz. Và bánh xe khổng lồ của máy chuyển nước thị trấn Marly quay đều trong âm thanh và sự tươi mát như thác.” “Những di chuyển đi về của những người đàn bà kỳ lạ (…) trong số đó có Zina Rachewsky, Suzanne Baulé, hay còn gọi là Frede, giám đốc của Carroll’s, một hộp đêm phố Ponthieu, và một Rose-Marie Krawell nào đó, chủ một khách sạn phố Vieux-Colombier, và thường lái xe hơi Mỹ. Họ mặc áo vét và đi giày đàn ông, và Frede, còn đeo cả cà-vạt (…) Một tối (…) cha tôi (…) hỏi tôi sau này muốn làm nghề gì. Tôi không biết trả lời thế nào.” Sự nghiệp văn chương của Modiano là một work in progess vô cùng lôi cuốn đang tiến hành ngoài trời. Mỗi cuốn sách đều lấy được từ đó một nghĩa đúp. Mời ta ngắm nhìn nó trong sự tự chủ của một tác phẩm đã hoàn thiện, đã khép lại ở trang cuối, nhưng cùng lúc, giống như một phần mới của một puzzle mà không cái gì bị đóng lại hoàn toàn, một vài chỗ còn để “trống” trong khi những chỗ khác cũng dần dần xác định được phạm vi. Tương tự y như thế về nhân vật ông bố, nhân vật kỳ thú trong văn chương Modiano, mà ta tìm lại trong tác phẩm này một sự hiện diện mờ ảo và những tiếng vọng gián tiếp, qua việc tác giả nhắc lại “phố Lauriston”. Ngược lại, Rudy, em trai tác giả, có vẻ là một phái giữa vắng mặt, một sự im lặng hãi hùng. Thế nhưng, ở trang 44 của Một phả hệ, ta có thể đọc được đoạn này, mà Modiano sẽ không còn nhắc lại trong phần sau của cuốn sách: “Tháng Hai năm 1957, tôi mất em trai.(…) Ngoài em Rudy, cái chết của em, tôi tin là chẳng điều gì mà tôi sẽ thuật lại ở đây có liên quan sâu sắc đến tôi”. Nhưng điều khiến xúc động nghẹn ngào hơn nữa trong Remise de peine, điều khiến tim ta se lại khi đọc những dòng chữ này, chính là sự gợi nhắc, vừa thoáng qua lại vừa đều khắp, vừa kín đáo lại vừa tinh tế hé mở, không nói rõ, không bình luận, thận trọng, nhưng vì hiếm mà trở nên nổi bật, về cậu em út của “Patoche”. Ở phương diện này, Remise de peine còn khiến chao đảo hơn, tôi không có ý tán vớ vẩn về Modiano đâu, nhưng tôi có cảm giác tác phẩm này được viết ra vì cái đích ngầm sau đây: khắc lên trang sách những giây phút hai anh em bên nhau, những ký ức về một thời gian mà người ta còn có thể nhớ khi phát âm mấy từ “tôi và em trai tôi”. OLIVER ADAM *** Đó là thời các cuộc lưu diễn kịch nghệ không chỉ dọc ngang nước Pháp, Thụy Sĩ và Bỉ, mà cả Bắc Phi nữa. Tôi lên mười. Mẹ tôi đã lên đường lưu diễn một vở kịch và chúng tôi, em trai tôi và tôi, ở nhà những người bạn gái của bà, tại một ngôi làng ven Paris. Một ngôi nhà hai tầng, mặt tiền phủ dây thường xuân. Một trong số các cửa sổ lồi mà người Anh gọi là bow-window kéo phòng khách dài thêm ra. Đằng sau nhà, có một khu vườn giật nhiều cấp. Ở cuối tầng đầu tiên của vườn, núp dưới đám cây ông tiên, là mộ của bác sĩ Guillotin. Ông từng sống tại ngôi nhà này? Tại đó ông đã hoàn chỉnh cỗ máy chém đầu của mình? Tít trên cao khu vườn có hai cây táo cùng một cây lê. Những miếng nhỏ tráng men treo trên dây xích bạc thòng vào các lọ đựng rượu, trong phòng khách, mang những cái tên: Izarra, Sherry, Curaçao. Cây kim ngân xâm chiếm thành giếng, chính giữa cái sân ngay trước vườn. Máy điện thoại để trên một cái bàn guéridon, gần sát một trong những cửa sổ phòng khách. Rào lưới được chăng để bảo vệ mặt tiền nhà, hơi thụt vào so với phố Docteur-Dordaine. Một hôm, người ta đã sơn lại rào sau khi phủ lớp chống gỉ. Có phải đó là sơn chống gỉ, cái chất lỏng sệt màu cam vẫn còn hết sức sống động trong kỷ niệm của tôi? Phố Docteur-Dordaine có dáng dấp làng mạc, nhất là về cuối: một tòa nhà cho các xơ, rồi một trang trại nơi người ta đến để mua sữa và, xa hơn, lâu đài. Nếu đi xuôi phố, trên vỉa hè bên phải, ta sẽ đi qua trước bưu điện; cũng đoạn ấy, phía bên trái, ta nhìn thấy, sau một rào sắt, các nhà kính của ông chủ hàng hoa mà con trai là bạn ngồi cạnh tôi tại lớp học. Xa thêm một chút, cùng phía với bưu điện, là bức tường của trường Jeanne-d’Arc, vùi mình dưới những tán tiêu huyền. Đối diện nhà, một đại lộ dốc thoải. Bên lề của nó, phía tay phải, là nhà thờ Tin Lành và một khoảnh rừng nhỏ, giữa đám bụi cây ở đó chúng tôi từng tìm được một cái mũ sắt của lính Đức; bên trái, một ngôi nhà dài và sơn trắng nơi vòm tường nhô ra, với khu vườn lớn cùng một cây liễu rủ. Thấp hơn, chung tường với khu vườn ấy, là quán trọ Robin Lục lâm. Ở cuối dốc, và cắt vuông góc với nó, là đường bộ. Bên phải, quảng trường nhà ga, lúc nào cũng hoang vắng, trên đó chúng tôi đã tập đi xe đạp. Theo hướng ngược lại, ta đi dọc theo công viên. Trên vỉa hè bên trái, một tòa nhà với dãy hành lang làm bằng bê tông nơi nối tiếp nhau hiệu bán báo, rạp chiếu phim và hiệu thuốc. Con trai ông dược sĩ là bạn cùng lớp với tôi và, một đêm nọ, bố cậu ta đã tự sát bằng cách treo cổ lên một sợi dây buộc vào hiên của hành lang. Dường như người ta hay tự treo cổ vào mùa hè. Các mùa khác, họ thích tự sát bằng cách trầm mình xuống sông hơn. Chính ông thị trưởng của làng là người nói điều đó với ông chủ hiệu bán báo. Sau đó, đến một khu đất hoang được dùng làm chợ, thứ Sáu hằng tuần. Thảng hoặc ở đó dựng lên cái lều một gánh xiếc lưu động cùng đám nhà lán của một phiên chợ. Ta tới trước tòa thị chính và lối đi trên cao. Sau khi vượt qua đó, ta đi theo đường lớn của làng, nó lên cao mãi cho đến quảng trường nhà thờ và đài tưởng niệm liệt sĩ. Một dịp lễ mixa Giáng sinh, chúng tôi, em trai tôi và tôi, được hát trong dàn đồng ca tại nhà thờ ấy. Mời các bạn đón đọc Kho Đựng Nỗi Đau của tác giả Patrick Modiano & Hoàng Lam Vân (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Ông Ibrahim Và Những Đóa Hoa Coran
Một con phố nhỏ có tên là Màu xanh nhưng lại không xanh, giữa Paris vào những năm 1960. Bị mẹ bỏ rơi từ khi mới ra đời, Moïse, một thiếu niên Do Thái mười một tuổi chật vật xoay xở với cuộc sống thiếu thốn tình yêu bên ông bố khắc nghiệt. Những vật lộn trong đời đã đưa cậu đến với ông Ibrahim, chủ cửa hàng tạp hóa, một tín đồ Hồi giáo mật tông. Để rồinhững bông hoa trong cuốn kinh Coran của ông Ibrahim nở rộ trong tâm hồn cậu và lan tỏa đến mọi người. Không chỉ thể hiện một góc nhìn giản dị và hồn hậu về ý nghĩa của tôn giáo, cuốn sách còn chứa đựng nhiều suy ngẫm về tình bạn, về lòng bao dung, về nghị lực sống của con người trước những thử thách của cuộc đời. “Một câu chuyện giản dị nhưng đầy tính nhân văn [...] Ta cười, ta khóc, thật diệu kỳ!” - Paris-Match *** Một con phố nhỏ có tên là Màu Xanh nhưng lại không xanh, giữa Paris vào những năm 1960. Bị mẹ bỏ rơi từ khi mới ra đời, Moïse, một thiếu niên Do Thái mười một tuổi chật vật xoay sở với cuộc sống thiếu thốn tình yêu bên ông bố khắc nghiệt. Những vật lộn trong đời đã đưa cậu đến với ông Ibrahim, chủ của hàng tạp hoá, một tín đồ Hồi giáo mật tông. Để rồi những bông hoa trong cuốn kinh Coran của ông Ibrahim nở rộ trong tâm hồn cậu và lan toả đến mọi người. Không chỉ thể hiện một góc nhìn giản dị và hồn hậu về ý nghĩa của tôn giáo, cuốn sách còn chứa đựng nhiều suy ngẫm về tình bạn, về lòng bao dung, về nghị lực sống của con người trước những thử thách của cuộc đời. *** ÉRIC-EMMANUEL SCHMITT sinh năm 1960 tại Lyon (Pháp). Ông viết cuốn sách đầu tiên vào năm 11 tuổi, và vở kịch đầu tiên vào năm 16 tuổi. Ông đã học Đại học Sư phạm phố Ulm, bảo vệ luận án tiến sĩ triết học năm 1986, sau đó làm giảng viên triết học. Éric-Emmanuel Schmitt đã xuất bản hàng chục tác phẩm được đánh giá cao. Các tác phẩm khác của Éric-Emmanuel Schmitt do Nhã Nam xuất bản: Nửa Kia của Hitler Chàng Sumô Không Thể Béo Một Ngày Mưa Đẹp Trời Oscar Và Bà Áo Hồng Một mối tình ở điện Élysée Con Của Noé *** Với giá trị nhân văn, cuốn “Ông Ibrahim và những đóa hoa Coran” của tác giả Eric Emmanuel Schmitt mang đến thông điệp: Nếu các tôn giáo đều ứng xử với nhau bằng tình bác ái thì thế kỷ 21 sẽ chẳng biết đến chiến tranh. Cuốn sách được thực hiện bởi dịch giả - Th.S Nguyễn Đình Thành. Nên nhìn sự sống và cái chết như thế nào? Yêu thương, sự tôn trọng, thù hận, cô đơn, chủng tộc, màu da, đức tin, trẻ em, người già, xã hội, tệ nạn... người ta đã đang và sẽ nhìn nhận những cảm xúc và thực tại đó như thế nào? Eric Emmanuel Schmitt chọn đi vào con đường đầy gai góc ấy bằng tâm thức như của một đứa trẻ. Qua mỗi tác phẩm của mình, ông dành tặng độc giả một món quà tư duy, nhẹ nhàng về hình thức mà ý nghĩa lại nặng sâu. Cuốn sách “Ông Ibrahim và những đóa hoa Coran” của tác giả Eric Emmanuel Schmitt xuất bản tại Pháp vào năm 2001 và được tác giả Nguyễn Đình Thành dịch sang tiếng Việt. “Mười một tuổi, tôi đập vỡ lợn tiết kiệm và đi chơi gái. Con lợn của tôi bằng sứ tráng, màu bãi nôn, có một cái rãnh để tiền xu có thể chui vào nhưng không thể ra. Bố tôi đã chọn nó cho tôi, cái ống tiết kiệm một chiều này bởi nó giống với quan niệm sống của ông: tiền không phải để tiêu mà để tiết kiệm”, Eric Emmanuel Schmitt đã bắt đầu cuốn thứ hai trong bộ truyện của mình bằng những câu văn đầy khiêu khích như vậy. Moise là một cậu bé người Do thái 11 tuổi sống trong một khu phố tồi tàn tại Paris. Người cha là luật sư nhưng không có mấy việc để làm, bỏ bê cậu và thường xuyên hạ thấp cậu khi so sánh với một người anh mà ông bịa ra. Càng ngày cậu càng gần gũi ông Ibrahim - người bán rau quả, đồ ăn cùng phố cậu, một người Hồi giáo mà ai cũng tưởng là Ả rập. Ibrahim dạy cậu bé những điều tốt đẹp trong kinh Coran, nhưng cũng chỉ cho cậu những mẹo vặt để xoay thêm tiền của bố. Một ngày, bố cậu bé bỏ đi. Moise tự xoay xở và giấu không cho ai biết điều đó. Cảnh sát đến thông báo rằng bố cậu đã tự tử bằng cách đâm vào đường tàu. Ibrahim nhận cậu bé làm con nuôi. Từ đó, cậu bé người Do thái được ông bố nuôi theo đạo Hồi giải thích những bí ẩn của tôn giáo. Cậu theo chân ông trong chuyến hành hương về Istanbul, đến thăm những nhà thờ lớn của Công giáo, Chính thống giáo và Hồi giáo. Ông già chết đi để lại cho cậu bé cửa hàng mà cậu bé quản lý đến già. Chỉ với 84 trang sách, Eric Emmanuel Schmitt đã đưa ra những luận điểm lớn về ba tôn giáo. Những khái niệm thế nào là người Do thái, người Ả rập và thế nào là tôn giáo đều được ông Ibrahim giải thích. Giọng văn tuy nhẹ nhàng nhưng các vấn đề được đề cập lại không hề nhỏ: gia đình tan vỡ, nạn diệt chủng, trẻ em và tình dục, tự tử, kì thị chủng tộc... Những bài học làm người và sự bác ái: hiểu tất cả tức là tha thứ cho tất cả, muốn học một điều gì đó, người ta không đọc sách mà phải trao đổi với người khác, ta không tin vào sách vở. Cuốn sách cũng giúp người đọc khám phá một dòng Hồi giáo ít người biết đến. Khác với hai dòng chính thống: Chiite, Sunnite, dòng Soufi nhấn mạnh rằng sự giác ngộ phải đến từ việc tự soi xét mình chứ không phải chỉ viện dẫn kinh Coran là đủ. Ông Ibrahim cho người ta thấy đạo Hồi không hề là một tôn giáo hung hãn, hiếu chiến. Nếu các tôn giáo đều ứng xử với nhau bằng tình bác ái thì thế kỷ 21 - thế kỷ của chiến tranh tôn giáo theo luận thuyết của Huntington - sẽ chẳng biết đến chiến tranh. Với giá trị nhân văn và giáo dục cao, giọng văn hài hước và tự nhiên như trẻ nhỏ, không ngạc nhiên khi bộ phim cùng tên đã đạt được giải thưởng cao nhất của điện ảnh Pháp - giải César cho diễn viên đóng vai Ibrahim năm 2003. Năm 2004, cuốn truyện được in bản đặc biệt dành cho học sinh trung học tại Pháp. PV Review Mời các bạn đón đọc Ông Ibrahim Và Những Đóa Hoa Coran của tác giả Éric - Emmanuel Schmitt.
Bóng tối và Ánh sao
Samuel Gerard là một bậc thầy võ thuật, một quý ông điển trai, giàu có, quyền lực, nhưng phía sau lớp vỏ bọc mạnh mẽ, đó vẫn là một cậu bé bơ vơ luôn canh cánh nỗi sợ bị chối bỏ. Anh chỉ sống với một nửa con người, cho đến khi gặp cô… Leda Etoile là cô gái mồ côi được một quý bà độc thân nhận về nuôi dưỡng. Sau khi bà qua đời, cuộc đời xô đẩy cô đến làm việc ở tiệm may váy nhiều thị phi và tai tiếng. Được giáo dục theo nếp sống thượng lưu nhưng mang dòng dõi thiếu minh bạch, cô như mắc kẹt giữa hai thế giới. Tinh tế, đoan trang, ngây thơ và trung thành, cô chỉ biết chấp nhận thực tại cho đến khi gặp anh... Trong cuộc vùng vẫy giữa quá khứ và hiện tại, giữa danh dự và dục vọng… Chính CÔ đã thắp sáng phần đen tối trong anh, giúp anh học cách yêu thương bằng cả thể xác lẫn tâm hồn. Còn ANH đem đến cho cô niềm tin, thổi bùng lên trong cô ngọn lửa của đam mê và hy vọng.  “Laura Kinsale đã phá vỡ tất cả những quy tắc của lối viết thuần túy trong văn chương lãng mạn để tỏa sáng.” - San Diego Union-Tribune *** Với văn phong trong trẻo, giản dị, thuần khiết mà tràn đầy tình cảm cùng sự miêu tả sâu sắc, tinh tế những cảm nhận, suy nghĩ trong tâm tư của nhân vật, Laura Kinsale đã viết nên một câu chuyện tình gây thổn thức rất nhiều đối với tôi. Bà đã, như tờ báo San Diego Union-Tribune đã bình luận về “Bóng tối và Ánh sao”, “phá vỡ tất cả những quy tắc của lối viết thuần túy trong văn chương lãng mạn để tỏa sáng.” Quả thật như vậy, bởi bằng cách xây dựng hình tượng nhân vật nam chính trong tác phẩm này, Laura Kinsale đã vượt ra khỏi cái lối mòn hình tượng nam chính thường thấy trong rất nhiều tác phẩm lãng mạn dã sử để mang đến cho câu chuyện của mình một Samuel Gerard rất mực con người, với nhiều uẩn ức, đớn đau và bóng tối bắt nguồn từ quá khứ kinh hoàng khi còn bé. Chàng trai ấy sở hữu vẻ ngoài của một thiên thần, với khuôn mặt và hình thể đẹp như tạc, mái tóc vàng và đôi mắt xám hút hồn, lớp vỏ bọc mạnh mẽ, cùng tiền tài và quyền lực. Nhưng trái ngược với hình ảnh thiên thần Gabriel tỏa sáng bên ngoài, Samuel Gerard lại mang trong mình phần tăm tối của bóng đêm. Anh đã từng là một cậu bé bơ vơ, không gia đình, không gốc gác, cả cái tên Samuel Gerard cũng là một cái tên tự cậu chọn lấy từ cuốn gia phả những dòng họ người Normandy. Anh đã từng là một cậu bé đã từng bị bán vào nhà chứa những đứa bé trai bị bắt làm điếm cho những ông già ấu dâm, đã từng bị cưỡng bức và lạm dụng tình dục. Cậu bé ấy may mắn được gia đình Hầu tước Ashland giải thoát khỏi chốn địa ngục đó và mang về nuôi. Lớn lên tại quần đảo Hawaii, bên cạnh tiểu thư Catherine “Kai” – con gái Hầu tước, và ông thầy Dojun người Nhật Bản, Samuel dành cả thời niên thiếu để trui rèn bản thân trở thành một bậc thầy võ thuật cừ khôi, một đấu sĩ sắt đá với trái tim là thanh đao, cố gắng chống lại cám dỗ của ham muốn và tình yêu với đàn bà – thứ được người thầy Dojun xem là điểm yếu của cậu. Vì cái quá khứ kinh hoàng luôn ám ảnh, cái quá khứ Samuel luôn xem là nhơ nhớp ấy, anh lớn lên với suy nghĩ mình luôn là đại diện cho bóng tối, là một con người không thể được yêu thương. Anh nhìn ra ở tiểu thư Catherine cái phần ánh sáng, thánh thiện mà anh không bao giờ có được, và quyết tâm sẽ kết hôn với Catherine để dùng cái ánh sáng ấy giúp mình chống đỡ lại phần tối tăm của con người mình. Anh tôn thờ ý tưởng có Catherine làm vợ, tôn thờ cái cảm giác như lẽ đương nhiên chuyện anh và cô sẽ trở thành vợ chồng – một mối quan hệ trong sáng, không nhục dục, không gây đau đớn và tổn thương. Nó trái ngược hoàn toàn với những gì anh cảm nhận được khi gặp Leda Étoile – cô gái thường dân mang nửa dòng máu Pháp, tao nhã, duyên dáng, được giáo dục trong môi trường quý tộc, nhưng cũng giống như Samuel, không thuộc về bất cứ nơi đâu. Càng gặp Leda, Samuel càng bị nàng ám ảnh: mùi hương của nàng, hình ảnh cái hông nàng, dáng hình tràn đầy nữ tính của nàng. Có lẽ tình yêu đã nảy nở giữa một quý ông sống với cái phần tăm tối của mình và ánh sao (“étoile” trong tiếng Pháp có nghĩa là “ngôi sao”) rồi đây sẽ soi rọi cuộc đời anh ngay từ cái khoảnh khắc anh nhặt giùm nàng cây kéo trong tiệm vải. Nhưng vì những gì Samuel cảm thấy với Leda, đối với anh lại là điểm yếu của anh, là cái cám dỗ anh luôn hãi sợ sẽ kéo mình xuống vực thẳm, nên Samuel cùng lúc vừa muốn Leda, lại vừa muốn đẩy nàng ra xa khỏi tâm trí. Và anh đã làm khá nhiều chuyện sai lầm, đã nói khá nhiều lời gây tổn thương, đã hành xử khá nhiều lần lạnh nhạt với Leda, khi anh vẫn chông chênh trên con đường nhận thức và học hỏi được rằng, anh xứng đáng được yêu thương, và anh có thể được yêu thương, bởi người một người phụ nữ bình thường nhưng quý giá hơn tất thảy: Leda. Leda không phải là mẫu mực của một nữ anh hùng trong dòng tiểu thuyết lãng mạn dã sử với khí chất mạnh mẽ, khác biệt, hơn người. Nhưng ở nàng có những phẩm chất cùng sự can đảm tiềm tàng, phù hợp với chuẩn mực phụ nữ thời Victoria: chung thủy, kiên trung, sẵn sàng đấu tranh, bằng tình yêu và lòng tận tâm của mình dành cho nam chính, để cứu lấy mối quan hệ giữa anh và nàng, và để cả hai có được hạnh phúc thật sự. Tôi đọc và thấy thương cho Samuel, những đoạn khi anh chàng, vẫn là một cậu bé của quá khứ lẩn khuất bên trong dáng hình người đàn ông trưởng thành, không biết phải đối mặt hay xử trí như thế nào trước sự cuốn hút về thể xác và tâm hồn mà anh cảm nhận được với Leda. Và tôi cũng thương cho Leda, cho người con gái luôn phải đối mặt với những cơn bốc đồng, những lời nói nhát gừng, những cử chỉ gây đau đớn mà Samuel thể hiện; cho nỗi buồn, niềm tủi thân mà nàng phải nếm trải vì sự giằng xé của Samuel. Leda nói đúng, nếu nàng không yêu Samuel nhiều đến thế, không tận tụy vì chàng đến thế, thì có lẽ, nàng đã bỏ chàng ra đi từ lâu lắm rồi… Và chính nhờ những mâu thuẫn, giằng xé, hiểu lầm đó, mà cái kết có hậu lại càng thêm ngọt ngào và ngập tràn hạnh phúc. – Nguyễn Việt Ái Nhi Review *** 1887 Ở một nơi tối tăm và tịch mịch, anh ngừng việc suy nghĩ. Anh để những tiếng người ồn ào lắng xuống, để âm thanh của cơn gió nhẹ thổi qua những tấm rèm lấp đầy tâm trí. Anh nhìn bóng phản chiếu lờ mờ của chính mình trong gương cho tới khi khuôn mặt đó biến thành của một người xa lạ, một tập hợp các đường nét không biểu cảm trong cặp mắt màu bạc và cái miệng cứng nhắc… và sau đó không còn là người lạ nữa, chỉ là một chiếc mặt nạ khắc khổ… rồi thậm chí xa hơn thế: không còn nhận dạng mà thay bằng những hình thù cơ bản. Chỉ có quang phổ của bóng tối và ánh sáng, một thực thể hữu hình và vô hình. Với thực tế trước mắt, anh dự định thay đổi thành một người khác. Để giấu đi màu tóc vàng, anh mượn một món đạo cụ từ nhà hát kịch kabuki[1] - chiếc mũ trùm đầu màu đen mà các kuroko[2] đôi khi họ kín đáo bước lên sân khấu để thay đổi bối cảnh. Để che diện mạo thật, anh không vẽ mặt hay bôi nhọ nồi vì như thế chưa đủ - khó tẩy trang nhanh và quá dễ bị nhận ra. Thay vào đó, anh bịt một chiếc khăn che mặt màu than chì chỉ để hở đôi mắt làm từ loại vải mềm như chiếc áo choàng màu xám đen anh buộc quanh thắt lưng. Bên trong bộ trang phục tối màu anh mang theo thiết bị dùng để trèo tường, để phóng điện, để trốn chạy hay sát thương, để giết người. Anh chọn đi tabt[3] mềm thay cho giày vì nó giúp bước đi nhẹ nhàng và thật chân hơn. Đất… nước… gió… lửa… và khoảng không. Anh ngồi khoanh chân trên sàn. Bằng đôi tai, anh lắng nghe tiếng gió dịu dàng nhưng không ai đủ sức chặn lại. Bằng những đốt xương, anh cảm nhận toàn bộ sức mạnh to lớn của mặt đất phía dưới. Bằng tâm trí, anh chấp nhận sự trống rỗng. Bất động, anh hòa lẫn vào bóng đêm: vô hình trong gương, tan vào cơn gió. Với những ngón tay đan vào nhau, anh triệu hồi quyền lực của ý chí để thay đổi thế giới như nó vốn hiện hữu. Anh đứng dậy và biến mất. Mời các bạn đón đọc Bóng tối và Ánh sao của tác giả Laura Kinsale.
Bông Hồng Yểu Mệnh
Tác phẩm xoay quanh hai nhân vật chính: Louisa (39 tuổi) và Paul (18 tuổi). Hai con người đều mang trong mình những giằng xé nội tâm. Paul bị ám ảnh khi chứng kiến cái chết của cha mình, ở trường học cậu hay bị bạn bè bắt nạt cho đến khi cậu gặp Daniel (hơn Paul 1 tuổi và không biết chữ, con của một tên trộm). Giữa hai người nảy sinh tình bạn thân thiết. Nhưng đứng trước ngã rẽ cuộc đời, Paul muốn có cuộc sống mới, học đại học và trở thành giáo viên; còn Daniel lại không muốn Paul chọn con đường đó. Trong một lần cả hai đi ăn trộm, Paul đáng lẽ có thể ngăn chặn Daniel giết người, nhưng vì ích kỷ cá nhân Paul đã không làm vậy. Cậu trở thành nhân chứng trong vụ án của Daniel. Lo sợ cha Daniel sẽ hại mình, Paul tham gia vào chương trình bảo vệ nhân chứng, cậu đến làm vườn ở Kelstice. *** Review sách Bông Hồng Yểu Mệnh: Nếu bạn đang mong chờ một cuốn sách trinh thám gay cấn với tình tiết gấp gáp, li kỳ, những pha suy đoán xuất sắc, rượt đuổi ngoạn mục, có lẽ "Bông hồng yểu mệnh" không phải là sự lựa chọn phù hợp."Một đám mây mơ hồ mang bóng hình anh, trôi thấp đến mức cô tưởng như có thể chạm vào và kéo xuống"... "cô nhìn thấy anh thay vì chính mình trong tất cả các vũng nước trên đường và trong các tấm kính". Đó là những dòng chữ đã gây ấn tượng mạnh mẽ với tôi ngay từ trang đầu tiên, cho tôi kiên nhẫn và niềm tin để đọc đến hết dù bạn bè của tôi đã đưa ra những ý kiến trái chiều. Tôi thích cách miêu tả tâm lý như thế của Erin Kelly - thực sự giàu hình ảnh. Hai nhân vật chính là những người mang trong lòng mình quá nhiều ký ức, những ký ức ám ảnh đến vỡ vụn tâm hồn. Louisa, thường xuyên thực hiện "nghi lễ trừ tà" với ám ảnh chính mình, ở tuổi 19 đã giết chết Adam, người cô yêu mãnh liệt và cuồng dại. Paul, chàng trai trẻ được sinh ra sau cả khi cô "giết chết" Adam cũng đã có cuộc sống vô định, vật vờ khi tận mắt chứng kiến cái chết kinh hoàng của cha và một thời gian dài làm bạn, sống như cái bóng và không thể thoát ra khỏi một tên tội phạm, chẳng có sự quan tâm của người thân. Cả Louisa và Paul đã vật lộn, vẫy vùng và chìm nghỉm trong vực thẳm, trong hố sâu mà cả 2 đã tự đào cho riêng mình. Hai nhân vật gặp nhau, đến với nhau như sự sắp xếp tình cờ của số phận. Họ tìm thấy sự bình yên tại khu vườn cổ, một khu vườn thật kỳ diệu. Họ đồng cảm cùng nhau khi chưa biết chút gì về quá khứ của nhau. Và cả 2 bị cuốn vào những rắc rối của nhau trong hiện tại.Tuy không đánh giá là một cuốn sách thật xuất sắc, nhưng nếu bạn thích những đoạn miên man, đắm chìm trong tâm lý nhân vật, nếu bạn yêu cái đẹp của ngôn từ, sự hoàn hảo của khu vườn cổ, có lẽ bạn cũng sẽ giống tôi, chẳng tiếc thời gian bỏ ra để thả hồn mình vào trang sách.Nhưng có lẽ, với tôi, nếu tác giả tiết chế một vài đoạn, sử dụng những chi tiết chọn lọc mang tính chất đại diện, đặc trưng thì có lẽ tác phẩm sẽ trọn vẹn và thu hút hơn. Hồng Khánh, 22.9.2018. *** Tháng Chín năm 2009 Ngay khi vừa thức dậy, Louisa đã biết, tối nay mình sẽ phải làm việc này. Cảm giác như có một cơn bão đang thành hình mà chỉ riêng cô cảm nhận được. Nó lơ lửng trong không trung suốt cả ngày. Các dấu hiệu cùng nhau xuất hiện: tiếng nhạc trở nên không thể chịu đựng nổi, những đoạn đối thoại vô thưởng vô phạt giờ đây cứ vang lên trong đầu cô như tiếng “tích tắc” từ một quả bom hẹn giờ, còn ký ức thì như những con bọ chét lẫn trong chăn đệm cắn cô vào ban đêm. Và rồi, sáng hôm đó, cô đã gặp lại anh. Một đám mây mơ hồ mang bóng hình anh, trôi thấp đến mức cô tưởng như có thể chạm vào và kéo xuống. Nỗi sợ hãi xâm chiếm lấy cô cho đến khi hình bóng đó bị gió thổi tan đi. Kể từ lúc ấy, cô hoàn toàn lạc lối: cô nhìn thấy anh thay vì chính mình trong tất cả những vũng nước trên đường và trong các tấm kính. Trong tiếng nói cười của người qua kẻ lại trên đường, cô chỉ nghe âm vang giọng nói của anh. Mọi vật trong vườn như đang chuyển động và lớn lên để hình thành chữ cái trong tên anh: cái thang đang dựa vào tường tạo thành chữ A, những đường ngoằn ngoèo mà ai đó rạch ra trên nền sỏi của mảnh đất trồng hoa giống như chuỗi những chữ M vô tận. Riêng đống đổ nát trước mắt là không đổi dạng, ba ống khói còn lại chọc thẳng lên trời như những thân cây bị sét đánh trúng. Trưa đến, khi nắng chiếu qua những ô cửa sổ không kính, tạo thành những vạch chia giờ, nhìn như chiếc đồng hồ cổ khổng lồ. Louisa biết, điều gì sẽ xảy ra khi đêm xuống, nên cô muốn ngày sẽ kéo dài mãi mãi; nhưng tất cả những công việc và những cuộc trò chuyện trong ngày chỉ như một vệt nhòe và trôi qua quá nhanh. Cô là người đến khu vườn đầu tiên và cũng là người cuối cùng rời đi. Cô kiểm tra xem cánh cửa vào nhà kính đã đóng chưa, nhanh chóng phân biệt từng chiếc chìa khóa giống hệt nhau trong chùm chìa, rồi khóa căn cabin lại. Cô lần theo đường cáp dày tìm công tắc ngoài trời, ấn nhẹ và cả không gian chìm trong bóng tối. Trăng còn sáng mờ mờ, cô thắp đuốc lên và men theo con đường chỉ mình cô biết. Cô băng qua khoảng đất đang phủ bạt. Khoảng đất này sẽ sớm trở thành bãi đỗ xe mới. Cô đi tiếp qua những bụi cây rậm rạp và cuối cùng đứng đối diện với bức tường. Cảm xúc đang dồn nén trong lòng khiến cô thấy nôn nao. Cô tự nhủ với bản thân rằng, đây sẽ là lần cuối cùng. Lần cuối của lần cuối cùng. Đã có quá nhiều lần cuối cùng rồi. Khi vào bên trong, Louisa theo thói quen nhấn công tắc ấm đun nước, rồi lại tắt nó đi ngay trước khi nước kịp sôi: cô không định uống trà tối nay. Cô đang bận rộn với nghi lễ. Trước tiên phải thắp đèn, rồi sau đó là châm nến. Một vài chiếc nến lớn đã cháy đến gần bấc nên cô buộc phải thò tay vào trong ống đèn, ngọn lửa mới thắp liếm vào mu bàn tay khiến cô bỏng rát. Cô kiểm tra lại các cửa sổ thêm lần nữa, kéo tấm rèm cửa màu vàng xuống để không ai bên ngoài nhìn vào được. Dù sao thì ai đang theo dõi cô chứ? Cô ngồi bên mép giường chừng một, hai phút, đợi lò sưởi làm căn phòng ấm lên, cho bản thân một cơ hội để rút lui. Nhưng rồi cô lại quỳ xuống, mò mẫm tìm chai rượu dưới gầm giường. Ngón tay cô run run chạm vào mặt thủy tinh mát lạnh, phần tiếp xúc với cổ chai và nút chai hơi dinh dính, gợn gợn một lớp bụi mỏng. Louisa nhíu mày. Đã bao lâu rồi cô mới làm việc này? Từ mùa xuân? Đúng, cô chợt nhận ra mình đã cố kháng cự nó trong suốt mùa hè. Thảo nào sự cám dỗ lại thôi thúc cô mãnh liệt đến vậy. Cô có thể quên anh trong suốt những tháng ngày công việc ngập đầu ngập cổ, khiến cô ngủ li bì hàng đêm do kiệt sức. Nhưng giờ là tháng Chín, thời điểm giao mùa trong năm, buổi đêm kéo đến nhanh hơn. Dù có dậy sớm hay làm việc chăm chỉ đến mức nào, cô cũng không thể trốn chạy sự thực rằng mình buộc phải ra về sớm hơn vào mỗi tối, và mỗi ngày qua đi lại mang đến thêm những phút giây yên lặng mơ hồ. Khoảng thời gian trống rỗng đó cứ chồng chất lên nhau khi một tuần trôi qua. Và đối với cô, chỉ một giờ tĩnh lặng, tối tăm đã là quá đủ. Cô mở nút chai và tu một hơi, cảm nhận rõ cổ họng bỏng rát. Giờ thì nghi lễ trừ tà có thể bắt đầu. Không còn nhiều vodka lắm, nhưng như vậy là đủ, nó tiếp thêm can đảm để cô uống whiskey. Chưa chi chân cô đã muốn không vững, cô leo lên giường và với tay lên cái tủ treo tường. Cánh tủ hẹp, giấu đi không gian sâu chừng hai, ba feet, cô thọc tay đến tận bả vai khi mò mẫm giữa những chồng túi và hộp được sắp xếp cẩn thận. Cuối cùng, cô cũng chạm tay vào đúng chiếc túi mình cần. Cô lôi nó ra mạnh đến mức ngã lăn ra giường, cái túi nylon đập lên bụng, một chai whiskey lăn ra. Cô dốc những thứ còn lại trong túi ra như thể một đứa trẻ đang dốc ngược chiếc tất Giáng sinh, dù cô biết sẽ không có bất ngờ nào. Cô trải đều mọi thứ lên giường, tự hỏi mình nên bắt đầu từ đâu, cô nhận thấy mạch ở cổ họng, cổ tay và lồng ngực đang tăng. Cô bắt đầu với chai nhỏ màu xanh tinh dầu hương cỏ, mở nắp và hít một hơi. Còn chừng một phần tư. Cứ mỗi năm trôi qua mùi hương lại nhạt dần, nhưng nó là của anh, anh đã dùng nó nên cô sẽ không bao giờ thay thế báu vật của mình bằng một lọ mới. Cô xức một chút lên phía sau mang tai, nhớ lại cách anh thoa chúng, anh lấy ngón cái ấn nhẹ lên cổ và cổ tay. Tinh dầu phản ứng khác nhau với mỗi người nên cô chẳng thể nào tái tạo lại chính xác mùi hương của anh, nhưng thế cũng tốt lắm rồi. Chai whiskey này không phải của anh, nhưng đó là nhãn hiệu anh yêu thích, loại whiskey Ai-len cổ lỗ và không có tiếng tăm nên chẳng ai tầm tuổi anh biết tên, chứ đừng nói là uống. Nó rất khó kiếm ở London. Việc cô có được một chai rượu như vậy đơn giản chỉ là kết quả từ tình yêu còn lại. Khi ấn chai rượu vào miệng, cô cảm giác như đang hôn anh, cô nhắm mắt lại như thể anh đang ở đây. Cô uống nhiều hết mức có thể và run rẩy đặt chai rượu xuống cạnh ngọn nến, óng ánh lan tỏa ánh sáng màu hổ phách. Mang theo chiếc gương duy nhất từ phòng tắm, Louisa cần trang điểm một chút, làm dịu làn da đã khô mỹ phẩm bằng vài giọt dầu ô-liu lấy từ một ngăn nhỏ. Chì kẻ mi của hãng Blackpool, còn son là của Black Cherry, cả hai đều có màu đậm vốn chỉ hợp với làn da căng mịn, trẻ trung. Cô vén tóc sang một bên, dùng cặp tóc kẹp chặt một cách thô bạo, khiến cho một phần mặt của cô - chừng nửa inch - lộ ra. Giờ mặt cô đang nghiêng về một phía. Cô xõa tóc ra và hất về bên trái. Thế này sẽ tốt hơn. Cô giơ chiếc váy lên, nhìn nó lúc nào cũng nhỏ hơn so với trong trí nhớ của cô. Cô thực sự đã mặc thứ ngắn như vậy đi ra ngoài sao? Như mọi lần, cô nín thở khi mặc nó, sau đó lại thở phào nhẹ nhõm như thường lệ khi thấy mọi thứ vẫn ổn, có chăng hơi rộng do vải bị giãn. Phần vải nhung màu mâm xôi trước ngực rủ xuống, giờ ngực cô không còn căng như trước, nhưng bụng cô cũng không xệ ra. Cô vặn vẹo khuôn mặt, trong tấm kính mờ, hình dung bản thân thời son trẻ đang trề môi trêu chọc lại cô. Thật không công bằng, cô không thể ngừng suy nghĩ, anh sẽ luôn trẻ trung như vậy. Cô với tay lấy chai rượu và suýt làm đổ ra ga giường. Cô đang say, đang rất say, nhưng vẫn uống thêm chút nữa. Louisa ngó quanh căn phòng tối. Trong giây lát, cô không hiểu chiếc ti vi đã biến đi đâu, rồi sau mới nhớ ra mình đã lấy nó làm bệ đỡ khi hong khô mấy chiếc đèn lồng Trung Hoa. Cô nhấc bình hoa và kéo tấm khăn phủ, để lộ một dàn máy tích hợp đầu phát video. Cả thứ này nữa cũng nhỏ hơn trong ký ức của cô. Nó là mẫu mới nhất lúc bố mẹ tặng cho cô. Giờ không có ăng-ten, còn điều khiển từ xa đã mất từ lâu. Liệu nó còn hoạt động không? Cô cảm thấy hơi sợ khi nhẩm tính lại quãng thời gian đã trôi qua kể từ lần cuối sử dụng. Cô cắm điện, cảm thấy nhẹ nhõm khi màn hình sáng lên. Cuộn băng có tên Glasslake này, như cô biết, hiện không còn bản nào nữa. Cô nắm chặt, gần như thách thức mình bóp nát nó. Thật dễ dàng để móc ngón tay nhỏ bé của cô vào cuộn băng và moi ruột nó ra. Cô biết mình nên phá hủy nó. Mỗi mùa đi qua cô càng thêm tự tin rằng sẽ không ai phát hiện ra mình, nhưng nếu bị phát hiện và nếu mọi thứ phản pháo lại cô, thì việc sở hữu cuộn băng này sẽ là một thảm họa. Nhưng giờ đây cô không thể làm việc đó, bất lực ngăn cản bản thân nhét cuộn băng vào đầu máy và ấn nút Play. Đoạn mở đầu chạy qua trước mắt cô theo một thứ tự quen thuộc: những hình ảnh quảng cáo thuốc lá và cà phê, đường dây 0898 dành cho những ai cô đơn đang cần khuây khỏa, đoạn mào đầu một chương trình xa xưa trên kênh 4 mà hẳn là nội dung ban đầu của cuộn băng này. Sau đó, đoạn hình ảnh phát sóng bị ghi đè lên bằng một đoạn ghi hình nghiệp dư. Khi máy quay rung rung tiến sát vào anh, ngay lập tức cô cảm thấy xao xuyến như lần đầu gặp gỡ. Anh đưa tay lên hất mái tóc khỏi mắt, cô sắp nhìn thấy vài sợi chỉ bị tưa nơi cổ tay của bộ áo liền quần màu đen anh đang mặc và cả lời hát được viết nguệch ngoạc ở mặt trong cánh tay anh. Sau này, khi đã quen nhau, anh nói với cô rằng, đôi khi những lúc lo lắng, anh sẽ quên bẵng mất những từ ngữ mình dành hàng giờ để viết. Tiếp theo là một vài đoạn ghi khác, ánh sáng mờ ảo, âm thanh méo mó, nhưng đây là phần Louisa thích nhất bởi cô đã ở đó. Cô ở đó trong khung hình đầu tiên với bộ váy xanh; rồi cô cũng xuất hiện trong cảnh thứ hai, đứng ngay trước máy quay nên có thể nhìn thấy đỉnh đầu của cô trong suốt cảnh quay. Có vẻ như anh đang hướng về phía ống kính và biểu diễn, mặc dù Louisa biết rõ tất cả những lời anh hát đều dành cho cô và hướng về cô. Đó là bằng chứng cho thấy, dù sau đó có chuyện gì xảy ra giữa hai người đi nữa, thì ngay lúc này đây anh vẫn khao khát cô nhiều như cô khao khát anh. Cô hiểu rằng, đó chính là lý do thực sự ngăn cản cô phá hủy cuốn băng này. Adam đang nhìn vào ống kính giữa những tiếng la hét cuối buổi biểu diễn. Sau một hồi dò dẫm, Louisa cũng tìm được nút Pause và dừng cảnh phim lại. Anh đang nhìn cô với ánh mắt đắm say và cáo buộc. Sự hối tiếc dâng lên trong cô mạnh mẽ đến mức gần như trở nên ngọt ngào. Cô nhoài người về phía ti vi như muốn ôm lấy nó. Cô tin rằng khao khát trong cô đủ mạnh để kéo anh ra khỏi màn hình nơi anh đang đứng yên đó, để trở về với cuộc sống, nhưng những gì cô nhận được chỉ là một nụ hôn nóng bỏng qua màn hình. Mời các bạn đón đọc Bông Hồng Yểu Mệnh của tác giả Erin Kelly.
Gia Hương
Marilynne Robinson là tác giả của tác phẩm văn học tân cổ điển đã giành giải PEN/Hermingway, đó là Housekeeping (Gia Hương). *** Bình về tiểu thuyết Gilead của Marilynne Robinson: "Gilead là một cuốn tiểu thuyết đáng đọc, nghiền ngẫm, suy tư... Tôi muốn thấy cốt truyện này xuất hiện trên khắp đất nước tôi và có thể đặt cùng với những cuốn kinh thánh, sách thanh ca và các bộ sưu tập quý giá. Cuốn sách là một điều nhắc nhở chúng ta hướng đến cuộc sống cao thượng và nhân văn và chính vì thế - cuốn tiểu thuyết thật sự đáng trân trọng." - Anne Patchett, The Village Voice. "Những cuốn tiểu thuyết về đời sống tâm linh như thế này thật là hiếm, nhưng đây lại là một trong những cuốn tiểu thuyết xuất sắc nhất." - Newsweek "Những độc giả không quan tâm đến tôn giáo cũng sẽ tìm thấy sự siêu thoát trong những bài thánh ca về sự sống..." câu chuyện đã lưu giữ lại những huy hoàng cũng như cạm bẫy trần thế được thể hiện qua lăng kính hồi kết của một cuộc đời." - The Atlanta Journal Constitution. *** Marilynne Summers Robinson (sinh ngày 26/11/1943)  là một trong số ít nhà văn Mỹ tuy cho ra mắt tác phẩm ít ỏi nhưng sách của bà lại được công chúng độc giả yêu thích và những người viết điểm sách thế giá quí trọng. Kể từ quyển tiểu thuyết đầu tay Housekeeping (Trông nhà - 1980) - được trao giải văn chương Pulitzer năm 1982, mãi tới năm 2004 tác phẩm thứ nhì Gilead (Gia hương) mới ra mắt độc giả - Pulitzer năm 2005, và vào tháng 8 năm 2008 bà mới cho xuất bản Home (Nhà), quyển tiểu thuyết thứ ba. Với quyển tiểu thuyết này, năm 2009, Marilynne Robinson đã đoạt giải Orange dành cho các cây bút nữ trên khắp thế giới.   Marilynne Robinson trưởng thành ở bang Idaho, tốt nghiệp cử nhân năm 1966 và tiến sĩ văn chương ở Đại học Washington năm 1977. Bà là giáo sư thỉnh giảng của nhiều đại học nổi tiếng ở Mỹ và hiện nay dạy ngành sáng tác ở Iowa Writer’s Workshop. Là người thích sống ở vùng quê yên tĩnh nên bà đã chọn tiểu bang Iowa để sinh sống, dạy học, và sáng tác. Năm 2007 Marilynne Robinson nghỉ dạy học một năm để hoàn thành tác phẩm Home.   Marilynne Robinson cũng viết mục điểm sách cho các tạp chíHarper’s, The Paris Review, và The New York Times Book Review.  *** Cốt truyện của quyển Gia Hương rất đơn giản nhưng chúng ta đọc Marilynne Robinson không chỉ để biết cốt truyện mà để trước hết đặt mình trong hoàn cảnh nhân vật, trong tính cách nhân vật xem bản thân mình sẽ nghĩ tưởng và hành động ra sao sau khi đọc những mô tả tình cảm, tư tưởng và hành động của một nhân vật. Đọc Marilynne Robinson cũng còn để thưởng thức văn chương trong từng câu từng chữ tác giả đã viết ra. Viết tiểu thuyết nhắm tới những cái đích này và đạt được tới đích ở một mức độ nào có thể là thước đo một tài năng tiểu thuyết. Truyện có thể tóm lược trong vài dòng như sau: Vào quãng năm 1957 vị Mục sư ở Iowa tên Robert Boughton nay đã ngoài tám mươi, góa vợ từ lâu và đang lâm trọng bệnh. Glory, nay đã 38 tuổi, dạy học, vừa qua một cuộc tình đớn đau sau khi biết được người đàn ông đã có vợ lợi dụng tiền bạc và đã manh tâm đề nghị cưới mình làm vợ nên phải dứt tình bỏ đi. Cuộc tình thất bại, bị phản bội nên Glory tìm về căn nhà của gia đình ở Gilead để trước hết chăm sóc cha già bệnh hoạn, sau nữa cũng để hàn gắn cuộc đời đổ vỡ của mình. Cũng dịp này, người anh của Glory là Jack Boughton, đứa con hoang của gia đình cũng tìm về căn nhà gia đình. Mục đích sự trở về của Glory có thể khá rõ ràng, nhưng mục đích trở về của Jack lại có vẻ mơ hồ. Hai mươi năm trước đây Jack đã làm cha mẹ anh em đau đớn tủi hổ vì anh: Jack hồi đó là một tên nghiện ngập, trộm cắp lừa đảo trong vùng. Jack cũng đã làm cho một thiếu nữ vị thành niên mang bầu rồi anh ta phải bỏ xứ ra đi. Mục sư Boughton và Glory đã phải đến nhà của người thiếu nữ này để tạ lỗi và đề nghị với bà mẹ của người thiếu nữ cho phép nhận con dâu và đứa con trai của Jack nhưng bị từ chối thẳng thừng nên cảm thấy rất tủi hổ nhực nhã. Nghe nói từ khi bỏ nhà ra đi Jack sống lang bạt kỳ hồ, làm nhiều việc bất lương và cũng có dan díu với một phụ nữ da đen tên Dehlia là con gái một mục sư ở St Louis. Hai người đã có một đứa con trai. Trong những na9m xa gia đình Jack cũng đã trải qua nhiều năm tù tội.       Lần cuối Glory gặp Jack khi còn ở nhà khi đó cô mới 16 tuổi. Nay cả hai anh em đã vào tuổi trung niên nên cuộc trùng phùng cũng thật ngỡ ngàng. Câu hỏi “Trở về nhà nghĩa là gì?” là câu hỏi cả Glory, Jack và ngay cả người cha già trên giường bệnh đều cố gắng tìm một câu trả lời. Trở về nhà lần này bề ngoài Jack đã có vẻ như một người biết tu tỉnh: Anh làm vườn, sửa xe, ăn mặc bảnh bao sạch sẽ, lời ăn tiếng nói với cha với em cũng có vẻ tình cảm, nhẹ nhàng, đầm ấm hơn xưa. Nhưng có thật đứa con hoang đó tuy đã trở về nhưng có ở lại không? Marilynne Robinson dùng Glory làm nhân vật thuyết thoại ở ngôi thứ ba của quyển sách. Qua lời kể của Glory người đọc đi vào những góc sâu thẳm nhất trong tâm hồn của mục sư Robert Boughton, Jack, và của cả Glory nữa. Họ không nói năng với nhau nhiều tuy cùng sống dưới mái ấm gia đình. Nhất là giữa Jack và Glory, những hành vi cử chỉ ánh mắt nụ cười của họ nói lên nhiều hơn là những câu đối thoại. Cũng qua những mẩu đối thoại ngắn ngủi hai anh em đã thố lộ cho nhau biết quãng đời riêng của mỗi người từ khi xa cách. Cả Jack lẫn Glory đều biết cha mình là người hết lòng yêu thương con cái nhưng ông yêu thương theo cái cách riêng của ông. Cùng chăm sóc cha già bệnh hoạn chờ chết, Jack và Glory trở nên hiểu biết và thương yêu nhau hơn, và cũng thương xót người cha khá đặc biệt của mình hơn. Vào những giờ phút cuối trong đời ông vẫn cố gắng tìm hiểu đứa con trai hoang tàng, vẫn nuôi niềm hy vọng rất trẻ thơ đứa con hư hỏng này và hy vọng nó sẽ ở lại với gia đình. Nhưng khi Jack nhận được những bức thư anh gủi cho Dehlia bi trả lại, tâm hồn Jack tan vỡ xụp đổ và những thói hư tật xấu trước đây lại tái diễn. Tất nhiên những hành vi này của anh ảnh hưởng lớn lao tới tinh thần và bệnh trang người cha. Và cuối cùng Jack một lần nữa lại bỏ cha già bệnh hoạn em gái cô đơn  ra đi. Làm sao ta có thể hiểu được Jack đứa con hoang này? Mục sư Ames, một người bạn chí thân của mục sư Boughton trước đây khi nhớ về Jack khi còn nhỏ đã có ý cho rằng Jack là một kẻ có tâm hồn ti tiện, xảo quyệt lừa dối, hành vi hoàn toàn vô trách nhiệm. Nhưng với mục sư Boughton cha anh ông nghi rằng những hành vi xấu xa của con trai mình dường như xuất phát từ một cảm thức sơ khai sâu thẳm: nó luôn thấy mình lạ lẫm với tất cả mọi thứ chung quanh. Ông từng nói: “Tôi chưa từng thấy một đứa trẻ nào lại không cảm thấy mình đang ở trong nhà mình khi nó ở ngay trong căn nhà nó sinh ra như thế. Tôi luôn luôn cảm thấy mình phải đối phó với một nỗi u buồn, một thứ cảm giác chĩu nặng trong lòng.”      Khi Jack trở về, ông đã rất cố gắng làm hòa với đứa con hư tuy bề ngoài vẫn tỏ ra nghiêm khắc. Hai cha con có những lần nói chuyện với nhau, cha giảng giải than thở và con làm thinh chịu đựng. Glory luôn khuyên cha hãy đối xử nhẹ nhàng hơn với Jack và ông cũng đã cố gắng làm theo lời con gái. Câu hỏi dằn vặt trăn trở ông là: Không hiểu tại sao Jack lại không thể yêu thương cha và các anh chị em? Câu hỏi này dường như ông không thể có câu trả lời chính vì Jack cũng đã không có một câu trả lới nào. Marilynne Robinson là nhà văn có niềm tin tôn giáo khá độc đáo. Trong quyển Gilead tác giả  cũng đã nói về lòng độ lượng và nhân từ của cha mình qua ký ức của Glory khi nghe ông giảng đạo ở nhà thờ trước đây. “Ông có nhắc tới tội lỗi khi giảng, nhưng theo ông biết tội lỗi thậtlà hiếm hoi, đó chẳng qua chỉ là vấn những hành vi và những sự sơ xuất rất hường tình, cho nên chẳng có ai là người hoàn toàn không có hành vi tội lỗi hay sơ xuất hoặc biết được chúng để tránh, chẳng hạn tránh  một ý tưởng không vị tha hay một hành vi bất cẩn…chính vì vậy ngay một kẻ đúc hạnh nhất cũng không có tư cách gì để phán xét một người khác.” Chính vì quan niệm như vậy cho nên người đọc thấy trong quyển Home/Nhà thiện đi liền với ác, cao thượng song hành với hèn hạ, ân sủng nối gót thất sủng… Marilynne Robinson là người hướng về Thượng đế trong sự trầm mặc tịch mịch. Cho nên tuy viết tiểu thuyết với khung cảnh là thành phố Gilead ở Iowa tĩnh lặng, với những nhân vật thuộc gia đình mục sư nhưng người đọc không bao giờ cảm thấy tác giả rao giảng niềm tin tôn giáo.Truyện bà viết ra tưởng như rất thân thuộc, những đối thoại đầy minh trí tưởng như những lời nói tầm thường nhưng càng đọc lại nghĩ lại thì càng thấy mơ hồ, có thể hiểu theo nhiều cách, nhiều nghĩa khác nhau. Thêm nữa câu văn của Marilynne Robinson viết tuy rất rõ ràng  trong sáng nhưng lại ẩn tàng nhiều nghĩa khác nhau. Nhân vật tiểu thuyết không có nhiều hành động, không có nhiều đối thoại nhưng những liên hệ có ý nghĩa ẩn dấu luôn chập chờn chồng chéo ở phía sau lời nói hay hành vi. Và từ văn chương của Marilynne Robinson toát ra lòng tha thứ quảng đại đúng như câu nói của một nhân vật trong quyển Home/Nhà đại ý: Tha thứ có trước sự hiểu biết, bạn hãy tha thứ rồi sau đó sẵn sàng để hiểu biết và đó chính là khuôn diện của ân sủng.  Review đào trung đạo *** "Cha không nghĩ đó là sự oán giận. Đó là một cái gì đấy thuộc loại trung thành trong đời cha, như thể cha muốn nói cha cũng có một người vợ, cha cũng có một đứa con. Và như thể cái giá để có được họ là phải mất họ. Cha thậm chí không thể chịu đựng nỗi dù chỉ là ngụ ý bởi cái già đó quá đắt. Người ta nói rằng một đứa trẻ sơ sinh không thể nhìn được khi nó còn nhỏ như em gái con, nhưng nó vẫn mở mắt và nhìn vào cha. Nó như một linh vật nhỏ bé . Nhưng khi cha bế nó vào lòng, nó vẫn mở to đôi mắt. Cha biết nó không phải đang suy nghĩ về khuôn mặt của cha. Trí nhớ có thể làm cho một vật dường như tồn tại nhiều hơn thực tế nó có. Nhưng cha cũng biết nó đang nhìn thẳng vào mắt cha. Đó cũng là điều gì đó đáng nói. Và cha rất vui mừng vì cha đã biết được điều đó trong thời điểm này, vì bây giờ, trong tình hình hiện tại của cha, cha sắp từ giả thế giới này, cha mới nhận ra không có gì lạ lùng hơn gương mặt một con người." (Trích đoạn trong Gilead ). *** Mời các bạn đón đọc Gia Hương của tác giả Marilynne Robinson.