Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Tình Yêu Không Mật Mã - Kinh Hồng

Trong sự pha trộn phức tạp giữa trắng và đen, trong sự giày vò của tình yêu. Tô Cẩm phải làm như thế nào? Cô đã gặp rất nhiều bế tắc trong công việc, tình cảm với nhiều đau khổ và tuyệt vọng, có lúc tưởng như không còn con đường sống cho mình nữa, nhưng trải qua tất cả những điều đó, cô đã hiểu ra được ý nghĩa của cuộc sống và giá trị đích thực của tình yêu. Từ một cô gái yếu đuối, có đôi mắt trong sáng ngây thơ như trẻ con, cô đã trưởng thành hơn và tìm được hạnh phúc thật sự cho mình. Có lẽ mỗi người đều trải qua những phút giây như thế, mặc dù đau khổ nhưng không thể không đối mặt. Chỉ có như vậy, mới không bị mây mù làm mờ mắt, mới có thể nhìn rõ được phương hướng mà mình muốn tiến tới. *** Từng tờ tiền mới tinh được đếm ào ào qua ngón tay, ngay cả không khí cũng có mùi vị đặc biệt. Đôi tay đếm tiền là của một người đàn ông, ngón tay rất trắng, móng tay có màu hồng khỏe mạnh, được cắt sửa gọn gàng. Đây là đôi tay của một cậu ấm. Lần đầu tiên Tô Cẩm nghe bạn bè gọi như thế, trong lòng cảm thấy không thoải mái. Cô luôn cảm thấy mặc dù gia thế của Ngạc Lâm rất khá, bản thân anh cũng thích mặc quần áo hàng hiệu, thích đi ăn ở những nơi cao cấp nhưng đánh giá phẩm chất con người qua thói quen sinh hoạt thì thật là không công bằng. Ai đã nhìn thấy cậu ấm có xe ô tô mà không đi, tự đạp xe đạp đến chỗ làm? Liệu có cậu ấm nào chịu làm ở một nơi vừa nguy hiểm vừa khổ cực như cục cảnh sát sáu, bảy năm trời? Vì thế, mỗi khi nghe bạn bè gọi đùa anh ấy là “cậu ấm”, Tô Cẩm luôn nắm chặt tay lại, thay Ngạc Lâm bảo vệ hình ảnh của anh. Tuy nhiên, lúc này, cách một bàn bày đầy ắp thức ăn, Tô Cẩm chậm rãi ngắm nhìn anh, từ kiểu tóc thời trang, đến mấy chiếc hoa tai lấp lánh, sợi dây chuyền cũng sáng bóng trên cổ, chiếc áo sơ mi không đoán được giá, chỉ biết đó không thể là một chiếc áo rẻ tiền, cuối cùng ánh mắt dừng lại ở chiếc đồng hồ Rolex kiểu mới trên cổ tay. Tô Cẩm không thể không thừa nhận, Ngạc Lâm khi không mặc cảnh phục thì đích thị là một cậu ấm thực thụ. Chỉ tiếc là bản thân từ trước đến giờ không phát hiện ra, hay thành thật mà nói, cô luôn không chịu thừa nhận điều này. Có lẽ khi bắt đầu quen biết, Ngạc Lâm đã để lại trong cô ấn tượng vô cùng sâu đậm, đến mức, cho dù sau này anh có thay đổi như thế nào đi chăng nữa thì hình ảnh của anh trong cô vẫn giống hệt như ấn tượng lúc ban đầu. Tô Cẩm vẫn nhớ đó là một ngày mùa hè, khoảng thời gian nóng nhất trong năm, sau khi hoàn thành bản báo cáo thực tập tại một đơn vị, cô và các bạn đang ngồi ăn kem ở bên đường, đột nhiên có tiếng ồn ào từ ngõ nhỏ phía sau vang lên. Miệng vẫn ngậm thìa kem, Tô Cẩm vô tình quay đầu lại và nhìn thấy anh ấy. Anh mặc bộ quân phục cảnh sát đẫm mồ hôi, đang đứng bên đường quát đám trẻ mới lớn vừa đánh nhau một trận. Mũ anh đội hơi lệch, cổ áo phanh ra không đúng với quy định, nhìn giống như một cảnh sát có dáng vẻ hơi ngông nghênh… Khi Tô Cẩm vẫn đang ngẩn ngơ hồi tưởng, thì Ngạc Lâm đã đếm xong tiền, cất vào phong bì rồi tiện tay ném lên mặt bàn. Tô Cẩm bị tiếng động nhẹ phát ra từ chiếc phong bì khiến cho bừng tỉnh, hỏi: “Đếm xong chưa?”. Ngạc Lâm khuấy khuấy ống hút trong cốc nước lạnh, lông mày anh nhíu lại có vẻ hơi mất kiên nhẫn, “Em lại làm sao thế? Động một tý lại lấy năm mươi ngàn tệ này ra để dọa anh. Anh đã nói rồi, sau này lương của anh được bao nhiêu anh cũng đưa hết cho em…”. Tô Cẩm cúi đầu, sống mũi hơi cay. Cô có nên nhẫn nhịn hay không? Đây luôn luôn là vấn đề tồn tại giữa hai người. Ngạc Lâm vươn tay qua bàn xoa đầu cô, giọng nói trở nên dịu dàng hơn, “Được rồi, được rồi! Khi mình bắt đầu tiết kiệm tiền, mặc dù đã thỏa thuận là ai đề nghị chia tay trước thì số tiền này sẽ thuộc về người kia, nhưng em đừng tức giận một chút là lại đưa số tiền này ra để dọa anh, động một tý lại nói chia tay, em không thấy chán sao?”. Tô Cẩm nghiêng người ra sau để tránh bàn tay của anh, “Trước ngày hôm nay, em từng nói với anh là chia tay rồi sao? Ngạc Lâm, anh nhớ nhầm em với ai rồi?”. Ngạc Lâm bất giác lặng người, ánh mắt lộ rõ sự ngạc nhiên, giống như anh đang đứng trước một đứa trẻ làm ầm ĩ một cách vô cớ, “Rốt cuộc là thế nào? Có phải là việc tìm nhà khiến em không vừa ý? Anh đã nói trước rồi, tìm nhà là một việc vất vả, em không nên quá vội vàng…”. “Không thế nào cả”, Tô Cẩm tránh ánh mắt của anh, buồn bã cúi đầu, “Em muốn mua nhà là muốn yên ổn để sống. Không phải… không phải đợi đến lúc làm vợ lẽ của ai đó”. Tay Ngạc Lâm cứng lại, “Em nói lung tung gì thế?”. “Ngạc Lâm!” Tô Cẩm nghẹn ngào một lúc, cúi đầu hỏi anh: “Anh luôn nghĩ em là đứa rất ngốc phải không? Thế nên mới lấy em ra để trêu đùa. Anh được nhiền fan hâm mộ quá nên lấy em ra làm lá chắn. Đợi đến bao giờ anh gặp được người anh thích sẽ đem em cất vào kho để dự trữ phải không?”. Ngạc Lâm không thể giữ được bình tĩnh, đặt cốc nước sang một bên. Nước mơ hồng là loại đồ uống ưa thích của phụ nữ, thứ đồ uống ngọt ngào như vậy không hợp với người đàn ông to lớn này nhưng anh lại rất thích, đến mức mà mỗi lần đi ăn với anh, người phục vụ đem đồ uống đến đều đặt thứ nước đó trước mặt Tô Cẩm. Tô Cẩm lặng nhìn thứ nước màu hồng trong cốc, lần đầu tiên nhận thấy rằng, người đàn ông thích loại đồ uống này vẫn giống một đứa trẻ chưa lớn. “Dạo này anh hơi bận, bên đơn vị vẫn phải làm thêm giờ.” Giọng của Ngạc Lâm bắt đầu mất bình tĩnh, “Ngày lễ của phương Tây đâu phải là vấn đề, nếu em chán thì chúng ta đi về thôi. Không phải là em cũng muốn ra ngoài sao? Thu đồ xong chưa?”. Hai tay của Tô Cầm để dưới khăn trải bàn nắm chặt lại. Anh ấy nói không sai, ngày lễ Tình nhân vốn dĩ là của phương Tây. Nhưng trong một ngày như thế này - Tô Cẩm chỉ ngẩng đầu là có thể nhìn thấy phía ngoài cửa, rất nhiều người đang đi trên đường, phần nhiều là các cô gái tay khoác người yêu, tay ôm hoa hồng. Một ngày như thế này - ngay cả không khí cũng mang hương vị của hoa hồng, làm sao cô có thể tiếp tục giữ những điều vốn dĩ đã không tồn tại để tiếp tục dối lừa chính mình? Cuối cùng, sau rất nhiều giằng co, cuộc đấu tranh giữa nhẫn nhịn và không nhẫn nhịn đã nghiêng về một phía. Tô Cẩm hít một hơi thật sâu rồi chầm chậm ngẩng đầu, “Vâng, chúng ta đều rất bận, vì thế hôm nay em gọi anh đến đây, ngoài việc trả tiền, chỉ muốn hỏi anh một câu: Ngày mùng 6 tháng sau, lúc 10 giờ sáng, tại khách sạn Hyatt, người đặt hai mươi mâm cỗ đính hôn có phải là anh không?”. Khi hỏi xong câu đó, Tô Cẩm cảm thấy tim mình như thắt lại. Cô biết cô nên ngẩng đầu và nhìn thẳng vào mặt anh. Nhưng khi nói được một nửa, cô lại hụt hơi, thế là câu hỏi thốt ra từ miệng thay vì một lời chất vấn hùng hồn lại không bằng một lời yêu cầu chứng thực yếu ớt - ngay cả bản thân cô cũng thấy rõ sự bất lực trong tiếng nói của mình, thật đáng thương. Tô Cẩm rất muốn tát mình một cái, nhưng sự ảo não nhanh chóng biến thành sợ hãi trước vẻ trầm mặc của Ngạc Lâm. Con người này vốn hơi có chút ngông nghênh, ham chơi, vừa hút thuốc vừa uống rượu… Nhưng từ lúc cô thực tập tốt nghiệp đến lúc chạy khắp nơi nộp đơn xin việc, từ khi tìm thuê phòng khắp nơi đến khi chuyển đến làm việc ở đây, anh đã chứng kiến những trải nghiệm quan trọng nhất trong cuộc đời cô, anh cũng là người bạn trai chính thức đầu tiên của cô. Mắt của Tô Cẩm đỏ lúc nào không hay, “Thế là đúng rồi?”. Ngạc Lâm bực bội vò đầu, “Em à, em cũng biết quê của mẹ anh ở Tứ Xuyên mà, vì thế bà rất thích có cô dâu ở quê. Sức khỏe của bà lại không tốt, anh không thể…”. Nghe thấy anh lại đem mẹ ra làm lá chắn, không biết vì sao, sự buồn bã trong lòng Tô Cẩm trở nên quyết liệt, “Thật vậy sao? Nhưng con gái của phó thị trưởng Trần sinh ra ở thành phố T, lớn lên tại thành phố T, bố là người Bắc Kinh, mẹ là người Thượng Hải. Gia đình họ và gia đình anh là… đồng hương từ đời trước sao?”. Anh bỗng nhiên lừa cô? Hay vẫn lừa cô từ trước mà cô không hề biết? “Ngạc Lâm, anh là đồ khốn nạn.” Nước mắt của Tô Cẩm chảy ra, “Thiếp mời của nhà anh đã phát đi rồi, anh còn dùng những lời này lấp liếm tôi? Anh thật sự chỉ muốn che giấu tôi để tôi làm vợ bé của anh?”. “Kỳ thực…”, Ngạc Lâm đưa tay ra định nắm lấy tay cô bị cô tránh né đành hậm hực thu lại, “Kỳ thực anh luôn muốn nói với em, nhưng…”. “Nhưng cảm thấy không cần thiết, phải không?” Tô Cẩm vò nát chiếc khăn giấy trong tay. Vốn dĩ không muốn khóc, nhưng khi cô ngẩng đầu lên, nước mắt vẫn chảy ra không sao dừng được, “Cho dù anh muốn nói sao thì nói, anh nghĩ rằng tôi không thể sống thiếu anh, phải không?”. “Sức khỏe của mẹ anh không tốt, em cũng biết…”, Ngạc Lâm nhìn xuống, lòng dạ rối bời, “Chúng ta đã ở bên nhau hơn hai năm, nếu anh không thực sự muốn sống cùng em thì sao lại muốn giao tiền lương cho em giữ?”. Tô Cẩm nhìn bàn tay của cậu ấm, nghẹn lời hỏi lại: “Sống cùng nhau như thế nào? Tôi cứ vờ không biết, mua một căn phòng sống với anh, đợi khi nào vợ anh ngủ rồi thì anh đến với tôi để mua vui sao?”. “Em đừng nói như vậy…”, sắc mặt Ngạc Lâm nghiêm lại, không suy nghĩ gì, nắm chặt lấy tay cô, “Em nên hiểu anh…”. “Anh đừng như vậy.” Tô Cẩm rụt tay khỏi tay anh, sắc mặt đanh lại, “Việc này tôi đã do dự rất lâu, tôi luôn nghĩ về tình cảm giữa chúng ta… làm thế nào để giành lại. Nhưng càng nghĩ lại càng cảm thấy… không đáng. Ngạc Lâm, anh cứ kết hôn đi. Bữa cơm này coi như bữa cơm chia tay, tôi mời”. “Tô Cẩm!” Đây là lần đầu tiên Ngạc Lâm gọi tên cô như thế này. Nhưng, cho dù là muốn nói những lời giả dối để an ủi cô hay là chính thức xin lỗi, Tô Cẩm cũng không muốn nghe. Ngoài hai điều này, cô không còn nghĩ ra anh có thể nói nói gì với cô nữa. Vẫy tay gọi người phục vụ, Tô Cẩm xòe ra mấy tờ tiền bảo anh ta lấy thêm vài chai bia. Ngạc Lâm không chịu đựng được, chau mày. Anh biết cô có thể uống được rượu, nhưng trong tình trạng uống từng chai từng chai một như thế này… Tô Cẩm rót đầy cốc rượu của mình, không ngẩng đầu lên, xua tay với Ngạc Lâm, “Cảnh sát Ngạc Lâm, tôi biết anh là người rất bận rộn, tôi không làm lỡ thời gian của anh nữa. Dẫu sao hôm nay cũng là Lễ tình nhân, để vị hôn thê làm thêm giờ là không tốt”. “Tô Cẩm, em nghe anh nói…”, không chờ anh nói hết câu, Tô Cẩm cầm lấy điện thoại ra, vội vàng gọi cho Lâm Chi Chi. Dường như chuông vừa kêu một tiếng đã có người nhận điện thoại. Giọng của Lâm Chi Chi có lẽ còn căng thẳng hơn, “Thế nào rồi, cậu đã hỏi chưa? Anh ta nói sao?”. Ánh mắt của Tô Cẩm liếc nhìn điện thoại của Ngạc Lâm đang rung trên bàn rồi nhanh chóng bị anh tắt máy, “Cảnh sát Ngạc có việc đi trước rồi, cậu đến ăn tối cùng mình đi. Vẫn chỗ cũ”. Ngạc Lâm ngồi đối diện thở dài, “Được, em cứ ngồi với Chi Chi. Tối anh sẽ gọi điện cho em”. Tô Cẩm giả như không nghe thấy lời anh nói, vứt điện thoại sang một bên, nhấp từng ngụm bia nhỏ. Thứ nước đắng chát lành lạnh chảy qua cuống họng, giống như kim châm đi vào dạ dày và bùng cháy ở trong đó khiến cô đau đớn. Điện thoại lại rung đầy thúc giục. Ngạc Lâm bối rối nhìn Tô Cẩm, do dự giây lát, rồi đứng dậy rời đi. “Đợi đã!” Tô Cẩm giật giọng gọi anh, cô đẩy phong bì tiền trên bàn, “Cầm tiền đi!”. Ngạc Lâm thở dài, “Em à, em có nhất thiết phải làm như vậy…”. Ánh mắt của Tô Cẩm sắc như dao, “Tôi gửi trả anh đấy, đừng làm phiền tôi nữa”. Sắc mặt của Ngạc Lâm trở nên rất khó coi, anh cầm chiếc phong bì không nói một lời, quay đầu bước đi không ngoảnh lại. Ánh mắt của Tô Cẩm xuyên qua cốc thủy tinh trong suốt, thấy bóng dáng bị bóp méo trên đó của anh bước ra khỏi khách sạn, biến mất vào bóng đêm ngoài cửa. Từ trước đến giờ, anh ấy vẫn luôn không quay đầu lại. Tô Cẩm uống một hơi hết sạch bia trong cốc. Đột nhiên cô nghĩ đến trong đêm chia tay này, cô đã quên làm một việc vô cùng quan trọng. Trước cuộc hẹn, Lâm Chi Chi đã dặn cô, nếu thực sự phải chia tay, cho dù thế nào thì cũng phải tát anh ta một cái để trút giận, nếu không trong lòng sẽ lưu lại ám ảnh bị người yêu bỏ rơi, ảnh hưởng đến việc đi tìm hạnh phúc sau này. Nhưng cô đã quên mất việc quan trọng đó. Tô Cẩm đau đớn nghĩ: Chi Chi đến nhất định sẽ mắng cô vô dụng. Cô biết Lâm Chi Chi luôn không tôn trọng Ngạc Lâm, luôn nói là anh ấy ngông nghênh, về cơ bản không phù hợp với mình… Nhưng đến bây giờ, phù hợp hay không cũng vậy, đều hoàn toàn không liên quan gì nữa… Tô Cẩm đặt chai bia xuống, uống từng ngụm nhỏ. Rất đắng, nhưng đối với cô, lạnh và đắng như thế này vẫn chưa đủ. Tô Cẩm gối đầu lên cánh tay, chầm chậm xoay cốc bia. Ánh đèn từ đỉnh đầu chiếu xuống thứ dung dịch màu vàng trong cốc bia trong suốt với những bọt khí nhỏ lấp lánh. Tô Cẩm biết tửu lượng của mình. Hoặc là cô luôn luôn đánh giá cao tửu lượng của mình. Thế là, trong đêm lạnh lẽo nhất của một năm ở thành phố này, Tô Cẩm đã không do dự uống cho đến say. Nhận thức mơ hồ, nhưng có nhiều khoảnh khắc lại ghi nhớ rất rõ ràng: Khi Chi Chi dìu cô ra khỏi cửa khách sạn, gió đêm thốc vào mặt cô lạnh buốt; trong căn phòng lạ lẫm ánh sáng mờ ảo, cô bổ nhào đến chiếc bồn vệ sinh nôn thốc, tay Chi Chi vỗ đều đều lên lưng cô. Chi Chi dìu cô đến bồn tắm, nước nóng nhanh chóng vây lấy cơ thể lạnh giá của cô… Ngoài ra, cô không còn nhớ gì nữa. Vì thế, khi cô được ánh sáng buổi sớm đánh thức, mơ màng mở mắt, hoàn toàn không biết là mình đang ngủ ở đâu. Ga gối màu trắng, rõ ràng không phải là họa tiết Mickey ở nhà mình, cũng không phải là họa tiết hoa nhỏ ở nhà Lâm Chi Chi, giống như là… Tô Cẩm ngồi bật dậy, hoảng hốt nhìn quanh, đúng là… phòng khách sạn. Quần áo đã được xếp ngay ngắn đặt trên giường, hình như đã được giặt sạch. Trong phòng không có dấu tích gì, chỉ ngoài… một xấp tiền màu hồng bắt mắt đặt trên chiếc tủ ở đầu giường. Trong đầu Tô Cẩm dội lên một tiếng động lớn, cô run rẩy cầm xấp tiền, bên dưới quả nhiên có một tờ ghi chú. Là một tờ ghi chú của khách sạn, trên mặt giấy ngà vàng có viết dòng chữ to rắn rỏi: Rất hài lòng với dịch vụ của cô, xin nhận tiền thưởng. Ngoài ra phòng sẽ được trả lúc 12 giờ trưa, bữa sáng phục vụ tại phòng. Ở chỗ ký tên góc dưới bên phải là một khẩu súng được phác vô cùng đơn giản. Nhìn thấy hai chữ “tiền thưởng”, đầu Tô Cẩm như bị nổ tung, vội vàng nhìn lại mình, quả nhiên cô chỉ mặc một chiếc áo tắm của khách sạn. Trong chiếc áo choàng… không cần kiểm tra cũng biết là không hề mặc gì. Tô Cẩm nắm chặt cổ áo tắm, hoàn toàn sững sờ. Lẽ nào mình đã say thật? Lẽ nào lại uống say như thế, người đón mình không phải là Lâm Chi Chi sao? Không phải là Lâm Chi Chi… thì là ai?! Tô Cẩm hoàn toàn sửng sốt. Không thể? Không thể? Không thể?! Mình chỉ là bị thất tình, rồi uống rượu, sau đó thì trinh tiết… mà bản thân cũng không biết là xảy ra chuyện gì, lại mất mà thần không hay quỷ không biết?! Cô không những không nhớ bất kỳ điều gì mà còn không biết người này như thế nào - tám chín mươi phần trăm đó chỉ là một khách làng chơi bỏ tiền để mua vui. Cũng có nghĩa là lần đầu tiên của mình đã trao cho một kẻ không có nhân phẩm một cách vô thức? Kẻ này chắc rất cao tay, không biết là đã hại bao nhiêu con gái nhà lành, mà… mà… không biết anh ta có bị nhiễm bệnh gì không… Nếu mà thực sự như thế… Tô Cẩm càng nghĩ càng tuyệt vọng, ôm đầu nằm vật xuống, chỉ muốn chết. Kẻ cặn bã này trả cho cô năm vạn tệ, bằng đúng số tiền mà cô đã đưa cho Ngạc Lâm. Số tiền này cũng như tiền khách sạn mà cô ở khiến Tô Cẩm không hề hoài nghi là có chuyện gì đã xảy ra vào đêm đó. Nếu không, làm gì có ai lại trả một số tiền lớn như thế này cho người lạ? Tô Cẩm cố gắng hết sức cũng chỉ nhớ được mình đã nôn khủng khiếp như thế nào, hình như có người đưa cho cô một cốc nước ấm và vỗ nhẹ vào lưng. Cố gắng nhớ tiếp, cũng chỉ lờ mờ biết có người dìu vào bồn tắm, nước nóng bao bọc lấy cơ thể rất thoải mái và dễ chịu. Tất cả ký ức đêm qua chỉ dừng lại ở đó. Tô Cẩm nhìn vô thức lên chiếc đèn chùm trên đỉnh đầu, trong tay vẫn cầm tờ ghi chú có ký tên là “khẩu súng” - Khẩu súng này có ý nghĩa gì không? Là biểu tượng của việc tham gia băng đảng nào đó, hay là ám thị anh ta có quyền có thế để mình không dám chống lại? Cũng có nghĩa, anh ta đưa mình đến khách sạn là biết mình không phải gái làm tiền? Vậy… giá của một cô gái cuối cùng là bao nhiêu? Tô Cẩm với lấy điện thoại của mình trên tủ ở đầu giường, lướt qua một dãy dài các cuộc gọi lỡ, cô gọi cho Lâm Chi Chi. Thật bất ngờ, điện thoại của Lâm Chi Chi tắt. Lâm Chi Chi tự nhiên tắt điện thoại. Tô Cẩm như muốn đổ sụp xuống. Chỉ qua một đêm, không những cuộc sống của cô bị đảo lộn, mà ngay cả Lâm Chi Chi điện thoại luôn mở hai tư tiếng cũng bắt đầu chơi trò chơi tắt máy? Hay là lúc này cô ấy đang có việc gấp ở công ty? Tô Cẩm xem lại danh bạ trong điện thoại, khung lựa chọn màu xanh da trời nhạt dừng ở số điện thoại của sư phụ. Tô Cẩm do dự giây lát rồi gửi một tin nhắn: “Sư phụ, một cô gái trong thành phố chúng ta có giá bao nhiêu?” Đợi đến khi tin nhắn đã gửi đi, Tô Cẩm bắt đầu ân hận, giận mình không biết giữ miệng. Quả nhiên, ngay lập tức có điện thoại của Hàn Hiểu, giọng vừa hiếu kỳ, vừa buồn cười: “Sao thế? Có chuyện gì không?” “Không có gì.” Tô Cẩm ấp úng không biết giải thích như thế nào. “Em chỉ… tiện hỏi thế.” “Chị nghe nói, à, nhưng chỉ là nghe nói chứ chưa từng gọi họ”, Hàn Hiểu cười, “Nghe nói từ vài chục đến vài chục nghìn đều có. Nếu qua đêm ở một nơi sang trọng thì khoảng vài vạn”. Tô Cẩm cười đau khổ: Hóa ra mình được coi là hàng quý. Hàn Hiểu nói tiếp: “Tô Tô, lần này để em rời văn phòng xuống công trình, rồi chị lại không thể đi cùng với em, thật sự là chị thấy ngại quá”. Hàn Hiểu và Tô Cẩm đều là kỹ sư của bộ phận giám sát kỹ thuật ở Hải Công. Khi còn ở văn phòng, do Tô Cẩm là nhân viên mới của công ty nên được Hàn Hiểu chỉ dạy rất nhiều, vì thế mặc dù về danh nghĩa Tô Cẩm là trợ lý của Hàn Hiểu nhưng Tô Cẩm luôn gọi Hàn Hiểu là “sư phụ”. Sau tết, những người đã có gia đình như Hàn Hiểu được bị điều về làm dự án ở gần thành phố, Tô Cẩm cũng đi cùng. Nhưng không ngờ, khi chưa khởi công, Hàn Hiểu vì có bầu nên xin nghỉ trước hạn. Thế là, dự án vốn dĩ do hai người phụ trách giờ chỉ còn một mình Tô Cẩm tự lo liệu. Thiết bị luyện ba mươi lăm vạn tấn dầu một năm của dự án luyện dầu thành phố C là một hệ thống lớn, đây là một trong những nội dung quan trọng nhất của dự án. Theo sắp xếp tiến độ tổng thể của dự án luyện dầu thành phố C, tiến độ của hệ thống này phải song song với hệ thống sản xuất hydro. Theo thường lệ, khi thi công, hai hệ thống cần có hai nhân viên kỹ thuật điều hành. Nhưng Hàn Hiểu đột ngột nghỉ phép, bộ phận giám sát kỹ thuật cũng không có thời gian tìm thêm người, thế là công việc của hai người đều trút lên vai Tô Tô. Hàn Hiểu xin lỗi là vì như vậy. Tô Cẩm vội nói: “Sư phụ đừng nói như vậy. Chị đã giúp em điều chỉnh tất cả mọi thông số của hai hệ thống, em cũng đã nhàn hơn nhiều rồi. Chị cứ yên tâm ở nhà nghỉ ngơi, đừng bận tâm lo lắng điều gì”. Hàn Hiểu liền dặn dò cô vài câu rồi tắt máy. Tô Cẩm gọi lại cho Lâm Chi Chi, nhưng máy vẫn tắt. Tắm rửa, ăn bữa sáng mà khách sạn phục vụ tận phòng xong, Tô Cẩm cúi đầu buồn bã rời khỏi khách sạn. Tuyết vẫn rơi, tuyết trên đường bị người qua lại giẫm đạp thành một mớ hỗn độn. Cỏ cây hai bên đường cũng bị tuyết phủ trắng. Trên quảng trường phía xa, đám trẻ con đang chơi ném tuyết, cười nói ầm ĩ. Tô Cẩm đứng trên thềm khách sạn, mặc áo lông có mũ, xấp tiền vẫn để trong túi áo, cộm lên qua chiếc áo mỏng bên trong khiến cô thấy đau. “Mình đã mất bạn trai.” Tô Cẩm hé mắt nhìn thế giới bên ngoài vừa quen thuộc vừa lạ lẫm, buồn bã nghĩ, “Khi mình tự buông thả bản thân, muốn mượn rượu để giải sầu thì lại mất mát nhiều thứ hơn…”. Nghĩ vậy, Tô Cẩm không tránh khỏi cảm giác đau đớn, lạnh lẽo. Không phải đó chỉ là một người đàn ông sao? Không phải chỉ là một cuộc tình chết yểu sao? Vì sao lại phải đau khổ như vậy? Từ góc độ này thì việc xảy ra trong khách sạn rõ ràng là tự tạo ra một điều nghiệt ngã. Còn gã đàn ông kia không biết có mắc bệnh truyền nhiễm gì không… Đó cũng là mình làm mình chịu thôi. Tô Cẩm dụi dụi mặt, cố gắng vực dậy tinh thần. Cho dù nói như thế nào thì giây phút khó khăn nhất cũng đã qua rồi. Quay về phòng trọ ở Hải Công, cô bạn cùng phòng Thanh Thanh vẫn chưa về. Tô Cẩm thu dọn xong hành lý của mình, gọi điện cho Lâm Chi Chi, điện thoại vẫn tắt máy. Tô Cẩm hết cách, đành gọi điện thoại cho Bành Tiểu Ngôn. Ở thành phố T, hai người này là bạn tốt nhất của Tô Cẩm. Bành Tiểu Ngôn đang trong giờ làm, nghe cô hỏi Lâm Chi Chi, lập tức giống như thùng thuốc nổ bị châm ngòi, “Con nhỏ Chi Chi đó chẳng thèm kiêng nể gì, trắng trợn lừa mình. Nó nói nó có việc gấp, bảo mình đến khách sạn đón cậu. Khi mình chạy đến khách sạn, chả thấy ma nào ở đấy cả. Gọi điện cho nó thì lại tắt máy, gọi cho cậu thì cũng không nghe máy. Hai người đang chơi trò gì vậy? Làm lỡ mất cuộc hẹn vào đêm có tuyết của mình, hôm qua là lễ Tình nhân, mỗi năm chỉ có một lần…”. Tô Cẩm ngắt những lời trách móc của cô, “Chi Chi có nói nó có chuyện gì không?”. Bành Tiểu Ngôn rên lên một tiếng, “Giọng nó nghe có vẻ rất gấp gáp, nhưng không nói là chuyện gì. Đúng rồi, lúc gọi điện, mình nghe thấy tiếng còi ô tô, có lẽ nó đang ở trên đường. Có phải là chuyện của công ty không?”. Lâm Chi Chi là trưởng bộ phận an ninh của tập đoàn Hưng Hòa, có thể là việc của công ty thật… “Gọi điện thoại đến công ty rồi phải không?”, Tô Cẩm hỏi, “Công ty nói thế nào?”. “Gọi rồi!” Giọng của Bành Tiểu Ngôn có vẻ rất ấm ức, “Người ở công ty nói là không thể tùy tiện tiết lộ cho người ngoài”. “Vậy à…”, Tô Cẩm nhìn những bông tuyết rơi trên ngọn cây ngoài cửa sổ, bất giác chau mày, “Ngày mai mình phải đi làm dự án rồi, lần này ít nhất cũng phải hai tháng. Việc của Chi Chi… đợi cô ấy về nhất định bắt cô ấy phải giải thích rõ với cậu”. Bành Tiểu Ngôn đáp: “Cứ yên tâm đi đi, có việc gì nhất định mình sẽ thông báo cho cậu”. Tắt máy, Tô Cẩm xem lại nhật ký điện thoại tối hôm trước, ngoài hai cuộc gọi của Ngạc Lâm, còn lại đều là số điện thoại của Lâm Chi Chi. Tô Cẩm vô cùng ân hận. Chỉ vì một người đàn ông khốn nạn mà làm lỡ bao nhiêu việc. Lòng đầy ân hận, Tô Cẩm vỗ trán, rồi tự thề với lòng: Một là, từ bỏ Ngạc Lâm, xem con người bội bạc đó rốt cuộc thế nào; hai là, không bao giờ để rượu làm ảnh hưởng đến mình nữa. Nếu vi phạm lời thề thì cô sẽ trở thành kẻ không ra gì suốt đời. ... Mời các bạn đón đọc Tình Yêu Không Mật Mã của tác giả Kinh Hồng.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Chàng Hải Âu Kỳ Diệu - Richard Bach
Richard Bach là nhà văn nổi tiếng người Mỹ, xuất bản năm 1970, kể cho chúng ta về cuộc đời của Jonathan, một chàng hải âu: “Đối với hầu hết hải âu, ăn quan trọng hơn là bay. Nhưng riêng với Jonathan Livingston, niềm say mê bay lại lớn hơn tất cả mọi thứ khác trên đời”. Vì thế chàng bắt đầu tập bay; bay với tốc độ cao, bay ở thế nhào lộn,... Nhưng Đàn Hải âu lại không thích chàng làm như thế, do đó chàng bị coi là nỗi nhục nhã, chàng trở thành kẻ bị Lưu Đày, bị bỏ mặc trong sự cô đơn, nhưng điều đó không làm chàng nản chí, vì sự thật là những con hải âu khác sẽ không bao giờ biết được vẻ đẹp và cảm giác vĩ đại khi bay.   Ở đây chàng Hải âu học được một điều: “Thiên Đường không phải là nơi chốn, mà cũng không phải thời gian. Thiên Đường là trạng thái khi ta đạt được toàn thiện”... Những hải âu luyện tập qua nhiều đời để đạt được sự toàn thiện. Nếu ở kiếp sống này ta không học thêm được cái gì cả, thì thế giới của kiếp sống sau sẽ giống hệt như thế giới này... Nhưng nếu ta học cách bay và ta luyện tập đủ tốt, thì ta sẽ ở trên cao hơn những bậc thang không có kết thúc để lên đến Thiên Đường, vì vậy đó chỉ là một bước tiến xa hơn. Bay ở đây được hiểu như là một cách nghĩ vậy... Ta phải nghĩ bản thân ta là một thực thể tự do vô hạn, ta tự do khỏi tất cả những Luật Lệ vốn chỉ trực ngăn cản ước vọng của bản thân ta.  *** Richard Bach sinh năm 1936, vốn là phi công chiến đấu và thợ cơ khí máy bay. Ông là tác giả của mười một đầu sách, trong đó nổi tiếng nhất là Hải âu Jonathan Livingston (Jonathan Livingston Seagull) và Ảo ảnh: Những cuộc phiêu lưu của một nhà tiên tri bất đắc dĩ (Illusions: The Adventures of a Reluctant Messiah, 1977). Richard Bach sinh tại Oak Park, Mỹ –  con trai của Roland Robert và Ruth Helen (Shaw) Bach, cháu trai của nhà soạn nhạc thiên tài Johann Sebastian Bach. Ông từng học tại trường Long Beach State College (nay là đại học California, Long Beach). Không chỉ là một phi công máy bay, Richard Bach còn là một nhà văn. Niềm yêu thích viết lách đến từ khi ông còn học trung học. Cùng với niềm đam mê về hàng không, hình ảnh máy bay và bầu trời xuất hiện trong hầu hết các cuốn sách của Richard. Điển hình là hình ảnh chú chim hải âu say mê bay trong Jonathan Livingston Seagull, được lấy cảm hứng từ chính những chuyến bay của ông. Với hơn 60 triệu bản sách được bán, Richard Bach là một trong những tác giả được yêu thích nhất thế giới. Các tác phẩm gần đây nhất của ông bao gồm: Travels With Puff, Puff And Illusions II: The Adventures Of A Reluctant Student. ***  Chàng Hải Âu Kỳ Diệu là một câu chuyện nhỏ nhưng những bài học mà nó đem lại chứa đựng rất nhiều triết lý sống. Khi chúng ta cố gắng tìm xem những gì có thể làm được, chúng ta đã tự tạo ra giới hạn cho chính bản thân mình. Việc trói buộc bởi những suy nghĩ của người khác cũng là một loại giới hạn. Jonathan sẵn sàng từ bỏ mọi thứ, vượt qua định kiến xã hội và niềm tin về những điều không thể. Nhờ đó, cậu hiểu được một chân lý: không bao giờ tồn tại giới hạn. Đây cũng là tư duy mà chúng ta cần phải học. “Không giới hạn ư, Jonathan?. Cậu nghĩ, và cậu mỉm cười. Hành trình học tập của cậu đã bắt đầu”. Chàng Hải Âu Kỳ Diệu là một cuốn sách tuyệt vời tiết lộ cho chúng ta biết tự do thật sự là như thế nào. Khi chúng ta học với sự thực hành đủ, chúng ta sẽ biết rằng khả năng của mình là vô hạn. Tự do sống theo cách bạn muốn và không để lạc lối bởi quan điểm của người khác, đó là bài học thứ nhất. Lựa chọn cách sống và con đường mà bạn sẽ đi, dù không dễ dàng, đó là bài học thứ hai. Không ngừng nhận thức về bản thân, bạn sẽ khám phá bản ngã thật sự của chính mình, đó là bài học thứ ba. Và cuối cùng, đừng bao giờ nghĩ rằng đây chỉ là câu chuyện của một con chim – “Tặng chàng hải âu đích thực đang sống trong mỗi một chúng ta” – Richard Bach. Trong phần cuối của quyển sách là lời cuối của sư phụ của chàng. Đó là: “Tiếp tục hành động cho Tình Yêu Thương”. Trong phần này chàng hiểu là tinh thần không thể nào được thực sự giải thoát mà không có lòng thứ tha và đối với chàng đó là cách để tiến bộ tâm linh, dẫn đến con đường giác ngộ chứ không phải con đường khổ luyện của một đệ tử. Chàng quay trở về vớí nhóm hải âu để chia sẻ những lý tưởng mình vừa khám phá và kinh nghiệm to lớn mình vừa trải qua và sẵn sàng cho cuộc chiến đấu gay go với những qui điều cứng nhắc của nhóm hải âu đó. Khả năng tha thứ được xem là “điều kiện bắt buộc có để vượt lên cao”. “Con có hết sức muốn bay bổng để có thể tha thứ cho các huynh đệ của mình và học hỏi và trở về với họ một ngày nào đó và giúp họ không?” Đó là lời chàng hỏi những đệ tử của mình trưóc khi giảng thuyết tiếp cho họ. Cốt lỏi trong ý tưởng này là tư tưởng: kẻ giỏi hơn có thể thăng tiến bằng cách rời bỏ những kẻ yếu kém hơn mình là hoàn toàn không thể chấp nhận được. Do vậy mà tình yêu đáng phải được kính trọng và sự tha thứ cũng có cùng tầm mức quan trọng như sự tự do khỏi áp lực bị buộc phải tuân theo những khuôn thước do mọi người đề ra. Bây giờ xin được nói qua về tác giả Richard Bach. Richard David Bach sinh năm 1936 là một nhà văn ngươì Mỹ. Ông được nổi tiếng qua hai cuốn truyện có thật nhiều người đọc là Jonathan Livingston Seagull và The Adventures of a Reluctant Messiah. Sách của ông mang trong đó triết lý rằng những giới hạn thể chất của mình và sư tạm bợ của nó chỉ có tính cách của mặt mỏng bề ngoài mà ta có thể vượt qua được. Ông rất đam mê bay bổng và với những quyển sách viết về lướt cánh, tung mây và về “bay”, theo nghĩa ẩn dụ của chiều hướng tâm linh. Ông đã theo nghiệp bay từ hồi 17 tuổi. Sinh ra ở Illinois, theo học ĐH Long Beach State College năm 1955 là tác giả của một số truyện có thực và giả tưởng. Đa số là loại bán-tự -truyện, dùng những dữ kiện thật hay hư tạo từ cuộc đời của chính mình để phô diễn triết lý của ông. Ông phục vụ với tính cách trừ bị trong Hải quân và sau đó là trong Phi đội chiến đấu 108 trong Không quân Phòng không New Jersey, và là phi công F-84F trong Phi đoàn 141, Không quân Hoa kỳ. Sau đó ông là cây viết về kỷ thuật cho Douglas Aircraft và đóng góp bài cho tạp chí Flying. Năm 1960, ông được điều qua phục vụ ở Pháp. Muà hè năm 1970, ông và người bạn phi hành du lịch sang Aí nhỉ Lan để bay trong một cuốn phim. Năm 1973, cuốn Chàng Hải Âu Kỳ Diệu được quay thành phim với phần diển tả do danh ca Neil Diamond phụ trách. Cuốn sách thứ nhì của ông ra đời năm 1977 là câu chuyện về một nhà tiên tri của thời hiện tại quyết định từ bỏ lý tuởng của mình. Trong những năm của 1990, ông xuất hiện trên online trong website của “Compuserve” và đích thân trả lời emails cho từng ngươì gỡi. Tháng Tư năm 2005, ông được phỏng vấn trên đài truyền thanh Conscious Talk Radio và đã được truyền lại vài lần vào năm 2006. Ông có sáu con với người vợ đầu tiên. Bà này đã đánh máy và duyệt bản thảo cho hầu hết bài viết của ông. Bà này cũng là một phi công và viết một quyển sách về đời bay của mình. Con trai của ông là một nhà báo và kỷ sư về nhu liệu có viết sách nói về cha mình. Năm 1977 ông lập gia đình lại với một phụ nữ ông gặp trong thời gian quay cuốn phim về chàng hải âu Jonathan. Họ chia tay năm 1999 và ông cưới ngươì thứ ba vào tháng Tư 1999. Bach là một trong số tác giả Mỹ chịu ảnh hưởng triết lý của Đông phương và đã tìm về Chân Ngã để vượt qua những giới hạn của thân xác rồi đưa tâm linh về với Vô Ngã. Bach đã không cho phép mình mãn nguyện khi đã giác ngộ mà cho rằng mình phải tìm về để giúp đở cho đồng loại đang chìm trong bể mê. Có lẽ đây là điểm son chói lọi của “Chàng Hải Âu Kỳ Diệu” này vậy./. Mời các bạn đón đọc Chàng Hải Âu Kỳ Diệu của tác giả Richard Bach.
Viên Tướng Của Đạo Quân Chết - Ismail Kadare
Viên Tướng Của Đạo Quân Chết là câu chuyện về cuộc tìm kiếm hài cốt binh sĩ ở Anbani của một viên tướng sau 20 năm chiến tranh kết thúc - một cuộc hành trình của tâm trạng và nhận thức của một kẻ mang niềm kiêu hãnh, một nước lớn đi khai hóa văn minh cho một nước bé. Nhưng vượt lên tất cả những điều ấy là hình ảnh một đất nước Anbani hiểm trở, hùng vĩ với những truyền thống đẹp đẽ, lâu đời , với những con người ngoan cường dũng cảm, biết vượt qua những đau thương của chiến tranh để tự khẳng định mình...." Mê và cay đắng, viên tướng của đạo quân chết là khúc bi thương cho những người trẻ tuổi của tất cả những quốc gia đã bị đưa ra nước ngoài để chết cho cuộc chiến". *** Ismail Kadare là một nhà văn còn trẻ (ông sinh năm 1936) nhưng đã có một vị trí hàng đầu trong văn học Albania hiện đại. Ông nổi tiếng ngay từ tập thơ đầu tay «Mùa xuân tương lai» sáng tác năm ông mới mười tám tuổi rồi năm 1957, ông đoạt giải thưởng văn học quốc gia với trường ca «Những niềm mơ ước». Một trường ca khác của ông - «Công chúa Argjiro» - được độc giả Albania rất ưa thích. Ông còn có một tập truyện ngắn «Đám cưới». Tuy nhiên tên tuổi ông chỉ thực sự được biết đến ở nước ngoài với cuốn tiểu thuyết «Viên tướng của đạo quân chết». Nội dung cuốn sách này thật ra rất đơn giản. Hai mươi năm sau khi chiến tranh kết thúc, một viên tướng (tác giả cố ý không nói rõ họ tên, tuổi tác, quốc tịch của hắn; người đọc chỉ «ngẫu nhiên» biết hắn cao một thước tám mươi hai và đoán chừng hắn là người Ý) cùng với một linh mục, hàm đại tá, làm thông ngôn, sang Albania để tìm kiếm thi hài các binh sĩ của đạo quân phát xít nước hắn đã tử trận ở Albania. Theo những bản danh sách và bản đồ được lập sẵn một cách công phu, tỉ mỉ, hắn và ông linh mục, có một cán bộ chuyên môn Albania và một kíp công nhân đi cùng, đã lặn lội khắp đất nước Albania, đào bới, thu nhặt những nắm xương tàn của đạo quân phát xít hai mươi năm trước đây đã bại trận. Cuộc tìm kiếm kéo dài hai năm ròng rã; các bộ hài cốt tìm thấy được bỏ vào các túi nylon đặc biệt màu xanh, sọc trắng, viền đen và gửi về cho các gia đình đã bao năm nay chờ đợi chồng con họ. Cuối cùng, viên tướng hoàn thành công việc, tổ chức lễ cầu hồn, mở một tiệc chiêu đãi nhỏ rồi lên đường về nước. Câu chuyện chỉ có vậy, bình thường và có thể nói là khô khan nữa, đến cái mức tưởng đâu như không có gì để viết được thành một cuốn tiểu thuyết. Nhưng Ismail Kadare đã biết chọn một góc nhìn độc đáo. Ông không kể lại câu chuyện theo chủ quan của ông, một người Albania, mà là thông qua con mắt của viên tướng, quân nhân một nước trước đây đã tiến hành một cuộc xâm lăng tàn bạo và đẫm máu trên đất nước Albania và giờ đây nhận nhiệm vụ đi sang Albania với rất nhiều định kiến. Ismail Kadare chỉ để cho nhân vật chính của ông nhìn thấy và kể lại những gì phù hợp với tính cách của hắn. Có thể nói đất nước Albania được miêu tả ở đây không phải là đất nước Albania của bản thân tác giả mà là một đất nước xa lạ nhìn qua con mắt của viên tướng: toàn núi non ghê rợn, với bùn lầy, mưa tuyết, gió lạnh… Ngay câu mở đầu cuốn sách đã xác định rõ cách nhìn ấy: «Mưa pha tuyết rơi trên đất khách…»; đó cũng là câu bắt đầu chương chót và cuốn sách chấm dứt với câu: «gió vẫn thổi không ngừng». Trong hai năm trời lang thang đây đó để khai quật mồ mả, viên tướng chỉ nhìn thấy có bùn lầy mùa thu và mưa tuyết mùa đông. Qua câu chuyện kể lại theo một trình tự thời gian chặt chẽ, Ismail Kadare đã không để cho viên tướng được thấy cảnh mùa xuân, cũng như không để cho ông ta có được một nụ cười. Câu chuyện bắt đầu với mưa, tuyết và kết thúc với gió thổi. Như vậy, câu chuyện không phải đơn thuần chỉ kể lại sự việc mà thực ra chính là quá trình diễn biến trong tâm tư viên tướng từ khi đặt chân lên Albania cho đến lúc ra sân bay trở về nước. Chính vì thế mà, nếu như độc giả không biết gì về tên tuổi, dung mạo, bề ngoài của viên tướng - trừ chiều cao một thước tám mươi hai, - thì trái lại, qua đoạn này, đoạn khác, đây một nét, kia một chi tiết, người ta biết rất rõ tâm trạng của hắn từng lúc một. Hắn lên đường sang Albania với quan niệm đây là một sứ mệnh cao cả, thiêng liêng; hắn rất thích thú câu nói của một mụ quý tộc nước hắn ca tụng hắn trước ngày khởi hành: «Như một con chim oai hùng và đơn độc, ngài sẽ bay lượn trên những ngọn núi lặng lẽ và bi thảm ấy để lôi kéo con em khốn khổ của chúng ta ra khỏi nanh vuốt chúng». Hắn luôn luôn muốn người Albania hiểu là hắn cầm đầu cái phái đoàn hai người, hắn là nhân vật quan trọng nhất. Hắn ngầm chê bọn tướng lĩnh ngu dốt xưa kia đã đưa quân đội nước hắn «những con em của chúng ta, oai hùng và dũng cảm», đến chỗ thất bại và bị tiêu diệt, còn hắn, hắn đến Albania để đưa các tử sĩ đó ra khỏi quên lãng. Hắn tự cho mình là đại diện của một cường quốc văn minh đi đến một nước dã man, lạc hậu, nhỏ xíu chỉ bằng một cái chấm trên bản đồ. Hắn đặc biệt chú ý tìm kiếm di hài viên đại tá Z, con trai độc nhất của mụ quý tộc giàu có, quyền thế nọ, «con cưng» của Bộ Chiến tranh, «có bản lĩnh của một thiên tài quân sự» đã «mất tích» ở Albania. Gia đình viên đại tá đã xây sẵn một ngôi mộ nguy nga bằng cẩm thạch, có dựng tượng, trồng hoa hồng để chờ đón hài cốt của «người anh hùng» đó và đặt hết hy vọng vào viên tướng… Trong một lúc rượu say chuếnh choáng, tâm sự với người bạn đồng hành, viên tướng đã thổ lộ ý muốn của hắn là «sẽ hiên ngang đi giữa những người Albania, nhìn họ một cách căm hờn và khinh bỉ»; hắn đã «hình dung trước buổi lễ bàn giao hài cốt, long trọng và nghiêm trang,» và sẽ «cho diễu các quan tài binh sĩ nước hắn giữa đám dân chúng Albania để cho họ thấy là cái chết của chúng ta còn đẹp hơn cả cuộc sống của họ»… Nhưng rồi sự việc đã diễn ra khác hẳn, như hắn về sau đã đau khổ thú nhận: «Thái độ kiêu hãnh của chúng ta biến mất trước tiên, rồi tất cả những công việc này chẳng còn gì là long trọng nữa và cuối cùng những ảo tưởng của tôi cũng tan biến và bây giờ chúng ta đi dạo trong sự hờ hững chung của mọi người, dưới những con mắt bí hiểm và giễu cợt, như những thằng hề thảm hại của chiến tranh, còn đáng thương hơn cả những kẻ đã chiến đấu và chiến bại trên đất nước này». Thật vậy, hai năm trời trèo đèo, lội suối, xuôi ngược trên khắp các nẻo đường đất nước Albania, viên tướng đã đi từ phát hiện này đến phát hiện khác, từ thất vọng này đến thất vọng khác, những định kiến của hắn sụp đổ dần. Cái bi kịch của hắn là ở chỗ chính hắn đã từng sống những ngày đầu của chiến tranh vào mùa xuân 1939, khi quân phát xít đổ bộ lên Albania: đài phát thanh nước hắn báo tin «chiến thắng» dồn dập, dân chúng Albania đem hoa ra đón tiếp những đạo quân «sẽ dẫn văn minh và hạnh phúc đến cho họ». Rồi báo chí đăng bài, tranh ảnh, ca ngợi mùa xuân rực rỡ, bầu trời, mặt biển Albania chan hòa ánh nắng, các cô gái Albania duyên dáng, những y phục và những điệu múa đầy màu sắc. Binh lính nước hắn và cả bản thân hắn nữa - lúc đó hắn đang ở châu Phi - đều náo nức mơ ước được điều sang cái nơi thanh bình, tươi đẹp ấy, dưới bóng những cây ô liu cổ thụ… Và giờ đây, chính hắn lại tới đó để thu nhặt tàn tích của chính những đạo quân ấy và đồng thời cũng là thu nhặt những bằng chứng tuyệt đối về sự thất bại thảm hại của chúng. Có những đơn vị đã bị tiêu diệt hoàn toàn, xương người lẫn lộn với xương lừa ngựa, có những tên, kể cả sĩ quan, đã đào ngũ, đi ở cho nông dân Albania để mưu cầu cái sống thừa trong ô nhục, rồi cuối cùng chết vì tay những đơn vị trừng phạt của chính quân đội phát xít. Viên đại tá Z, «người anh hùng» của hắn, thực ra chỉ là một tên sát nhân hung ác, chỉ huy «Tiểu đoàn xanh» khét tiếng tàn bạo, đã cưỡng dâm một cô bé Albania 14 tuổi khiến cô bé tủi nhục nhảy xuống giếng tự tử; y đã bị giết chết không biết chôn ở đâu. Cho đến một tối nọ, công việc sắp hoàn thành, viên tướng cao hứng tự động đến dự một bữa tiệc cưới của một gia đình nông dân Albania, một bà cụ đã ném cái túi đựng hài cốt tên đại tá Z xuống trước mặt hắn, «như nhổ vào mặt hắn», với những lời nguyền rủa thậm tệ vì bà cụ chính là mẹ cô bé Albania nọ, chồng bà cụ đã bị «Tiểu đoàn xanh» treo cổ, chính bà cụ đã giết tên đại tá Z khi tên này - không biết cô gái đã tự tử - hôm sau lại mò đến nhà cô ta. «Và trong sự im lặng chung, viên tướng từ từ cúi xuống, run rẩy nắm lấy cái túi bê bết bùn,… hất lên vai, khom khom đi ra, như mang trên vai tất cả nỗi sỉ nhục và sức nặng của trái đất.» Bên cạnh những mẩu chuyện biết được về từng trường hợp binh sĩ nước hắn, viên tướng cũng được biết nhiều chuyện về người Albania, về truyền thống và phong tục tập quán Albania, về cuộc chiến đấu của nhân dân Albania… Sự hy sinh của Nik Martini, một người dân miền núi, đã để lại trong lòng hắn một ấn tượng sâu sắc: Nik Martini đã một mình vác súng đi xuống bờ biển, một mình đương đầu với cả đạo quân đổ bộ, đông như kiến cỏ. Tất nhiên, như viên tướng xác nhận, anh đã chiếm được một vị trí chiến đấu lợi hại, chỉ có trọng pháo mới đánh bật được anh ra khỏi đó, nhưng dù sao thì Nik Martini, cũng như biết bao người Albania khác, từng nhóm năm ba người một, hoặc đơn độc một mình, từ khắp nơi đổ đến bờ biển để cản đường quân xâm lược rồi hy sinh, không để lại dấu vết, trừ những bài hát của nhân dân sáng tác để ca ngợi và tưởng nhớ họ, - dù sao đi nữa, viên tướng cũng cảm thấy kinh ngạc, xấu hổ: Ních Martini, cũng như các chiến sĩ Albania khác, là những hình ảnh hoàn toàn khác hẳn binh sĩ nước hắn, khác hẳn tên đại tá Z. Một bên là những con người chân chính, biết mình chiến đấu cho cái gì và bất chấp những cuộc giao phong chênh lệch, đã dũng cảm lao vào quân thù, làm trọn nhiệm vụ con người của họ; một bên là sức mạnh mù quáng, ngu ngốc, hung ác và xét cho cùng, hèn nhát. Rút cuộc, chuyến đi hai năm trời của viên tướng là một nỗi ê chề, nhục nhã kéo dài, một cơn ác mộng, lắm lúc khiến hắn gần như sa vào tình trạng thác loạn tinh thần. Cuối cùng, đêm hôm trước ngày hắn lên đường trở về hước, hắn đã nghĩ đến cách đánh tráo hài cốt, lấy một bộ xương cũng cao một thước tám mươi hai để thế vào di hài viên đại tá Z mà, trong một lúc hoang mang thảng thốt, hắn đã hất xuống suối. Đang lúc say rượu, hắn loạng choạng đến cửa buồng ông linh mục đã khóa chặt, lom khom nói qua lỗ khóa để bày tỏ ý đồ gian lận của hắn. Bất đồ, hắn nhầm buồng, cửa buồng sịch mở, một bà to béo hiện ra, sỉ vả hắn tàn tệ đã nhòm vào buồng bà ta giữa lúc đêm hôm khuya khoắt. Cái cảnh vừa kệch cỡm, vừa thảm hại ấy, đánh dấu sự rã rời, suy sụp hoàn toàn trong con người hắn: còn đâu «con chim oai hùng, đơn độc bay lượn…», còn đâu sứ mệnh thiêng liêng, cao cả? Rõ ràng qua diễn biến tâm tư của viên tướng, có tính chất một biểu tượng, Ismail Kadare đã giễu cợt và lên án quân đội phát xít và nói chung, tất cả các đạo quân xâm lược. Nhưng vượt lên trên cả nhân vật trung tâm ấy, choán hết cả cuốn sách chính là hình ảnh đất nước và nhân dân Albania. Mặc dù câu chuyện được kể lại qua con mắt viên tướng nước ngoài, người ta vẫn thấy Ismail Kadare yêu tha thiết đất nước ông với những núi non hiểm trở, hùng vĩ, với những truyền thống đẹp đẽ, lâu đời, với những con người ngoan cường dũng cảm, từ bao đời nay vẫn trọng danh dự và nhân phẩm và hiện đang xây dựng thắng lợi chủ nghĩa xã hội. Ông ca ngợi cuộc chiến đấu anh hùng của nhân dân nước ông và nói chung, của tất cả các dân tộc đứng lên chống ngoại xâm để bảo vệ độc lập, tự do của mình. Qua cái chết của bác thợ đấu già Gjoleka - bị nhiễm trùng vì chiếc khuy gỉ trên quân phục một tên lính phát xít chết đã 20 năm nay - ông còn ngụ ý rằng chiến tranh chưa thật sự kết thúc hay nói cho đúng hơn, hòa bình chưa phải đã vững chắc: như những con vi trùng, tuy bị vùi sâu dưới đất cùng với xác tên lính hàng mấy chục năm trời, khi gặp khí trời, ánh sáng, lại phục hồi tất cả cái tính độc hại ác liệt của nó, chiến tranh vẫn còn ngấm ngầm âm ỉ, chờ lúc chúng ta lơ là để nổ ra, tàn phá. Tất cả những ý đó, Ismail Kadare đã thể hiện với một nghệ thuật già dặn, vững vàng. Những hình ảnh tương phản, những so sánh về hai mẫu người, hai hệ tư tưởng, hai thế giới khác nhau, ông để người đọc tự rút ra, tự suy nghĩ lấy. Ông chỉ trình bày những sự việc rất thực và chọn lọc, theo lối nhìn và cảm nghĩ của viên tướng nước ngoài, và kể lại câu chuyện một cách rất tự nhiên, thoải mái, gọn gàng, giản dị, khiến người đọc có cảm giác như ông rất «khách quan», hầu như thản nhiên với nhân vật của ông, với những sự việc ông kể, và do đó, từ một đề tài rất bình thường, đơn giản, nếu không phải khô khan, ông đã viết nên một cuốn sách thật hấp dẫn, có sức mạnh thuyết phục và tác động sâu sắc, xứng đáng là một tác phẩm ưu tú của Albania, một tác phẩm chúng ta có thể học tập được nhiều chẳng những về nội dung mà cả về nghệ thuật thể hiện. NGUYỄN VĨNH Mời các bạn đón đọc Viên Tướng Của Đạo Quân Chết của tác giả Ismail Kadare.
Trang Viên Mansfield - Jane Austen
“Trang viên Mansfield” là cuốn tiểu thuyết Jane Austen viết từ năm 1812 đến năm 1814. Đây là tác phẩm nhiều tham vọng nhất của Austen, về độ dài, miêu tả tính cách đa dạng và phạm vi các chủ đề. Tác phẩm xoáy vào việc giáo dục đạo đức cá nhân trong ba gia đình thuộc ba tầng lớp khác nhau trong xã hội lúc bấy giờ. Fanny Price, nhân vật nữ chính trong truyện, là con gái thứ của một gia đình nghèo đông con. Vì không thể nuôi nổi gia đình, bà Price đã quyết định gửi cô cho người chị ruột của mình nuôi nấng. Fanny được sống trong trang viên Mansfield cùng bốn người con của ông bà Bertram, hai công tử và hai tiểu thư. Gồm Tom, Edmund, Maria và Julia Bertram. Cô là một thiếu nữ nghèo hiền hậu, nhu mì, thông minh, nhạy cảm, giàu đức hy sinh, chân thành với nguyên tắc của mình, song quá khiêm nhường và bị ngược đãi. Cô phải chống chọi lại những hậu quả này, đồng thời xem xét lại tình cảm riêng của mình, trong lúc chịu đựng sự thờ ơ phi lý, nệ cổ và thái độ coi thường, hợm hĩnh của những người quanh cô. Edmund Bertram là anh họ của Fanny, cậu dí dỏm và hấp dẫn khi được phép sống tự nhiên, nhưng do nhiều tình huống bắt buộc phải dè dặt, nên anh có vẻ cứng nhắc và hay suy xét. Còn anh em Henry và Mary Crawford mồ côi sớm, được chú thím thuộc tầng lớp thượng lưu ở Luân Đôn nuôi dưỡng. Chú thím yêu quý song không quan tâm giáo dục đạo đức cho họ, nên tuy tràn đầy sức sống và hấp dẫn, cả hai đều ích kỷ, phù phiếm và nông cạn không sao cứu vãn nổi. Edmund bị hấp dẫn bởi Mary nhưng lại đau khổ vì cô. Henry sau khi bỏ ý định quyến rũ hai cô em gái của Edmund thì nhận ra mình bị cuốn hút bởi sự dịu dàng, thùy mị của Fanny. Trong khi đó, Fanny nhận ra mình yêu anh họ Edmund của mình biết nhường nào nhưng vẫn im lặng chờ đợi. Họ bị vướng vào vòng xoáy tình cảm rắc rối. Tuy nhiên, Fanny và Edmund là hai con người sinh ra là để cho nhau, sau bao khó khăn và trưởng thành của cả đôi bên, họ đã đi đến hôn nhân. Cuốn tiểu thuyết nêu bật sức mạnh đạo đức thể hiện chiều sâu của tâm hồn, các nhân vật nữ thùy mị và thực tế, sẵn sàng hy sinh cơ hội được hưởng hạnh phúc trần thế hơn là hành động ngược lại tiêu chuẩn đạo đức cơ bản của họ, không ngừng đề cao tình yêu vị tha và biết quên mình, nhận thức được những giới hạn, sự bí ẩn của trí tuệ và tính cách con người. Tác phẩm này đã được dựng thành phim. *** Jane Austen (1775-1817) là nhà tiểu thuyết Anh, nổi tiếng vì những đề tài sâu sắc, dí dỏm về xã hội nước Anh đầu thế kỷ 19. Austen được tôn vinh là một trong những nhà tiểu thuyết vĩ đại nhất của thế kỷ 19 và 20. Các tác phẩm nổi tiếng của bà: Kiêu Hãnh Và Định Kiến Lý Trí Và Tình Cảm Thuyết Phục Emma Trang viên Mansfield, Tu viện Northanger. “Tiểu thuyết của Jane Austen thực sự là những câu chuyện đích thực của trái tim. Sự quyến rũ của những cuốn tiếu thuyết ấy là mạch lãng mạn chảy ngầm dưới những câu chuyện tình, là tài phân tích tâm lý cảm xúc của nhân vật nữ một cách phi thường, là khả năng khắc họa những hình ảnh lý tưởng khác nhau của các chàng trai khiến trái tim độc giả nữ mê muội, là chất hài hước thể hiện một con mắt quan sát xã hội rất sắc sảo, là kết thúc có hậu khi tất cả các nhân vật nữ sau nhiều sóng gió đều tìm được tình yêu đích thực… Có lẽ Jane Austen không chỉ quá lãng mạn mà còn quá thông minh.” Mời các bạn đón đọc Trang Viên Mansfield của tác giả Jane Austen.
Trái Tim Tuổi 19 - Tony Parsons
Bạn mất gì khi bỗng dưng trẻ lại? Và bạn được những gì? Bạn sống cuộc sống của mình như thế nào? Bạn nên quan tâm dến hành tinh và xã hội ở mức độ nào so với những người mà bạn thương yêu? Bạn có muốn trở thành người bạn của con cái hoặc cha mẹ mình không? Đến lúc nào bạn mới thôi bắt cha mẹ chăm sóc mình để bắt đầu lo lắng cho họ? Ở độ tuổi nào thì một người đàn ông trở nên lố bịch khi mặc chiếc quần jeans bó sát? Trái tim tuổi 19 là hành trình kiếm tìm lời giải, kiếm tìm sự khai sáng, là câu chuyện về việc bạn trưởng thành như thế nào, làm thế nào để từ bỏ những giấc mơ tuổi trẻ và theo đuổi những mục tiêu cao đẹp hơn, và liệu có bao nhiêu cơ hội để bạn thực hiện điều đó. - George Bailey được trao tặng một món quà mà tất thảy chúng ta đều mơ ước: đó là cơ hội được sống thêm lần nữa. Sau một cơn đau tim ở tuổi 47, George được thay tim của một cậu bé 19 tuổi, và bỗng dưng mọi thứ đổi thay.   Anh không còn là ông bố nghiêm khắc, luôn dõi theo nhất cử nhất động của cậu con trai và cô con gái đang tuổi lớn. Anh trở thành bạn của các con. Anh yêu vợ hết mực, Song đã không còn là một người chồng đúng nghĩa. Và anh muốn thay đổi cả thế giới...  "Một câu chuyện rất thật về cách chúng ta vẫn loay hoay tìm kiếm tình yêu và sau khi có được rồi, chúng ta lại đạp đổ đi...đôi khi chỉ vì điều đó dễ dàng hơn"   -Observer *** Được sống thêm lần nữa là món quà kỳ diệu của cuộc sống, cũng giống như Chúa vừa ném vào đống lửa đang tắt của chúng ta thêm một que củi vậy. Với ngòi bút dí dỏm, tinh tế, tác giả Tony Parsons mang đến cho người đọc câu chuyện cảm động và ý nghĩa về giá trị của cuộc sống trong cuốn Trái tim tuổi 19. Cuốn sách kể lại chuyện, sau cơn đau tim, viên cảnh sát bàn giấy George Bailey, 47 tuổi, được thay trái tim của một cậu bé 19 tuổi. Xuất viện, George trở lại với cuộc sống của mình, thế nhưng, anh sớm nhận ra mọi thứ không còn như xưa. Anh làm tình với vợ, đam mê và mãnh liệt như một chàng trai 19. Anh thấy đồng cảm với tham vọng cứu vớt hành tinh của cô con gái nhỏ, và gần như trở thành người bạn của cậu con trai lớn hơn là một ông bố. George không biết được rằng điều này lại trở nên tồi tệ. Cuộc sống của anh đã đảo lộn. Vợ của George, Lara, chợt nhận ra sống cùng chồng chẳng khác nào sống cùng một cậu bé mới lớn. Mệt mỏi vì phải một mình gánh vác trọng trách nuôi dạy con cái và hụt hẫng vì người chồng mình yêu thương dường như trở thành một người khác, Lara muốn rời xa George. Thế nên, tạm thời anh chuyển đến sống cùng bố mẹ. Anh thường xuyên say khướt vì chẳng biết mình thực sự là ai. Anh khao khát được quay về cuộc sống bên vợ và hai con như trước kia. Vì thế, Geogre quyết định tìm hiểu món quà được trao tặng, trái tim đang đập trong lồng ngực mình đến từ đâu. Trong thời gian này, anh dần nhận ra nhiều điều mới mẻ và giá trị trong cuộc sống. Tony Parsons vừa là nhà văn vừa là nhà báo viết mảng âm nhạc tại Anh. Ông là tác giả của nhiều cuốn tiểu thuyết bán chạy như: One For My Baby (2001), Man and Wife (2003), The Family Way (2004), Stories We Could Tell (2006), My Favourite Wife (2007), Starting Over (2009) và Men From the Boys (2010). Mời các bạn đón đọc Trái Tim Tuổi 19 của tác giả Tony Parsons.