Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Đám Cưới Không Có Giấy Giá Thú - Ma Văn Kháng

Đám cưới không có giấy giá thú là đứa con tinh thần mới của nhà văn Ma Văn Kháng. Cũng như những tác phẩm trước, Đám cưới không có giấy giá thú nhận được nhiều sự quan tâm không chỉ từ độc giả mà còn từ những nhà văn lớn khác của Việt Nam. *** Nhà văn Ma Văn Kháng (sinh ngày 1 tháng 12 năm 1936 tại làng Kim Liên, Đống Đa, Hà Nội) tên thật là Đinh Trọng Đoàn. Ông là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, học trường Sư phạm Hà Nội. Ông từng là giáo viên cấp hai, dạy môn Văn và là hiệu trưởng trường cấp 3 thị xã Lao Cai nay là tỉnh Lào Cai. Ông cũng là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam từ năm 1974. Từ năm 1976 đến nay ông công tác tại Hà Nội, đã từng là Tổng biên tập, Phó Giám đốc Nhà xuất bản Lao động. Từ tháng 3 năm 1995 ông là Tổng biên tập tạp chí Văn học nước ngoài của Hội Nhà văn Việt Nam. Ông đã 8 lần đệ đơn xin thôi vị trí này. Tác phẩm Đồng bạc trắng hoa xòe (tiểu thuyết, 1979 Vùng biên ải (tiểu thuyết, 1983) Trăng non (tiểu thuyết 1984) Phép lạ thường ngày Thầy Thế đi chợ bán trứng Mưa mùa hạ (tiểu thuyết 1982) Mùa lá rụng trong vườn (tiểu thuyết, 1985) Võ sỹ lên đài Thanh minh trời trong sáng Hoa gạo đỏ Côi cút giữa cảnh đời (tiểu thuyết 1989) Đám cưới không giấy giá thú Đám cưới không có giấy giá thú (tiểu thuyết, 1989) Chó Bi, đời lưu lạc (tiểu thuyết 1992) Ngày đẹp trời (truyện ngắn 1986) Vệ sĩ của Quan Châu (truyện ngắn 1988) Giấy trắng (tiểu thuyết) Trái chín mùa thu (truyện ngắn 1988) Heo may gió lộng (truyện ngắn 1992) Trăng soi sân nhỏ (truyện ngắn 1994) Ngoại thành (truyện ngắn 1996) Truyện ngắn Ma Văn Kháng (tuyển tập 1996) Vòng quay cổ điển (truyện ngắn 1997) Năm tháng nhọc nhằn, năm tháng nhớ thương (hồi ký 2009) Một mình một ngựa (Tiểu thuyết 2007) Một Chiều Dông Gió Một Nhan Sắc Đàn Bà Trốn Nợ *** Đám cưới không có giấy giá thú VĂN NGHỆ Số 6. 10/2/1990 Để triển khai kết quả của Đại hội nhà văn lần thứ IV, sáng ngày 11.1.1990, Tuần báo Van nghệ tổ chức một cuộc thảo luận về cuốn tiểu thuyết “Đám cưới không có giấy giá thú” của nhà văn Ma Văn Kháng. Đây là buổi họp, mở đầu cho những cuộc sinh hoạt phê bình dưới nhiều hình thức khác nhau sẽ thường xuyên được tổ chức trong thời gian tới nhằm nâng cao chất lượng trang phê bình trên mặt báo, góp phần đẩy mạnh việc đổi mới công tác lý luận phê bình chung của chúng ta. Tới dự cuộc thảo luận có các nhà văn, nhà phê bình quen biết: Xuân Cang, Nguyên Ngọc, Nguyễn Kiên, Xuân Thiều, Huy Phương, Hà Minh Đức, Phan Cự Đệ, Từ Sơn, Phan Hồng Giang - Đồng chí Lê Thanh Tùng, và đồng chí Xuân Du đại diện Nhà xuất bản Lao động cùng tới dự. Ban biên tập có gửi giấy mời nhà văn Bùi Hiển, nhưng đến phút cuối vì có việc bận đột xuất, nhà văn không đến dự được. Có mặt trong buổi họp còn có nhà văn Ma Văn Kháng, tác giả cuốn tiểu thuyết. Về phía chủ nhà, ngoài anh Hữu Thỉnh, nhà thơ, Tổng biên tập báo Văn nghệ, còn có các anh chị: Ngô Ngọc Bội, Nguyễn Vinh, Phạm Tiến Duật, Hoàng Minh Tường, Phạm Đình Ân, Thiếu Mai. Sau lời đề dẫn của anh Hữu Thỉnh, cuộc hội thảo bắt đầu. Sau đây là ý kiến của từng đồng chí. Xuân Cang: Tôi cùng với anh Lê Thanh Tùng và anh Xuân Du là những người chịu trách nhiệm chính trị về cuốn sách của anh Kháng. Thú thật là khi mới được đọc qua một lần, tôi hơi hoảng. Tất cả các đảng viên cộng sản trong cuốn sách là những con người tồi tệ - tồi tệ thực sự chứ không chỉ là suy thoái. Vậy có phải là cuốn sách phủ nhận những người cộng sản, phủ nhận Đảng không? Sau khi đọc kỹ hơn, bình tâm suy nghĩ, tôi khẳng định là không phải như vậy. Thái độ đối với các tác phẩm văn học, nhất là những tác phẩm đa dạng, đa nghĩa là một sự thử thách mới đối với người đọc. Trước đây khoảng chục năm, một cuốn sách như kiểu cuốn sách này ra đời quả là một sự gay go. Nhiều độc giả ở ngành giáo dục cũng chấp nhận tác phẩm này. Họ nói rằng cuốn sách đã nói đúng sự thật. Sự thật trong ngành giáo dục còn có những con người, những đơn vị suy thoái hơn nữa kia. Tuy vậy, họ tỏ ra băn khoăn, vì trong ngành còn có những nhân tố tích cực nữa. Miêu tả như thế này có phải là bôi bác không, có sợ người đọc hiểu nhầm ngành giáo dục Tôi nói với anh em là cuốn sách này viết về ngành giáo dục, nhưng không phải chỉ đề cập đến những vấn đề của giáo dục mà là những vấn đề nhức nhối chung của xã hội. Ở đây có cuộc hôn phối không đúng quy luật giữa chúng ta và chủ nghĩa xã hội. Các bạn ấy còn băn khoăn: Vậy vai trò giáo dục của văn học là ở đâu? Tôi nói văn học còn có chức năng cao cả là phát hiện, khám phá, dự báo, báo động nữa. Có thể khai thác vai trò giáo dục của nó ở đấy. Đọc cuốn sách của anh Kháng không thể đọc một mạch. Từng trang, từng trang, nó cho người đọc nhận thức dần những điều tác giả muốn gửi gắm. Tôi đồng ý với Phan Hồng Giang, Ngô Ngọc Bội trước đây người sáng tác còn phải che chắn, rào đón quá nhiều. Ví dụ khi muốn xây dựng một nhân vật cộng sản, nhà văn thường tự hạn chế mình nhân vật này “đại diện” cho xã hội mới, nếu có khuyết phải có ưu, ưu là cơ bản, xây dựng một nhân vật tiêu cực là chỉ dám xếp anh ta vào chức phó. Ở đây anh Kháng đã mạnh dạn đưa ra những nhân vật chịu trách nhiệm chính để người đọc phán xét một cách bình đẳng. Nếu đọc theo lối truyền thống thì khó chấp nhận. Riêng tôi, tôi tán thành sự chuyển hướng về phương pháp này, sắp tới, hội đồng văn học công nhân khi xem xét vệc tặng thưởng các tác phẩm văn học đề tài công nhân không thể không tính tới cuốn sách này. Vừa ra đời, có ý kiến này ý kiến nọ, nhưng rồi cuốn sách đã đứng được, điều đó nói lên rằng cuốn sách đáp ứng với tình hình của xã hội chúng ta trong thập kỷ này. Nhà văn đã góp những suy nghĩ nghiêm túc về những vấn đề bức thiết đang đặt ra trong xã hội hiện nay. Phan Cự Đệ: Trong tiểu thuyết Đám cưới không có giấy giá thú, nhà văn Ma Văn Kháng đã phản ánh được cái bi kịch của một nhà giáo, một tri thức: anh ta lúc thì đóng vai một nhà hiền triết, một nhân cách cao cả và thánh thiện nhưng lại bị ném vào một môi trường mà các giá trị tinh thần đang bị đảo lộn: một môi trường bị ô nhiễm, bị băng hoại về đạo đức và nhân phẩm: lúc thì hiện ra như một con người mơ mộng và lãng mạn, hay đỏ mặt vì mặc cảm và sĩ diện nhưng lại bị nhúng chìm trong cái biển đời thường dung tục, ở đó hàng ngày diễn ra cái cảnh chen lấn, cướp đoạt một cách trâng tráo, vô sỉ: lúc là một người say mê nghề nghiệp, nhiều hoài bão và khát vọng, muốn chiếm lĩnh các đỉnh cao khoa học nhưng lại bị vây bủa bởi một xã hội thực dụng và cơ hội, một xã hội tiêu thụ đang lên cơn sốt với những đam mê và khoái lạc, với khát vọng làm giàu, khát vọng chiếm đoạt quyền lực bằng bất cứ giá nào! Nhân vật anh giáo Tự phảng phất một mô-típ đã quen thuộc trong văn xuôi Việt Nam và thế giới: lúc là Đôn Ki-hô-tê một mình một dáo dũng cảm xông lên đánh nhau với lũ yêu quái, lúc lại là ông giáo Thứ đang sống mòn và chết mòn trong sạch một cách thụ động ở cái trường tư ngoại ô, lúc là một Hoàng thân Mưt-skin, một Pi-e Bô-du-khốp nhưng nhuốm màu sắc triết học phương Đông. Ma Văn Kháng đã viết về cái “bi kịch vỡ mộng” của một “bữa tiệc dang dở, một đám cưới không thành, một cuốn sách hay để lầm chỗ” đó một cách rất tâm huyết, với tất cả suy nghĩ và trăn trở, niềm khát vọng và nỗi đau của một nhà văn trước thời cuộc, trước tình trạng xuống cấp về trình độ tư duy và phẩm chất đạo đức ngay trong một số người tự cho mình là cán bộ lãnh đạo, là trí thức hoặc kỹ sư của tâm hồn. Ma Văn Kháng đã nói lên được cái tâm sự có thật của những trí thức có tâm huyết, có hoài bão. Cách lý giải có thể còn phải bàn cãi, nhưng điều đáng trân trọng là tấm lòng trung thực và trong sáng của người cầm bút, là những trang viết chân thành và xúc động. Cuốn tiểu thuyết cũng bộc lộ khá rõ một số nhược điểm. Trước đây ta hay lý tưởng hóa một chiều các nhân vật đảng viên hoặc cán bộ lãnh đạo, gần đây lại có khuynh hướng biến họ thành những con rối, thành con người máy hoặc con người của dục vọng tầm thường (Những thiên đường mù, Ly thân, Những mảnh đời đen trắng). Tác phẩm của Ma Văn Kháng không rơi vào hai thái độ cực đoan đó. Tuy nhiên, cách nhìn những “nhân vật tiêu cực” trong hàng ngũ lãnh đạo ở đây có lúc còn đơn giản và phiến diện, đôi khi biến họ thành nhân vật của hài kịch, thành những tính cách bị phóng đại trong nghệ thuật biếm họa. Tính khái quát của loại nhân vật này chưa cao. Trong số này ngoài đời tôi thấy có những người xấu nhưng biết ngụy trang một cách thâm hiểm hơn hoặc có người tốt, chân thành, ngay cả trong sự ấu trĩ, máy móc của họ. Tác phẩm có nhiều trang sinh động, hấp dẫn trong đối thoại, tranh luận hoặc dựng người, dựng cảnh nhưng cũng có nhiều trang chìm sâu một cách nặng nề vào những suy tư, vào những lời biện giải mang màu sắc duy lý của tiểu thuyết luận đề. Xuân Thiều: Nghe đồn cuốn sách “có vấn đề” tôi liền đọc ngay, hai đêm thì đọc xong. Và bây giờ, tôi sẵn sàng tranh luận với những ý kiến cho rằng cuốn sách “có vấn đề chính trị”, thậm chí tôi còn nghe có ý kiến nói cuốn sách “đi ngược lại nghị quyết 7” nữa kia. Theo tôi thì cuốn sách đã thể hiện được tâm huyết của tác giả, ấy là lòng tha thiết mong mỏi được sống trong một xã hội tốt đẹp lý tưởng. Thấy rõ nỗi đau đớn của tác giả: mình yêu chủ nghĩa xã hội như vậy mà sao trong thực tế xã hội lại có chiều ngược với suy nghĩ, mong ước của mình. Tôi khẳng định là tính tư tưởng của tác phẩm rất cao. Tính hiện thực cũng rất cao, vì tác giả đã mạnh dạn phơi bày không né tránh những vấn đề gay cấn nóng bỏng của xã hội. Trước đây dăm bảy năm, người viết chúng ta phải né tránh nhiều vấn đề, nhiều sự việc. Có muốn xây dựng nhân vật tiêu cực để phê phán thì cũng chỉ dám đưa ra anh “phó”: phó chủ tịch, phó chính ủy, phó bí thư huyện ủy... Tóm lại, anh phó lãnh đủ những đòn phê phán trong lúc anh chính bao giờ cũng nghiêm túc, sáng suốt, đúng đắn. Bởi vì nếu phê phán anh chính thị sợ bị hiểu lầm là nói xấu Đảng, thì chính mình sẽ bị đánh! Ở đây anh Ma Vãn Kháng đã gọi thẳng những người chịu trách nhiệm chính ở môi trường mà anh miêu tả: hiệu trưởng, bí thư chi bộ nhà trường, bí thư thị ủy. Tác giả đã nói thẳng sự thật mà không sợ bị hiểu là nói xấu Đảng. Dựng lên những nhân vật lãnh đạo dốt nát, thô thiển như vậy, anh tha thiết mong muốn những người lãnh đạo ở các ngành, các cấp có văn hóa hơn, trí tuệ hơn, sáng suốt, thông minh hơn. Đọc xong, ngẫm nghĩ về các nhân vật Dương, Cẩm, Lại, tôi lấy làm tiếc là các nhân vật này của anh còn giản đơn, chưa có chiều sâu. Chưa thấy bóng dáng của những nhân vật sai một cách chân thành, có ý đồ tốt, tưởng là đúng, là trung thành với lý tưởng cộng sản hóa ra lại sai lầm và mang lại những tác hại lớn cho xã hội. Nhân vật Tự là một người tri thức đầy bi kịch, suốt đời thất bại. Đáng buồn là nhân vật nàyquá yếu đuối, quá bất lực, suốt đời chịu đựng. Người như anh mà không tự sát là lạ! Đoạn viết về bộ đội có lẽ là chỗ yếu nhất, và hơi suy diễn đôi chút, chứng tỏ vốn hiểu biết về đời sống bộ đội của tác giả chưa nhiều và chưa sâu. Nói chung tôi thích cuốn sách này, một cuốn sách nhiều trăn trở ... Mời các bạn đón đọc Đám Cưới Không Có Giấy Giá Thú của tác giả Ma Văn Kháng.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Cái Cười của Thánh nhân - Nguyễn Duy Cần
Cái Cười Của Thánh Nhân không chỉ là một quyển biên khảo về văn chương u mặc phương Đông, mà còn hàm chứa trong nó những giá trị nhân văn. Những câu chuyện cổ, những bài văn u mặc trong quyển sách cho ta thấy cuộc đời dưới một lăng kính khác hài hước hơn, thú vị hơn và sâu sắc hơn. Một cuốn sách không chỉ để mua vui mà còn khiến người đọc phải suy ngẫm. "Cái cười của Thánh nhân" là tiếng cười của người thoát vòng tục lụy, tiếng cười vang của con người tự do, tiếng cười vang vọng ngàn năm khắp mấy cõi trời... Đó là tiếng cười của Lão Tử, của Trang Tử và của bao hiền nhân khác biết tung tăng đùa chơi với cuộc đời. Nguyễn Duy Cần đã mượn chuyện ngàn xưa để cười chuyện thời nay đó! Chúng ta đang ở trong một thế giới vật chất đầy đủ nhờ tiến bộ khoa học kỹ thuật, nhưng tinh thần của chúng ta mệt lắm, khổ lắm bởi tầm nhìn, tầm nhận thức của chúng ta. Chúng ta đang sống vì những việc mà mình cho là quan trọng lắm, giá trị lắm, cần thiết lắm và những cuộc tranh giành, chiến tranh, đau khổ cũng vì đó mà diễn ra... Dường như cuộc sống đang thiếu vắng dần sự bình yên, thiếu vắng dần hạnh phúc! Đọc Cái cười của Thánh Nhân để chúng ta biết cười mình, biết xót xa thân phận của mình và biết tự giải thoát để có tiếng cười đầy hoan lạc trong cuộc đời. - Bác sĩ Trương Thìn, 27/02/2012 *** Một nhà văn tây phương có viết: “Tình yêu là một vị thần bất tử, U mặc là một lợi khí, Cười là một sự bổ ích. Không có ba cái đó, không đủ nói đến văn hóa toàn diện” Cười đùa quả là một sự bổ ích, u mặc quả là một lợi khí căng thẳng, ngột ngạt, cái khô khan của những chủ thuyết một chiều, cái máy móc của tâm hồn do văn minh cơ khí điều khiển uốn nắn… đang biến loài người thành những bộ máy vô hồn, không dám nói những gì mình nghĩ, không dám làm những gì mình muốn… mà chỉ thở bằng cái mũi của kẻ khác, nhìn bằng cặp mắt của kẻ khác, nghe bằng lỗ tai của kẻ khác… theo nghệ thuật tuyên truyền siêu đẳng của văn minh cơ khí ngày nay! Một con người hoàn toàn là sản phẩm của xã hội, chưa biết sống và dám sống theo ý mình… đó là mục tiêu chính mà u mặc nhắm vào. Chính u mặc đã khiến cho bà Roland, khi lên đoạn đầu đài đã “cười to” với câu nói bất hủ này: “Ôi Tự Do, người ta đã nhân danh mi mà làm không biết bao nhiêu tội ác!” Lâm Ngữ Đường, mà trí thức Trung Hoa tặng cho danh hiệu “u mặc đại sư” có nói: “U mặc là một phần rất quan trọng của nhân sinh, cho nên khi mà nền văn hóa của một quốc gia đã đến một trình độ khá cao rồi ắt phải có một nền văn hóa u mặc xuất hiện”. U mặc xuất hiện là để đặt lại mọi nghi vấn về các giá trị thông thường của xã hội mà đời nào cũng tự do là “văn minh nhất” lịch sử! Nhà văn Georges Duhamel khuyên người Tây Phương, trong hoàn cảnh hiện thời, cần phải đặt lại tất cả mọi giá trị của văn minh, vì chưa có xã hội nào trong văn minh lịch sử mà người trong thiên hạ điêu linh thống khổ bằng! Ở xã hội Trung Hoa ngày xưa, thời Xuân Thu Chiến Quốc, một thời đại điêu linh nhất đã phải sinh ra một ông Lão, một ông Trang, để đặt lại tất cả mọi giá trị của xã hội đương thời. Nhà văn họ Lâm cho rằng: “Tinh thần ở u mặc Trung Hoa ngày xưa cũng đã thấy bàng bạc ngay trong kho tàng ca dao Trung Quốc. Trong Kinh Thi, Thiên Đường Phong, một tác giả vô danh, vì thấy rõ cái “trống không” của cuộc đời hết sức vô thường của con người, đã trào lộng hát lên: Ngài có xe ngựa, sao không cưỡi, không tế… Đợi lúc chết rồi, kẻ khác hưởng đi mất thôi! Đó là một phần nào đã bộc lộ cái trạng thái u mặc. ... Mời các bạn đón đọc Cái Cười của Thánh nhân của tác giả Nguyễn Duy Cần.
Bức Thư Của Người Đàn Bà Không Quen - Stefan Zweig
Nhớ lần đầu đọc Bức thư của người đàn bà không quen do bạn giới thiệu, đọc không thể dứt và đọc xong buốt lạnh cả sống lưng! Thật không thể hình dung được một chuyện như vậy lại có thể xảy ra và người ta (cô gái, ông nhà văn, thượng đế hay thánh Allah, Phật tổ) có thể để nó xảy ra như vậy. Tôi cố gắng hình dung và gọi tên mối tình của người con gái ấy nhưng không sao làm được, nó khác tất cả mọi mối tình từng được mô tả trong sách báo, thơ văn và cả ngoài đời. Không phải chỉ là lãng mạn vì cô gái hiểu rõ người đàn ông kia, rõ từ cái hay, cái dở, cho đến từng giây từng phút trong thói quen sinh hoạt của ông ta. Phải, khi cô còn bé, sống trong sự thiếu thốn tình cảm, có thể tình cảm đó xuất phát từ sự lãng mạn + ngưỡng mộ + nhu cầu giao cảm. Nhưng rồi cô lớn lên, cô trải nghiệm cuộc sống, cô hiểu bản thân và hiểu người tình của mình rất rõ, tình yêu của cô vẫn như vậy, thậm chí còn nồng nàn hơn bởi nó đã mang dáng dấp tình yêu của một người phụ nữ với tư cách là một người phụ nữ hoàn chỉnh. Từ chỗ không thể gọi tên mối tình câm lặng ấy, tôi đâm ra nghi ngờ không biết liệu có thể có thật hay không - một tình cảm trong bối cảnh như vậy. Tôi đọc lại bức thư, đọc lại nhiều lần nữa và nhận thấy, nó có thể, có thể có thật vì tất cả diễn ra đều rất logic và có thể hiểu được. Tuy nhiên, tôi vẫn không thể nào gọi tên hay mô tả tình yêu của cô gái một cách ngắn gọn được. Đã có lúc tôi tự hỏi tay nhà văn kia có phải người xấu không, có xứng đáng được nhận một tình cảm như vậy hay không? Có lẽ nếu tay nhà văn đó không xứng đáng thì tôi cũng nhẹ đi một chút, có chỗ để mà xỉ vả cho bõ tức - thói xấu muốn trút tình cảm vào một cái gì đó mà. Nhưng đọc đi đọc lại, tay nhà văn đó cũng chả có gì xấu hết. Bác ấy sống phóng túng trong tình cảm, sống trong sự đầy đủ về vật chất, viết văn, và chả hề có ý định che dấu các điểm hay, điểm dở trong phong cách của mình. Lúc nào cũng thế, tình cảm và phớt lạnh, nồng nàn và hời hợt - không che giấu chút nào. Và cô gái yêu đúng con người đó, không phải một hình tượng mà nhà văn cố tình tạo ra để thu hút, cũng không phải cô gái chủ động vẽ lên để mê hoặc bản thân. Đoạn kết, nhà văn nhìn bình hoa và không thể nào hình dung ra rõ rệt bất cứ điều gì về người con gái ấy. Một mình trong căn phòng vắng lặng với bình hoa mà trong những năm trước, có một hình bóng âm thầm cắm những bông hoa trắng cho ngày sinh nhật của ông. Không hiểu nhà văn cảm nhận sự mất mát đó như thế nào khi mà ông chưa bao giờ biết rằng mình có để mà biết mình có thể mất... Cuốn sách này gồm 2 truyện vừa, bên cạnh Bức thư của người đàn bà không quen là 24 giờ trong đời một người đàn bà, đều đã được dựng thành phim. Bên cạnh nguyên tác văn học, cuốn sách còn cung cấp thông tin và hình ảnh đẹp về các bộ phim làm theo hai câu chuyện đầy bi kịch về tình yêu đơn phương không được đền đáp của những người phụ nữ. 24 giờ trong đời một người đàn bà là hồi ức của một người phụ nữ lớn tuổi kể về mối quan hệ tình cờ và kỳ dị với một chàng trai mê cờ bạc. Giằng co giữa niềm tin đạo đức và sự tha hóa của con người, những nhân vật trong truyện dường như tuyệt vọng trong việc chiến thắng định mệnh, để rồi số phận đẩy đưa đến những lối rẽ không dừng được. Một trích đoạn nhỏ trong 24 giờ trong đời một người đàn bà, thay cho lời kết của bài viết này: “… Và bây giờ ông đã hiểu tại sao tôi bỗng quyết định kể về số phận của tôi cho ông nghe khi ông bênh vực bà Hawngrriet say sưa giữ ý kiến rằng hai mươi bốn giờ có thể làm thay đổi hoàn toàn cuộc đời người đàn bà, tôi cảm thấy như những lời đó nhằm vào tôi: Tôi biết ơn ông vì đây là lần đầu tiên, có thể nói là tôi được minh oan và thế là tôi nghĩ rằng, có lẽ giải thoát tâm hồn mình bằng cách thú tội, cái gánh nặng và nỗi ám ảnh vĩnh cửu của quá khứ sẽ mất đi và mai đây, tôi có thể sẽ trở lại nơi đó, đi vào gian phòng mà tôi đã gặp số phận của tôi, không còn oán hận cả anh lẫn tôi. Thế là khối đã đè nặng tâm hồn tôi sẽ được nhấc lên, tất cả sức nặng của nó sẽ đè xuống quá khứ, đè chặt lấy quá khứ không cho nó thức dậy nữa, như trong hầm mộ”… *** Stéfan Zweig (28 tháng 11, 1881 - 22 tháng 2, 1942) là một nhà văn, nhà báo, nhà viết kịch và nhà viết tiểu sử người Áo nổi tiếng trên thế giới. Ông sinh ra trong một gia đình khá giả gốc Do Thái ở thành phố Viên, Áo. Không tìm thấy động lực rõ ràng, ông bỏ học sớm. Việc học của ông chỉ bắt đầu khi ông đi qua nhiều nước ở châu Âu và kết giao với nhiều nhân vật quan trọng vào thời đại của ông. Ông có nhiều chuyến đi đến Ấn Độ, châu Phi, Bắc và Trung Mỹ, cũng như Nga. Trong Thế chiến thứ nhất, vì lý do sức khỏe yếu, ông không phải ra mặt trận mà được làm thủ thư, phụ trách quản lý tư liệu chiến tranh. Nhưng chỉ đến khi sống một thời gian ngắn gần trận tuyến, ông mới nhận ra sự điên rồ của chiến tranh, và từ đó trở thành người cổ vũ mạnh mẽ cho hoà bình. Là một nhà văn có sức làm việc mạnh, ông đã viết nhiều tập tiểu sử (như quyển Ba bậc thầy bàn về Honoré de Balzac, Charles Dickens và Fyodor Dostoyevsky, xuất bản năm 1920), thêm truyện dài và truyện ngắn. Ông được ca ngợi là có óc phân tích tâm lý độc đáo, và có tài chắt lọc bỏ ra những tiểu tiết khiến cho những tập tiểu sử của ông đọc hấp dẫn như tiểu thuyết. Đến thập niên 1930 ông là một tác giả có tác phẩm được dịch ra nhiều thứ tiếng nhất. Tháng 2 năm 1942 , trong thời gian lễ hội ở Rio de Janeiro ( Brasil), vì tâm trạng cô đơn và mệt mỏi, Stéfan Zweig và vợ Lotte cùng nhau tự tử. Năm 1948  truyện Bức Thư Của Người Đàn Bà Không Quen Biết đã được dựng thành phim có tựa “Letter from an unknown woman", với Joan Fontaine thủ vai cô gái nhân vật chính, Howard Koch viết kịch bản và John Houseman là nhà sản xuất. *** Lời Dịch Giả: Với tôi, cái tên Stéfan Zweig, ngoài biểu tượng văn chương tuyệt đỉnh của loài người, còn gợi cho tôi nhiều kỉ niệm về quá khứ, về tuổi trẻ, về chiến tranh... Tôi “biết” Stéfan Zweig từ khá sớm: Thuở mười tám đôi mươi, tức là hơn sáu mươi năm trước. “Biết” đây tất nhiên không hiểu theo nghĩa cụ thể - quen biết - bởi chúng tôi cách nhau bao xa cả về thời gian lẫn không gian, mà là có cơ hội tiếp xúc với tác phẩm của ông. Năm 1951, trong chiến dịch Hà Nam Ninh, tôi “gặp” Stéfan Zweig: Tôi tìm thấy trên bàn giấy của viên đồn trưởng một cuốn sách nhan đề Amok, ou le fou de Malaisie (Amok hay gã điên ở Malaysia). Đó là một tập gồm 3 truyện vừa: Amok, Bức thư của người đàn bà không quen và Ngõ hẻm dưới ánh trăng. Tôi bắt đầu “mê” Zweig từ dạo ấy.  Tôi chọn “Bức Thư Của Người Đàn Bà Không Quen" của S. Zweig. Tôi dịch ngay tại chỗ, tại phòng đọc của thư viện. Tôi viết thẳng vào một cuốn sổ tay, ngòi bút cứ như tự động lia đi. Liền một mạch 3 ngày. Những trang cuối, tôi vừa dịch vừa khóc. Dịch xong, đọc lại, hầu như không sửa một đoạn nào. Lúc ấy, tôi không nghĩ đến việc đưa xuất bản, mà chỉ làm như để giải toả một kìm nén. Sau này, khi nhà xuất bản đề nghị in, tôi cứ đưa nguyên cuốn sổ tay cho đánh máy lại. Cho tới nay, bản dịch đã được tái bản có lẽ không dưới 10 lần, theo nhiều dạng khác nhau: In riêng, gộp cùng một, hai truyện khác. in với hình ảnh minh hoạ trích từ phim dựng theo truyện, tuyển tập...Cho tới nay, trong số gần 60 tác phẩm dịch “Bức Thư Của Người Đàn Bà Không Quen" vẫn là một trong những bản dịch tôi hài lòng nhất.   Mời các bạn đón đọc Bức Thư Của Người Đàn Bà Không Quen của tác giả Stefan Zweig.
Bão đồng - Cao Năm
Nhà văn Cao Năm đã sáng tác hàng chục truyện ngắn, phần nhiều về nông thôn; cùng thời gian này, anh lặng lẽ đặt bút viết tiểu thuyết. Đeo đuổi suốt 25 năm qua, cuối cùng một cuốn tiểu thuyết dầy dặn của Cao Năm cũng đã ra mắt bạn đọc với nhan đề tập truyện "Bão Đồng". Đọc truyện bạn đọc sẽ được dẫn dắt đến những miền cảm xúc mới mẻ, lạ kỳ những thân thương.  Ý tưởng nghệ thuật nảy ra từ một cơn gió lốc dữ dội không kém một trận bão mạnh tràn qua một vùng thôn quê rộng lớn, gây nhiêu thiệt hại. Nhưng chính cơn lốc kinh hoàng ấy đã lật tẩy tất cả những gì từng được coi là tốt đẹp mà bấy lâu được sơn phết bằng những từ ngữ mĩ miều, trong những bản báo cáo dài thượt luôn luôn khẳng định thành tích năm sau bao giờ cũng cao hơn năm trước. Ẩn sau những gì màu mè hoa mĩ ấy là không ít chuyện xấu xa, trụy lạc, tha hoá, biến chất, và đi liền với nó là những thói hư, tật xấu, lợi dụng chức quyền, cấp đất sai nguyên tắc nhằm chiếm dụng đất công... Viết tiểu thuyết "Bão đồng", nhà văn Cao Năm không chỉ phê phán kịch liệt những mặt xấu xa, thói hư tật xấu ở một bộ phận cán bộ, đảng viên - những người đang giữ chức vụ chủ chốt ở xã, ở huyện - mà quan trọng hơn, còn giúp bạn đọc thấy được nhiều người dân, nhiều cán bộ, đảng viên tốt ở nông thôn, như bố con cụ Mải, anh Cải, cô Dậm, anh Túc,... một lòng một dạ gắn bó với tập thể, với cộng đồng làng xã, đêm ngày lo làm sao cho mọi người có bát ăn bát để, quên đi quyền lợi, và cả danh dự cá nhân, để bảo tồn sự trong sạch, uy tín của tổ chức Đảng ở địa phương. Đúng là trong gian nan mới thấy người ngay kẻ gian, người hiền kẻ hèn, còn bình thường cũng khó mà biết người tốt, kẻ xấu.  Truyện khắc hoạ được những nhân vật góc cạnh và đầy tính biến hoá, hiểu theo cả nghĩa tích cực và tiêu cực, với một chuỗi tình huống bất ngờ, đan xen, mà nhiều chỗ đã nâng lên thành kịch tính. Tỉ như chuyện tấm ảnh của liệt sĩ Bao - hi sinh ở chiến trường năm 1968 - được ông Thàng ở Bắc Cạn cất giữ. Sau cơn bão, Bính - con trai ông Bao - cùng Điền và Liểu được xã cử đi mua sắn về cứu đói cho dân, lại tình cờ nhìn thấy ảnh bố mình trên ban thờ nhà ông Thàng, rồi xin mang ảnh bố mình về... Hoặc tình huống Cải đến nhà vợ chồng Thuật. Thuật hiện là chủ tịch xã, được người em rể là chủ tịch huyện che đỡ, đã lấy hàng nghìn mét vuông đất công lập sinh phần gia tộc. Lợi dụng lúc giáp hạt đói kém, hắn mượn xã viên đào đất vượt sinh phần không phải trả công. Cải vốn là tình địch của Thuật. Hồi Thuật đi chiến trường, đơn vị pháo cao xạ của Cải về lập trận địa ở xã. *** Điền và Cải len vào được một chỗ thuận lợi thì đứng như chôn chân ở đó, nhìn dán mắt vào mấy người đàn ông cởi trần, chỉ mặc mỗi chiếc quần đùi màu nâu thẫm, ngang lưng thắt mảnh vải hồng điều. Hai anh em len vào được một chỗ mãi phía vòng trong, thế mà không biết có phải do cái áo sơ mi trắng cộc tay rất nổi của Điền mách lối, mà Dậm và một cô bạn, cũng người ngoài Phương Lưu, chẳng biết bằng cách nào cũng chen vào được gần, đứng đằng sau. Rồi cũng chẳng biết bằng cách nào, hay có con mắt để sau gáy, Điền bỗng nhiên thấy nhồn nhột phía sau, liền quay lại, nhận ngay ra Dậm. Em cũng vào mãi trong này xem à? Đi với ai thế? Điền nhìn Dậm nhỏ nhẹ hỏi. Dậm đánh mắt nhìn Điền, giọng mềm đi, định bảo vào mãi trong này xem mới gặp được anh chứ, hỏi thế mà cũng hỏi. Lại thao thiết nói, không vào mãi trong này xem thì còn xem ở đâu. Rồi hai tay như đẩy vai cô bạn về phía Điền, hỏi, anh không nhận ra chị Lư à. Điền nhìn lại một thoáng, nói thác, tối trời, nhìn mãi không nhận ra ai. Cải nghe tiếng người nói lào thào phía sau lưng, quay lại, nhưng tối trời, không nhận ra cô Đội trưởng Phương Lưu. Vả lại, Cải nghe tiếng người nói lào thào phía sau lưng thì quay lại theo cảm tính, chứ thực, còn mải để tâm theo dõi hai người đàn ông đang tay năm tay mười nhào lặn đất, vo tròn thành bánh pháo to bằng cái mâm. Khi hai người đàn ông nhào lặn xong đống đất, vo tròn thành bánh pháo bằng cái mâm, thì thình lình Cải nghe ba tiếng trống "thùng, thùng, thùng" như ba tiếng súng thần công khai hoả cất lên vang trời dậy đất. Bỗng tất cả mọi người trên sân như nín thở, hàng trăm cặp mắt đổ dồn về chỗ hai người đàn ông ngang lưng thắt dải hồng điều, đang lấy hết sức gượng nhẹ hai tay bốc bánh pháo đất lên khỏi mặt sân, nâng lên ngang người, đẩy lên ngang đầu, rồi dồn hết sức lực giơ thẳng hai tay bê bánh pháo cho cao lên, cao nữa, cao mãi. Cao nữa, cao mãi đến hết cỡ tay, hai người đàn ông bất ngờ tung mạnh bánh pháo lên không trung. Trong tích tắc, một tiếng nổ dễ ngang tiếng sấm đánh bùng một phát, làm hàng trăm người trên sân như cũng bùng cả lên. Sau tiếng nổ là một vành pháo đất văng ra như con trăn nằm cuộn trên sân, rồi tiếng người hò reo, tiếng trống thúc bật lên vang dậy, tưởng vỡ vụn cái sân gạch rộng đến mấy sào. Giữa tiếng reo hò của người xem, hai người trong ban tổ chức cầm thước dây chạy đến chỗ bánh pháo vừa văng xuống, chăm chú, cẩn trọng đo từng vết nứt, chỗ gấp, khoảng văng xa của pháo. Cũng giống như nhảy cao, chạy xa trong điền kinh, luật chơi pháo đất lấy độ văng xa của vành bánh pháo làm kết quả cuối cùng để đánh giá tài nghệ của người chủ pháo. Hết đợt pháo của hai người đàn ông thắt dải hồng điều, đến lượt hai người đàn ông cũng chỉ mặc chiếc quần đùi nâu, nhưng ngang lưng thắt dải vải xanh màu lá mạ, như để phân biệt với hai người thắt vải hồng điều ban nãy. ... Mời các bạn đón đọc Bão đồng của tác giả Cao Năm.
Mặt Trận Phía Sau - Nguyễn Thế Duyên
Đường càng ngày càng bớt dốc. Những cánh rừng gỗ tạp rậm rì chằng chịt những dây leo thưa dần ra, cuối cùng nhường chỗ cho những cánh rừng khọoc bạt ngàn quang đãng mở ra nom thật thích mắt. Những cây khọoc to lớn, lực lưỡng, mùa khô đã trút gần hết lá lao thẳng lên giữa nền trời đầy nắng và gió. Mặt đất bằng lì được trải dưới một lớp lá khô giòn tan như bánh đa mới nướng làm rừng vừa sạch sẽ lại vừa phóng khoáng. Nắng! Ngước nhìn lên chỉ thấy những chiếc lá khọoc cuối cùng đang quắt lại, lay lắt, run rẩy trong những đợt gió dữ dội của cánh Nam. Mới đầu mùa khô mà bầu trời không lấy một gợn mây. Những đám mây đen dày đặc ngự trị bầu trời suốt sáu tháng nay như đã bị mặt trời đốt cháy. Mặt trời không còn rõ nét. Chỉ thấy một vành mờ sáng trắng, lóa lên những vầng lửa hung hãn thiêu đốt mặt đất đã khô cong. Những con suối nhỏ đã cạn hết nước. Lòng suối khô khốc phơi ra những tảng đá trắng mốc lên hơi hầm hập. Họa hoằn lắm mới gặp một vũng nước còn sót lại mà những đám rêu quanh đấy đã bị dẫm nát bởi muôn vàn những dấu chân người, chân thú. Văn đặt ba lô lên một gốc cây đổ men theo dòng suối đến vũng nước. Một đàn bướm đông nghịt, đủ các mầu sắc đang đậu trên những miếng đất ẩm ướt giật mình tung lên. Những cánh bướm quạt nắng chấp chới “ Còn em thương bên tây anh mùa đông Nước khe cạn bướm bay lèn đá Biết lòng anh say miền đất lạ….” Văn chợt nhớ đến bài hát “Trường Sơn đông, Trường sơn tây” Mà anh rất thích. Chính cái cảnh này đây đã làm anh “Say miền đất lạ” và bây giờ anh đã gặp nó rồi. Hồi Văn vào là cuối mùa mưa, mùa măng đã qua. Rừng tre chỉ còn lại những cây măng nhọn hoắt, cao vút. Cô gái giao liên một lần nhìn thấy bữa cơm ăn với canh ruốc lèo tèo vài ngọn rau tàu bay của bọn Văn đã bảo. - Sao các anh không đi lấy măng về mà ăn? - Măng năm ngoái à, Đồng chí? Văn đã lém lỉnh hỏi lại. Tất cả cười ồ. Cô giao liên cũng cười một cách dễ dãi. - Các anh không biết đấy thôi. Đến cuối tháng mười mới hết vụ măng cơ mà. Bọn Văn ngớ người không biết cô gái nói gì. Về sau hỏi lại mới biết ở Trường sơn này măng có ba vụ. Đầu mùa mưa, những chiếc măng mới nhú lên khỏi mặt đất như những chiếc sừng nghé. Muốn ăn, người ta phải đào xuống đất lấy cả củ măng mang về vụ ấy gọi là vụ măng đào. Vào giữa mùa mưa, những ngọn măng đã mọc khá cao, muốn ăn chỉ việc lấy chân đạp gẫy ngọn măng bỏ vào gùi nên gọi là vụ măng đạp. Vụ này là vụ măng chính. Măng vừa nhiều, vừa ngon lại dễ lấy. Còn bây giờ, những ngọn măng đã mọc cao tít tắp, người ta phải rung cây măng cho ngọn rụng xuống mang về ăn. - Mà lấy măng rung các anh nhớ phải lấy mũ cứng đội vào không ngọn măng rơi vào đầu thì khốn. ... Mời các bạn đón đọc Mặt Trận Phía Sau của tác giả Nguyễn Thế Duyên.