Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Hành Trình Về Phương Đông (Nguyên Phong)

Lời mở đầu

Trong cuộc sống vội vã, quay cuồng hiện tại, nhiều người đã mất đi niềm tin. Họ quan niệm rằng sống để thụ hưởng, thoả mãn các nhu cầu vật chất vì chết là hết. Không có Thượng đế hay một quyền năng siêu phàm gì hết. Các đây không lâu, một tờ báo lớn tại Hoa kỳ đã tuyên bố, “Thượng đế đã chết!”

Tác giả bài báo công khai thách đố mọi người đưa ra bằng chứng rằng Thượng đế còn sống. Dĩ nhiên, bài báo đó tạo nên một cuộc bàn cãi rất sôi nổi. Một nhà thiên văn học tại trung tâm nghiên cứu Palomar cũng cho biết, “Tôi đã dùng kính viễn vọng tối tân nhất, có thể quan sát các tinh tú xa trái đất hàng triệu năm ánh sáng mà nào có thấy thiên đường hay thượng đế cư ngụ nơi nào?” Sự ngông cuồng của khoa học thực nghiệm càng ngày càng đi đến chỗ quá trớn, thách đố tất cả mọi sự. Tuy nhiên, trong lúc khoa học đang tự hào có thể chứng minh, giải thích tất cả mọi sự, thì một sự kiện xảy ra:

Một phái đoàn ngoại giao do Tiểu vương Ranjit Singh cầm đầu sang thăm viếng nước Anh. Trong buổi viếng thăm đại học Oxford, vua Ranjit đã sai một đạo sĩ biểu diễn. Vị đạo sĩ này đã làm đảo lộn quan niệm khoa học lúc bấy giờ. Không những ông ta có thể uống tất cả mọi chất hoá học, kể cả những chất cường toan cực mạnh mà không hề hấn gì, ông ta còn nhịn thở hàng giờ đồng hồ dưới đáy một hồ nước. Sau khi để một phái đoàn y sĩ do bác sĩ Sir Claude Wade khám nghiệm, ông ta còn chui vào một quan tài để bị chôn sống trong suốt 48 ngày. Khi được đào lên, ông ta vẫn sống như thường. Đạo sĩ còn biểu diễn nhiều việc lạ lùng, dưới sự kiểm chứng nghiêm khắc của các khoa học gia. Điều này gây sôi nổi dư luận lúc đó. Hội Khoa Học Hoàng Gia đã phải triệu tập một uỷ ban để điều tra những hiện tượng này. Một phái đoàn gồm nhiều khoa học gia tên tuổi được chỉ thị sang Ấn độ quan sát, sưu tầm, tường trình và giải thích những sự kiện huyền bí. Phái đoàn khoa học đã đặt ra những tiêu chuẩn rõ rệt để giúp họ quan sát với một tinh thần khoa học tuyệt đối. Không chấp nhận bất cứ một điều gì nếu không có sự giải thích rõ ràng, hợp lý. Để soạn thảo bản tường trình, mỗi khoa học gia trong phái đoàn phải tự mình ghi nhận những điều mắt thấy, tai nghe vào sổ tay cá nhân. Sau đó, tất cả cùng nhau so sánh chi tiết và kiểm chứng cẩn thận. Chỉ khi nào tất cả đều đồng ý thì điều đó mới được ghi nhận vào biên bản chính. Điều này đặt ra để bảo đảm cho sự chính xác, không thành kiến đến mức tối đa. Tất cả những điều gì xảy ra mà không có sự giải thích khoa học, hợp lý đều bị loại bỏ.

Khi ra đi, họ không mấy tin tưởng nhưng khi trở về, họ đều đổi khác. Giáo sư Spalding đã cho biết, “Phương Đông có những chân lý quan trọng đáng để cho người Tây phương nghiên cứu, học hỏi. Đã đến lúc người Tây phương phải quay về Đông phương để trở về với quê hương tinh thần.” Điều đáng tiếc là sự trở về của phái đoàn đã gặp nhiều chống đối mãnh liệt từ một dư luận quần chúng đầy thành kiến hẹp hòi. Các khoa học gia bị bắt buộc phải từ chức, không được tuyên bố thêm về những điều chứng kiến. Sau đó ít lâu, trưởng phái đoàn, giáo sư Spalding đã cho xuất bản bộ sách, “Life and teachings of Masters of the East” và nó đã gây ra một dư luận hết sức sôi nổi. Người ta vội tìm đến những người trong phái đoàn, thì được biết họ đã rời bỏ Âu châu để sống đời tu sĩ trong dãy tuyết sơn. Tuy thế, ảnh hưởng cuốn sách này đã tạo hứng khởi cho nhiều người khác trở qua Ấn độ để kiểm chứng những điều ghi nhận của phái đoàn. Thiên ký sự của Sir Walter Blake đăng trên tờ London Scientific cũng như loạt điều tra của ký giả Paul Bruton, Max Muller đã vén lên tấm màn huyền bí của Đông phương và xác nhận giá trị cuộc nghiên cứu này. Tìm mua: Hành Trình Về Phương Đông TiKi Lazada Shopee

Ấn độ là xứ có rất nhiều tôn giáo. Tôn giáo gắn liền với đời sống và trở nên một động lực rất mạnh làm chủ mọi sinh hoạt người dân xứ này. Người Ấn thường tự hào rằng văn hoá của họ là một thứ văn minh tôn giáo và dân xứ này được thừa hưởng một kho tàng minh triết thiêng liêng không đâu có. Vì thế Hội Khoa Học Hoàng Gia đã bảo trợ cho phái đoàn đến Ấn độ để nghiên cứu những hiện tượng huyền bí này.

Tuy nhiên, sau hai năm du hành khắp Ấn độ từ Bombay đến Calcutta, thăm viếng hàng trăm đền đài, tiếp xúc với hàng ngàn giáo sĩ, đạo sĩ nổi tiếng, phái đoàn vẫn không thoả mãn hay học hỏi điều gì mới lạ. Phần lớn các giáo sĩ chỉ lập đi lập lại những điều đã ghi chép trong kinh điển, thêm thắt vào đó những mê tín dị đoan, thần thánh hoá huyền thoại để đề cao văn hoá xứ họ.

Đa số tu sĩ đều khoe khoang các địa vị, chức tước họ đã đạt. Vì không có một tiêu chuẩn nào để xác định các đạo quả, ai cũng xưng là hiền triết (Rishi), sư tổ (Guru), hay đại đức (Swami), thậm chí có người xưng là thánh nhân giáng thế (Bhagwan). Ấn độ giáo (Hinduism) không có một chương trình đào tạo tu sĩ như Thiên chúa giáo, bất cứ ai cũng có thể vỗ ngực xưng danh, ai cũng là tu sĩ được nếu y cạo đầu, mặc áo tu hành, xưng danh tước, địa vị để lôi cuốn tín đồ. Ấn giáo không phải một tôn giáo thuần nhất, mà có hàng ngàn tông phái khác nhau, mỗi tông phái lại chia làm nhiều hệ phái độc lập chứ không hề có một tổ chức hàng dọc như các tôn giáo Âu châu. Các giáo sĩ mạnh ai nấy giải thích kinh điển theo sự hiểu biết của họ. Phần lớn cố tình giảng dạy những điều có lợi cho họ nhất, ngoài ra họ còn tụ họp để phong chức tước lẫn nhau hay chống đối một nhóm khác. Sự tranh luận tôn giáo là điều xảy ra rất thường, nhóm nào cũng tự nhận họ mới là chính thống, mới là đúng với giáo lý của thượng đế. Do đó, cuộc nghiên cứu tôn giáo của phái đoàn không mang lại một kết quả mong ước, nhiều lúc mọi người thấy lạc lõng, rồi rắm không biết đâu là đúng, là sai. Hội Khoa Học

Hoàng Gia chỉ thị việc nghiên cứu phải đặt căn bản trên nền tảng khoa học, hợp lý nhưng lấy tiêu chuẩn này áp dụng sẽ gặp nhiều trở ngại vì văn hoá Ấn độ và Âu châu khác hẳn nhau. Người dân xứ này chấp nhận các tông phái như một điều hiển nhiên, không ai chất vấn khả năng các giáo sĩ hay suy xét xem lời tuyên bố của họ có hợp lý hay không? Họ sùng tín một cách nhiệt thành, một cách vô cùng chịu đựng.

Thất vọng về cuộc du khảo không mang lại kết quả như ý muốn, giáo sư Spalding một mình lang thang đi dạo trong thành Benares. Giữa rừng người hỗn tạp ồn ào, một thuật sĩ cởi trần đang phùng má thổi kèn gọi rắn. Một con rắn hổ to lớn nằm trong sọt ngửng cổ lên cao, phun phì phì. Tiếng kèn lên bỗng xuống trầm, con rắn cũng lắc lư, nghiêng ngã. Đám đông xúm lại xì xầm coi bộ khâm phục lắm. Nếu họ hiểu con rắn đã bị bẻ răng, nuôi bằng bả á phiện và được luyện tập cẩn thận… Khắp xứ ấn, các trò bịp bợm này diễn ra không biết bao nhiêu lần trong ngày, nó sẽ kết thúc khi một vài tên “cò mồi” đứng trong đám đông vỗ tay, ném tiền vào rổ, và khuyến khích dân chúng ném theo… Đang mãi mê suy nghĩ, Spalding bỗng thấy một người Ấn to lớn, phong độ khác thường chăm chú nhìn ông mỉm cười. Người Ấn lễ phép cúi đầu chào bằng một thứ tiếng Anh hết sức đúng giọng, ông cũng đáp lễ lại. Câu chuyện dần dần trở nên thân mật, Spalding bèn lên tiếng hỏi người bạn mới quen nghĩ sao về những trò bịp bợm này. Người Ấn trả lời:

- Các vị minh sư đâu có cư ngụ trong đền thờ lộng lẫy, họ đâu in danh thiếp với các chức tước, địa vị to lớn, trọng vọng. Họ đâu cần phải quảng cáo các quyền năng, đạo quả hoặc in tên trong điện thoại niên giám. Một vị minh sư không nhất thiết phải có đông đệ tử, muốn tìm gặp họ phải biết phân biệt.

Các đạo sĩ mà ông đã gặp, sở dĩ nổi tiếng có đông giáo đồ vì họ biết thu tập đệ tử qua các hình thức quảng cáo, biết hứa hẹn những điều giáo đồ muốn nghe, họ chả dạy điều gì ngoài một số “từ chương” trong kinh sách. Điều này một người thông minh có thể tự đọc sách, nghiên cứu lấy. Phải chăng ông thất vọng vì các đạo sĩ ông đã gặp chưa từng có các kinh nghiệm tâm linh?”

Giáo sư Spalding ngạc nhiên:

- Tại sao ông biết rõ như thế?

Người Ấn mỉm cười:

- Các ông đã bàn cãi với nhau rằng cuối tháng này, nếu không thu thập thêm điều gì mới lạ, phái đoàn sẽ trở về Âu châu và kết luận rằng Á châu chả có điều gì đáng học hỏi. Giai thoại về các bậc hiền triết, thánh nhân chỉ là những huyền thoại để tô điểm cho vẻ huyền bí Á châu.

Giaó sư Spalding mất bình tĩnh:

- Nhưng tại sao ông lại biết những điều này? Chúng tôi vừa bàn định với nhau như thế, ngay trong phái đoàn còn có nhiều người chưa rõ kia mà?

Người Ấn nở một nụ cười bí mật và thong thả nhấn mạnh:

- Ông bạn thân mến, tư tưởng có một sức mạnh thần giao vượt khỏi thời gian và không gian. Thái độ của ông bạn là lý do mà hôm nay tôi đến đây để chuyển giao một thông điệp ngắn ngủi, chắc hẳn ông bạn rất thuộc thánh kinh, “Hãy gõ cửa, rồi cửa sẽ mở. Hãy tìm rồi sẽ gặp”. Đó là thông điệp của một vị chân sư nhờ tôi chuyển giao.”

Sự kiện người Ấn đứng giữa chợ Benares nhắc đến một câu trong Kinh thánh làm giáo sư Spalding ngây ngất như say vừa tỉnh. Toàn thân ông như rung động bởi một luồng điện cao thế.

Ông lắp bắp:

- Nhưng làm sao chúng tôi biết các ngài ở đâu mà tìm? Chúng tôi đã bỏ ra suốt hai năm trời đi gần hết các đô thi, làng mạc xứ Ấn…

Người Ấn nghiêm nghị trả lời:

- Hãy đến Rishikesh, một thị trấn bao phủ bởi dẫy Hy Mã Lạp Sơn, các ông sẽ gặp những đạo sĩ hoàn toàn khác hẳn những người đã gặp. Những đạo sĩ này chỉ sống trong các túp lều sơ sài, hoặc ngồi thiền trong các động đá. Họ ăn rất ít và chỉ cầu nguyện. Tôn giáo đối với họ cần thiết như hơi thở. Đó mới là những người dành trọn cuộc đời cho sự đi tìm chân lý. Một số người đã thắng đoạt thiên nhiên và chinh phục được các sức mạnh vô hình ẩn tàng trong trời đất… Nếu các ông muốn nghiên cứu về các quyền năng, phép tắc thần thông thì các ông sẽ không thất vọng.

Người Ấn im lặng một lúc và nhìn thẳng vào mặt giáo sư Spalding:

- Nhưng nếu các ông muốn đi xa hơn nữa, để tìm gặp các đấng chấn sư (Rishi) thì các ông còn mất nhiều thời gian nữa…

Giaó sư Spalding thắc mắc:

- Ông vừa dùng danh từ Chân sư, vậy chứ Chân sư (Rishi) và đạo sĩ (Yogi) khác nhau thế nào?

- Nếu ông tin ở thuyết tiến hoá của Darwin, thì tôi xin tóm tắt: “sự tiến hoá của linh hồn đi song đôi với thể xác. Chân sư là một người đã tiến rất xa trên mức thang tiến hoá; trong khi đạo sĩ chỉ mới bắt đầu…”

- Như thế thì các vị chân sư có thể làm các phép lạ được chứ?

Người Ấn mỉm cười khẽ lắc đầu:

- Chắc chắn như thế, nhưng phép thuật thần thông đâu phải mục đích tối hậu của con đường đạo. Nó chỉ là kết quả tự nhiên do sự tập trung tư tưởng và ý chí. Đối với các bậc chân sư, sử dụng phép thuật là điều ít khi nào các ngài phải làm. Mục đích của con đường đạo là Gỉai Thoát, là trở nên toàn thiện như những đấng cao cả mà đức Jesus là một.

Giáo sư Spalding cãi:

- Nhưng chúa Jesus đã từng làm các phép lạ.

Người Ấn bật cười trả lời:

- Ông bạn thân mến, bạn nghĩ rằng chúa Jesus làm vậy vào mục đích khoe khoang hay sao? Không bao giờ, đó chỉ là những phương tiện để cảm hoá những người dân hiền lành, chất phác và đem lại cho họ một đức tin mà thôi.

Một lần nữa, người Ấn lạ lùng này lại nói về một đấng giáo chủ mà hầu như mọi người Tây phương đều biết đến. Giáo sư Spalding suy nghĩ và hỏi:

- Thế tại sao các đấng Chân sư không xuất hiện dạy dỗ quần chúng?

Người Ấn nghiêm nghị:

- Ông nghĩ rằng các ngài sẽ tuyên bố cho người đời biết mình là ai chăng?

Nếu đức Phật hay đấng “Christ” hiện ra tuyên bố các giáo điều, liệu ông có chịu tin không? Có lẽ các ngài phải biểu diễn các phép thần thông như đi trên mặt nước hay biến ra hàng ngàn ổ bánh mì cho dân chúng thì các ông mới tin sao? Điều này chắc rồi cũng sẽ có một số đạo sĩ Hắc đạo biễu diễn để lôi cuốn tín đồ nhưng các đấng cao cả đâu có làm thế phải không ông bạn?

- Nhưng….nhưng các ngài sống ẩn dật như thế có lợi gì cho thế gian đâu?

Người Ấn mỉm cười:

- Vì không biết rõ các ngài nên thế gian không thể xét đoán các ngài một cách đứng đắn. Ai bảo rằng các ngài không giúp ích gì cho nhân loại? Nếu tôi quả quyết rằng đấng “Christ” vẫn thường xuất hiện và vẫn giúp đỡ nhân loại không ngừng thì ông có tin không? Có lẽ ông sẽ đòi hỏi một bằng chứng, một hình ảnh hoặc một cái gì có thể chứng minh được. Bạn thân mến, những tư tưởng sâu xa của các đấng cao cả không dễ gì chúng ta hiểu thấu.

Có lẽ câu trả lời giản dị nhất là các ngài phụng sự thế gian một cách âm thầm, lặng lẽ bằng cách phóng ra các tư tưởng yêu thương, bác ái, tốt lành mà sức mạnh có thể vượt thời gian và không gian. Tuy mắt ta không trông thấy nhưng hiệu lực của nó vô cùng mạnh mẽ. Khi xưa, nhân loại còn ấu trĩ nên các ngài đã xuất hiện để đặt một nền móng, căn bản, hướng dẫn loài người. Đến nay, nhân loại đã ít nhiều trưởng thành và phải tự lập, sử dụng khả năng của mình, chịu trách nhiệm về những việc họ làm.

Giáo sư Spalding suy nghĩ và hỏi:

- Lúc nãy bạn nói rằng có một vị chân sư nhờ bạn chuyển giao một thông điệp cho chúng tôi. Bạn có thể cho tôi biết địa chỉ của ngài được không?

- Bạn thân mến, tất cả đều do Nhân Duyên, đến khi nào đủ duyên bạn sẽ gặp các ngài.

Nói xong, người Ấn độ cúi đầu chào và biến mất trong đám người đông đúc, ồn ào giữa ngôi chợ thành phố BenaresDưới đây là những tác phẩm đã xuất bản của tác giả "Nguyên Phong":Bên Rặng Tuyết SơnĐường Mây Qua Xứ TuyếtHoa Trôi Trên Sóng NướcMinh Triết Trong Đời SốngNgọc Sáng Trong Hoa SenHành Trình Về Phương ĐôngTrở Về Từ Cõi SángTử Thư Tây TạngMuôn Kiếp Nhân Sinh - Tập 1Dấu Chân Trên CátHoa Sen Trên TuyếtMột Làn Gió Tinh KhôiMuôn Kiếp Nhân Sinh - Tập 2Muôn Kiếp Nhân Sinh - Tập 3

Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Hành Trình Về Phương Đông PDF của tác giả Nguyên Phong nếu chưa có điều kiện.

Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.

Nguồn: thuviensach.vn

Đọc Sách

Ám Ảnh Từ Kiếp Trước (Brian L. Weiss)
Lời nói đầu ôi biết rằng mọi chuyện đều có lý do. Có lẽ tại thời điểm một sự kiện nào đó xảy ra, chúng ta chưa có được sự thấu hiểu cũng như khả năng nhìn xa trông rộng để hiểu hết lý do đó, nhưng theo thời gian và lòng kiên nhẫn, mọi chuyện sẽ trở nên sáng rõ. Đó là trường hợp của Catherine. Tôi gặp cô ấy lần đầu tiên vào năm 1980 khi cô 27 tuổi. Cô đến văn phòng của tôi để chữa trị chứng hồi hộp, những cơn hoảng hốt và chứng khiếp sợ. Dù những triệu chứng này cô đã có từ nhỏ nhưng gần đây chúng trở nên tệ hại hơn hẳn. Mỗi ngày cô càng cảm thấy tê liệt hơn và khó khăn hơn về cảm xúc. Cô bị khủng hoảng và trầm cảm rõ rệt. Trái ngược với sự hỗn độn đã xảy ra trong đời cô ấy vào lúc đó, cuộc đời tôi trôi qua êm đềm. Tôi có một cuộc hôn nhân tốt đẹp và bền vững, có hai con nhỏ và một sự nghiệp đang trên đà thăng tiến. Từ lúc khởi đầu, cuộc đời tôi dường như luôn thuận buồm xuôi gió. Tôi sinh trưởng trong một gia đình tràn đầy tình yêu thương. Tìm mua: Ám Ảnh Từ Kiếp Trước TiKi Lazada Shopee Thành công về học thuật đến dễ dàng và vào năm thứ hai đại học, tôi quyết định trở thành bác sỹ tâm thần. Tôi tốt nghiệp hạng ưu, là thành viên của Phi Beta Kappa(1), trường đại học Columbia, New York vào năm 1966. Sau đó tôi đã vào trường y khoa của đại học Yale và nhận bằng tiến sỹ y khoa vào năm 1970. Tham dự chương trình nội trú tại Trung tâm Y khoa Bellevue, đại học New York, tôi quay lại Yale để hoàn tất chương trình nội trú ngành tâm thần học của mình. Hoàn thành chương trình, tôi được nhận vào đội ngũ giảng viên của đại học Pittsburgh. Hai năm sau, tôi gia nhập đội ngũ giảng viên đại học Miami, lãnh đạo khoa Dược học tâm thần (Psychopharmacology). Ở đó tôi đã gặt hái những thành quả mang tầm vóc quốc gia trong các lĩnh vực tâm thần sinh học và lạm dụng chất gây nghiện. Sau bốn năm ở đại học ́ ̀ này, tôi được thăng tiến vào vị trí trợ lý giáo sư tâm thần học của trường y và được bổ nhiệm làm lãnh đạo khoa tâm thần tại một bệnh viện lớn thuộc trường đại học ở Miami. Vào lúc đó, tôi đã xuất bản được 37 công trình khoa học và các chương sách trong lĩnh vực của mình. Nhiều năm nghiên cứu nghiêm ngặt đã rèn luyện cho trí óc của tôi suy nghĩ như một nhà khoa học và bác sỹ trị liệu, hun đúc tôi theo những quỹ đạo hẹp của chủ nghĩa bảo thủ trong nghề nghiệp của mình. Tôi ngờ vực bất kỳ thứ gì không thể chứng minh được bằng những phương pháp khoa học truyền thống. Tôi có biết một vài nghiên cứu trong lĩnh vực cận tâm lý đang được thực hiện tại những trường đại học lớn trên khắp cả nước (Mỹ) nhưng chúng chẳng làm tôi quan tâm. Với tôi, chúng có vẻ gì đó rất khó tin. Rồi tôi gặp Catherine. Trong 18 tháng, tôi đã dùng những biện pháp trị liệu truyền thống để giúp cô khắc phục các triệu chứng của mình. Khi mọi thứ dường như không có tác dụng, tôi đã thử thôi miên. Trong một loạt những trạng thái xuất thần sâu, Catherine nhớ lại những ký ức “kiếp trước” được chứng tỏ là nhân tố gây ra những triệu chứng của cô ấy. Cô còn có thể đảm nhận vai trò là kênh truyền thông tin từ “những bản thể tâm linh” đã tiến hóa cao và qua họ, cô ấy tiết lộ nhiều bí mật của sự sống và cái chết. Chỉ trong vài tháng ngắn ngủi, những triệu chứng của cô biến mất và cô tìm lại được cuộc sống của mình, hạnh phúc hơn và an lành chưa từng có. Nền tảng tri thức của tôi hoàn toàn không được chuẩn bị gì cho điều này. Tôi vô cùng sửng sốt khi những sự kiện này hiển lộ. Tôi không có được bất kỳ sự giải thích khoa học nào cho những gì đã xảy ra. Có quá nhiều điều về trí óc con người vượt xa sự hiểu biết của chúng ta. Có lẽ, khi bị thôi miên, Catherine có khả năng tập trung vào phần tiềm thức lưu trữ những ký ức thật sự của kiếp trước, hay có thể cô ấy kết nối được tới cái mà nhà phân tâm học Carl Jung gọi bằng thuật ngữ “vô thức tập thể” - nguồn năng lượng bao quanh chúng ta và chứa đựng ký ức của toàn bộ loài người. ́ Các nhà khoa học đang tìm kiếm những câu trả lời. Chúng ta, trong vị thế của một xã hội, sẽ hưởng lợi rất nhiều nhờ những nghiên cứu về những bí ẩn của trí não, tâm hồn, sự tiếp diễn của sự sống sau khi chết và ảnh hưởng của những trải nghiệm trong kiếp trước lên hành vi trong cuộc đời hiện tại. Rõ ràng, sự phân nhánh là vô hạn, đặc biệt là trong lĩnh vực y khoa, tâm thần, thần học và triết học. Tuy nhiên, việc nghiên cứu nghiêm ngặt về mặt khoa học trong lĩnh vực này vẫn còn ở giai đoạn non trẻ. Chúng ta đang đạt được những tiến triển trong việc khám phá thông tin, nhưng tiến bộ chậm chạp và vấp phải nhiều sự chống đối của các nhà khoa học và những người thiếu chuyên môn. Lịch sử cho thấy con người từng chống lại sự thay đổi cũng như chấp nhận những ý tưởng mới. Toàn bộ tri thức và truyền thuyết lịch sử đầy rẫy những dẫn chứng điển hình. Khi Galileo khám phá ra những mặt trăng của sao Mộc, các nhà thiên văn thời đó đã không chấp nhận hay thậm chí còn không nhìn vào những vệ tinh này vì sự tồn tại của chúng mâu thuẫn với tín điều mà họ tin tưởng. Và giờ đây, điều đó lại xảy ra với những nhà tâm thần học và bác sỹ trị liệu khác, họ từ chối xem xét và đánh giá những chứng cứ rõ ràng đang được thu thập về những trường hợp sống lại sau khi thể xác chết đi và những ký ức về kiếp trước. Đôi mắt họ vẫn nhắm tịt. Cuốn sách này là đóng góp nhỏ nhoi của tôi vào những nghiên cứu vẫn đang được tiến hành trong lĩnh vực cận tâm lý, đặc biệt là ngành liên quan đến những trải nghiệm của chúng ta trước khi sinh và sau khi chết. Từng từ mà bạn sẽ đọc là sự thật. Tôi không thêm vào bất kỳ điều gì và chỉ xóa đi những phần bị trùng lặp. Tôi cũng đã thay đổi phần nào danh tính của Catherine để bảo vệ sự riêng tư của cô. Tôi mất bốn năm để viết về những gì đã xảy ra, bốn năm thu góp lòng can đảm để có thể đối mặt với nguy cơ nghề nghiệp khi tiết lộ thông tin không chính thống này. ́ ́ Thình lình một đêm nọ trong khi đang tắm, tôi cảm thấy một nỗi bức bách phải viết những trải nghiệm này ra giấy. Tôi cảm nhận sâu sắc rằng đây là thời điểm thích hợp và tôi không thể giữ kín thông tin này lâu hơn nữa. Tri thức đã truyền qua Catherine và giờ là truyền qua tôi. Tôi biết rằng việc không chia sẻ tri thức mà mình đã nhận được về sự bất tử và ý nghĩa thật sự của cuộc sống có tầm mức hủy hoại lớn hơn bất cứ hậu quả nào bản thân có thể phải đối mặt. Tôi vội vàng tắm xong và ngồi vào bàn làm việc với chồng băng ghi âm đã thực hiện trong những phiên trị liệu với Catherine. Trong những giờ phút tinh mơ buổi sáng hôm đó, tôi nghĩ đến người ông gốc Hung già nua đã mất khi tôi vẫn còn niên thiếu. Bất cứ lúc nào tôi nói với ông rằng mình sợ phải mạo hiểm, ông cũng trìu mến khích lệ tôi bằng cách nhắc lại thành ngữ tiếng Anh yêu thích của mình: “Sợ quái rì chứ” (2), ừ ông sẽ nói, “sợ quái rì chứ”.Dưới đây là những tác phẩm đã xuất bản của tác giả "Brian L. Weiss":Ám Ảnh Từ Kiếp TrướcChuyện Tình Qua Nhiều Kiếp Luân HồiLời Ngỏ Từ Cõi Tâm LinhMột Linh Hồn Nhiều Thể XácTiền Kiếp Và Luân Hồi Có Thật KhôngKiếp Nào Ta Cũng Tìm Thấy NhauĐộc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Ám Ảnh Từ Kiếp Trước PDF của tác giả Brian L. Weiss nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Trong Vòng Tay Sambala (Erono Mundasep)
Những kim tự tháp đầu tiên của Thành Thiên Đế Anh bạn tôi Xécgây Anatôlêvích Xêlivêtốp cặm cụi xếp hành lý lên lưng con bò rừng Tây Tạng. - Mong sao đẹp trời, chỉ cần thời tiết tốt là được, - tôi lẩm bẩm trong lúc xếp ba lô lên lưng các con bò thuê của dân địa phương để chuẩn bị một chuyến du hành vào sâu trong dãy núi Tây Tạng, khu vực núi Thiêng Cailát. Chúng tôi được khuyên mang thật nhẹ vì sẽ phải đi bộ trên cao 5000- 6000 mét mà ở độ cao như vậy mang vác nặng chỉ làm giảm tốc độ di chuyển. Con bò rừng Tây Tạng, theo như người Tây Tạng khẳng định, không những chỉ có thể mang vác nặng mà còn di chuyển dễ dàng trên lớp đá lởm chởm và thậm chí trèo lên những vách đá dốc thoai thoải. - Xong! Dỡ hàng xuống! Đừng quên ba lô nào buộc với nhau để hành lý không ngả sang một bên lưng bò, - người dẫn đường có tên là Tìm mua: Trong Vòng Tay Sambala TiKi Lazada Shopee Tatu nói. - Ngày mai chúng ta phải xuất phát rất sớm, tờ mờ sáng là phải lên đường rồi. Trời còn tối và phải xếp đồ lên lưng bò. Sáu giờ sáng là lũ bò đã được xua đến đây. Tôi ngẩng đầu và lại nhìn lên những đám mây đen bao phủ khu vực có Cailát thiêng. - Ôi! - tôi bực mình thốt ra. - Mới chiều hôm qua Cailát còn hiện ra rõ thế mà hôm nay đã bị mây mù bao phủ. Nhẽ nào trời xấu? Nếu trời xấu thì chúng tôi sẽ không nhìn thấy gì hết! Không gì hết! Chúng tôi sẽ không nhìn thấy Thành Thiên Đế, nó phải là nơi đây, Cailát. Khi đó chuyến đi khảo sát sẽ trở nên vô ích! Ôi! Đầu óc tràn ngập những ý nghĩ đó không nhìn thây tôi ngồi xuống mô đất và nhìn về kim tự tháp phía Cailát. Tay cầm tấm bản đồ, nhờ đó tôi có thể xác định chính xác vị trí của Cailát đang bị mây che khuât. Sau đó tôi đảo mắt xung quanh và bỗng dừng lại ở nơi có quả núi khác thường, hình thù không cân đối ở phía tây Cailát. Tôi chăm chú ngắm nhìn. Tim tôi đập rộn ràng. - Đấy đâu phải quả núi! Đây là kim tự tháp! - tôi thốt ra thành lời với bản thân mình, bật dậy vì hứng khởi. Tay run run tôi cầm lấy chiếc máy ảnh, kéo ống kính tối đa và chụp vài quả núi có hình kim tự tháp. Sau đó tôi rút trong túi dết ra quyển vở và vẽ quả núi hình tam giác đó, nó hiện rõ mồn một trên nền dãy núi thấp thoai thoải.Dưới đây là những tác phẩm đã xuất bản của tác giả "Erono Mundasep":Bức Thông Điệp Bi Thảm Của Cổ NhânHoàng Kim Bản HarachiChúng Ta Thoát Thai Từ ĐâuTrong Vòng Tay SambalaĐộc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Trong Vòng Tay Sambala PDF của tác giả Erono Mundasep nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Chúng Ta Thoát Thai Từ Đâu (Erono Mundasep)
Giới thiệu tác giả E-Rơ-Nơ Mun-Đa-Sép là tiến sĩ y học, giáo sư, Giáo đốc trung tâm phẫu thuật mắt và tạo hình Liên Bang Nga của Bộ Y tế Nga, thầy thuốc Công Huân, huy chương “Vì những cống hiến cho ngành y tế nước nhà”, nhà phẫu thuật thượng hạng, nhà tư vấn danh dự của Đại học Tổng Hợp Lu-In-Svin (Mỹ), viện sĩ Viện Hàn Lâm nhãn khoa Mỹ, bác sĩ nhãn khoa có bằng của Mê-hi-cô, kiện tướng môn du lịch thể thao, ba lần kiện tướng Liên Bang Cộng Hòa Xã Hội chủ nghĩa Xô Viết. E-Rơ-Nơ Mun-Đa-Sép là nhà bác học lớn có tên tuổi trên trường quốc tế… Ông là người khai sáng phương hướng mới trong y học - phẫu thuật tái sinh (tức phẫu thuật “cấy ghép” mô người). Ông là người đầu tiên trên thế giới tiến hành phẫu thuật cấy ghép mắt thành công. Hiện nay ông đang nghiên cứu những cơ sở của phẫu thuật tái sinh hàng loạt các bộ phận cơ thể người. Nhà bác học đã nghiên cứu 90 loại phẫu thuật mới, sáng chế và đưa vào ứng dụng 60 loại nguyên liệu sinh học alloplant, được đăng trên 300 công trình khoa học, nhận 56 bằng sáng chế của Nga và nhiều nước khác trên thế giới. Đi thỉnh giảng và phẫu thuật trên 40 nước. Hàng năm giải phẫu từ 600 đến 800 ca phức tạp nhất. Tìm mua: Chúng Ta Thoát Thai Từ Đâu TiKi Lazada Shopee E-Rơ-Nơ Mun-Đa-Sép thú nhận rằng cho đến giờ ông vẫn chưa hiểu hết thực chất của sáng chế chủ yếu của mình là nguyên liệu sinh học “Allpolant” được chế tạo từ mô người chết mang trong mình nó những cơ cấu tự nhiên cao sâu trong việc sáng tạo cơ thể con người, vì thế trong quá trình nghiên cứu ông không chỉ tiếp xúc với các nhà khoa học thuộc nhiều lĩnh vực (vật lý học, sinh học phân tử, …) mà còn tìm hiểu cơ sở của các tín ngưỡng tôn giáo và huyền học, nghiên cứu năng lượng tâm thần và những vấn đề liên quan đến nguồn gốc loài người và vũ trụDưới đây là những tác phẩm đã xuất bản của tác giả "Erono Mundasep":Bức Thông Điệp Bi Thảm Của Cổ NhânHoàng Kim Bản HarachiChúng Ta Thoát Thai Từ ĐâuTrong Vòng Tay SambalaĐộc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Chúng Ta Thoát Thai Từ Đâu PDF của tác giả Erono Mundasep nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Chúng Ta Thoát Thai Từ Đâu (Erono Mundasep)
Giới thiệu tác giả E-Rơ-Nơ Mun-Đa-Sép là tiến sĩ y học, giáo sư, Giáo đốc trung tâm phẫu thuật mắt và tạo hình Liên Bang Nga của Bộ Y tế Nga, thầy thuốc Công Huân, huy chương “Vì những cống hiến cho ngành y tế nước nhà”, nhà phẫu thuật thượng hạng, nhà tư vấn danh dự của Đại học Tổng Hợp Lu-In-Svin (Mỹ), viện sĩ Viện Hàn Lâm nhãn khoa Mỹ, bác sĩ nhãn khoa có bằng của Mê-hi-cô, kiện tướng môn du lịch thể thao, ba lần kiện tướng Liên Bang Cộng Hòa Xã Hội chủ nghĩa Xô Viết. E-Rơ-Nơ Mun-Đa-Sép là nhà bác học lớn có tên tuổi trên trường quốc tế… Ông là người khai sáng phương hướng mới trong y học - phẫu thuật tái sinh (tức phẫu thuật “cấy ghép” mô người). Ông là người đầu tiên trên thế giới tiến hành phẫu thuật cấy ghép mắt thành công. Hiện nay ông đang nghiên cứu những cơ sở của phẫu thuật tái sinh hàng loạt các bộ phận cơ thể người. Nhà bác học đã nghiên cứu 90 loại phẫu thuật mới, sáng chế và đưa vào ứng dụng 60 loại nguyên liệu sinh học alloplant, được đăng trên 300 công trình khoa học, nhận 56 bằng sáng chế của Nga và nhiều nước khác trên thế giới. Đi thỉnh giảng và phẫu thuật trên 40 nước. Hàng năm giải phẫu từ 600 đến 800 ca phức tạp nhất. Tìm mua: Chúng Ta Thoát Thai Từ Đâu TiKi Lazada Shopee E-Rơ-Nơ Mun-Đa-Sép thú nhận rằng cho đến giờ ông vẫn chưa hiểu hết thực chất của sáng chế chủ yếu của mình là nguyên liệu sinh học “Allpolant” được chế tạo từ mô người chết mang trong mình nó những cơ cấu tự nhiên cao sâu trong việc sáng tạo cơ thể con người, vì thế trong quá trình nghiên cứu ông không chỉ tiếp xúc với các nhà khoa học thuộc nhiều lĩnh vực (vật lý học, sinh học phân tử, …) mà còn tìm hiểu cơ sở của các tín ngưỡng tôn giáo và huyền học, nghiên cứu năng lượng tâm thần và những vấn đề liên quan đến nguồn gốc loài người và vũ trụDưới đây là những tác phẩm đã xuất bản của tác giả "Erono Mundasep":Bức Thông Điệp Bi Thảm Của Cổ NhânHoàng Kim Bản HarachiChúng Ta Thoát Thai Từ ĐâuTrong Vòng Tay SambalaĐộc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Chúng Ta Thoát Thai Từ Đâu PDF của tác giả Erono Mundasep nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.