Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Nắng Đồng Bằng - Chu Lai

Chu Lai là một trong những nhà văn quân đội có tên tuổi trong nền văn học sau 1975. Đã từng một thời khác áo lính, ông rất thành công với đề tài chiến tranh. Và tiểu thuyết là thể loại mà Chu lai đã khẳng định được tài năng và phong cách của mình. Nắng Đồng Bằng là một trong những tác phẩm để đời của nhà văn khi viết về đề tài chiến tranh với câu chuyện và những phận người đầy gai góc. Người lính trong Nắng đồng bằng không chỉ biết có chiến đấu vì lý tưởng, biết đấu tranh, giành giật sự sống trước bom đạn, trước kẻ thù mà cũng có những suy tư, tính toán thiệt hơn... nhưng cuối cùng họ vượt qua tất cả để góp phần làm nên chiến thắng vĩ đại của dân tộc. Chính Chu Lai từng bộc bạch "Cuộc đời có thể xô đẩy người lính, quăng quật người lính nhưng người lính vẫn bật lại để sống xứng đáng với màu xanh áo lính". Có thể nói mỗi trang văn của Chu Lai là một câu chuyện của những cái tận cùng, cố gắng hướng đến cái tận cùng, nỗi khổ niềm vui, hy vọng và tuyệt vọng, can đảm và yếu hèn, tất cả đều được nổi lên một cách đậm nét và hết sức chân thực. Một số tác phẩm của tác giả Chu Lai: Cuộc Đời Dài Lắm Phố Nắng Đồng Bằng Ăn Mày Dĩ Vãng Út Teng Truyện Ngắn Chu Lai Hùng Karô Chỉ Còn Một Lần Khúc Bi Tráng Cuối Cùng Người Im Lặng Nhà Lao Cây Dừa 3 Lần Và 1 Lần Sông Xa Vòng Tròn Bội Bạc Bãi bờ hoang lạnh Gió không thổi từ biển *** Rừng miền Đông không thấy tiết xuân. Sáng ra có gió lạnh se se. Trưa đến, nắng lại bừng lên oi ả. Chiều có cái mát mẻ của thu sang. Và khi đêm xuống thì rét thực sự. Mắc võng giữa rừng đã phải đốt củi sưởi. Nhưng vẫn chưa phải là xuân. Rừng vẫn xanh tươi một màu của cây lá Tịnh không có một ngày mưa dầm rả rích. Xuân về nơi đây chỉ là dấu hiệu chấm dứt những trận mưa dầm và bắt đầu vào mùa khô dằng dặc. Thượng nguồn sông Sài Gòn vẫn chở nặng trong lòng nguồn nước của sáu tháng mưa tích tụ lại. Sông đỏ đắn hồng hào, nhưng hai bên bờ không tìm thấy một vạt phù sa. Gió vẫn mang theo cái vị nồng nồng tanh tanh của dòng sông lắm tôm nhiều cá. Mùa khô này, chiến sự đã giạt về phía dông bằng. Rừng đã yên tĩnh trở lại. Đang vào mùa rừng dầu trút lá. Tàu lá dầu liệng xuống như cánh diều phủ vàng mặt đất. Mỗi khi có con hoẵng chạy qua, thảm lá khô vang động như có ai đang bẻ chiếc bánh đa. Những cây dầu con mới lớn, phiến lá đã to gần bằng lá già rụng xuống. Lá như cái quạt nan che lấp cả thân cây Đang giữa trưa nắng, gặp rừng dầu non, mắt bỗng dịu lại như đang lạc vào một vùng rau xanh trù phú. Hết rừng dầu lại tới rừng cao su. Màu xanh lá dầu chỉ có thể so sánh với màu cao su vừa thay lá. Những cánh rừng cao su thăm thẳm, huyền bí như những cái hang động màu ngọc bích. Sắc lá càng xanh biếc trong màu đất ba dan đỏ tươi. Măng lồ ô đã lớn vượt lên thành những thân non màu hồng mượt mà. Rừng sạch sẽ và thoáng đãng đến nỗi muốn ngả lưng nằm xuống thảm lá ngủ một giấc. Thỉnh thoảng lại gặp một, hố bom dầy ắp nước, trong vắt. Xung quanh bờ mơn mởn những vạt mắc cỡ, rau tàu bay, lá giang chua... Chiều xuống hay những buổi sớm tinh mơ đã nghe tiếng dọc, vượn hú gọi nhau. Rừng yên ổn, chúng kéo nhau trở về từng bầy, chuyền thoăn thoắt trên những ngọn cây cao. Trên con đường đất rộng bò ngoằn ngèo trong rừng, có một đoàn người đang lặng lẽ cất bước. Con đường còn hằn lại những vết bánh xe ô tô trũng sâu, nước đã cạn khô. Nhìn hai bên đường còn vương lại những đoạn phên tre mục nát mới chợt nhớ rằng con đường thồ bùn nước lép nhép năm nào đã chạy qua đây. Đoàn người đi chậm rãi, thong thả qua những cánh rừng già. Cứ trông cách ăn mặc, đồ đoàn trang bị, người ta đoán ngay đó là một đơn vị mới ở vùng sâu lên. Chân họ đi dép mềm, dép lỗ, thảng hoặc mới gặp một đôi dép râu. những ống quần buông chùng vẫn còn những đường ly thẳng băng. Thắt lưng người nào cũng đeo toòng teng một cây đèn pin ngoéo đen bóng. Họ hầu như không có súng, trừ một vài cây tiểu liên cực nhanh và M.79. Đầu họ để trần hoặc đội mũ vải rộng vành. Thoạt trông, đoàn người giống như những chàng trai thành thị hiếu kỳ lên rừng đi săn, nếu như trên nét mặt trầm mặc của họ không có những con mắt ánh lên vẻ khắc khổ, dạn dày. Người đi đầu khoảng gần ba mươi tuổi, dáng người chắc lẳn, khuôn mặt cân đối, đẹp trai, có mái tóc mềm vươn xuống trán. Anh như đang mê mải suy nghĩ điều gì, mắt dõi ra xa nhưng vẫn không giấu được vẻ bồn chồn, sốt ruột. Ở đó, phía đoàn người đang đi tới, đang vẳng đến tiếng rì rầm của một dòng sông. Một chiến si trẻ, to lớn, nước da dỏ hồng, xăm xăm chạy lên đầu: - Sắp tới rồi phải không anh? Người có mái tóc xoã gật đầu. - Cho nghỉ một chút anh nhé! Người ấy cũng chỉ gật đầu không nói, rồi lặng lẽ cầm lấy tay người chiến sĩ trẻ bước gấp lên. Con đường đang ngược lên một dình dốc. Rừng thấp dần xuống. Đột ngột, trước mắt đoàn người hiện ra một khoảng trống trải, bao la. Cái bao la của một khúc sông thượng nguồn. Sau ngày ký kết hiệp định Pa-ri, cuộc chiến đấu ở vùng sâu càng diễn ra gay gắt, ác liệt. Kẻ thù lật lọng điên cuồng phá hoại thành quả Cách mạng. Những người bám đất, bám dân hàng chục năm đang khao khát đón đợi một ngày hoà bình, lại tiếp tục cầm lấy cây súng. Khói lửa lại ngày đêm bao phủ lên khắp các bưng biền, sông rạch. Theo chỉ thị của Bộ, để giữ truyền thống của một đơn vị binh chủng, tiểu đoàn đặc công tập trung trở lại. Các chiến sĩ trinh sát rải rác từ khắp các địa bàn hóc hiểm kéo về. Họ nhìn nhau trào nước mắt. Ngày nào xuống hai trăm người mà bây giờ chỉ còn lại gần ba chục anh em... Linh đã được chỉ thị thay Sáu Hoá làm tiểu đoàn trưởng. Và hôm nay, anh dẫn tiểu đoàn đặc công của mình, sau khi đã hoàn thành nhiệm vụ bám giữ địa bàn, hành quân trở về hậu cứ. Họ sẽ được nghỉ ngơi, bổ sung quân số một thời gian để chuẩn bị nhận nhiệm vụ mới. Linh ngồi trên đỉnh ngọn bằng lăng cao nhất đang nở xòe những cánh hoa màu tím nhạt. Sau lưng anh là dòng sông. Bên cạnh anh là trung đội trưởng Ma Hồ Lang. Hai anh em đang đau đáu nhìn về một vùng nắng xa xa. Dưới ấy là dông bằng. là vùng ven thành phố. Trên cao nhìn xuống, chỉ thấy một màu xanh thoai thoải và một vệt nắng dài lấp loáng như sông. Không hiểu sao. Linh tin chắc rằng đó là dòng sông Sài Gòn. - Anh Linh ơi! Quê chị Năm đó phải không? Mảng sáng phía bên kia sông Sài Gòn đó? - Lang bỗng rối rít hỏi. Linh nhìn theo hướng tay Lang chỉ, không trả lời. Mắt anh mờ đi như có nước. Anh nhớ lại những ngày tháng đã qua với những căn cứ nhỏ bên sông, những dải rừng chồi lá thấp, những trận đánh ban đêm, những khóm lục bình trôi theo tiếng chim bìm bịp kêu...Nhiều đồng đội của anh dã không cùng trở lại hôm nay. Anh nhớ tiếng cười rộng rãi, phóng khoáng của anh Sáu Hoá. Nhớ cả ánh mắt hằn học, lạnh lùng của thằng Kiêu. Kẻ thù vẫn tồn tại dưới đó. Và những người còn ở lại bám trụ địa bàn như Phận, Hải, anh Út "Cò ngẳng", Rổn… đang đón đợi anh trở về. Thế rồi, trên cái vệt dài lấp loáng nắng kia, anh như nhìn thấy Thúy đang mềm mại đưa đẩy mái chèo, tà áo bà ba bay là là mặt nước, một bên mái tóc xõa ra, kín đáo che đi vết sẹo màu hồng nhạt... - Thúy ơi! Anh sẽ trở lại. Nhất định anh sẽ trở lại dòng sông quê hương em! Lúc ấy, sau lưng anh, bên kia sông xuất hiện những toán bộ đội đầu tiên. Trong chốc lát, cả cánh rừng rộn rịch tiếng những bước chân, những chiếc mũ cối trùng điệp nhấp nhô. Họ là những binh đoàn chủ lực đang chuẩn bị vượt sông tiến về đồng bằng... Sông Sài Gòn - Hè 1978 CHU LAI Mời các bạn đón đọc Nắng Đồng Bằng của tác giả Chu Lai.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Đường Về - Erich Maria Remarque
“Tôi muốn mở cửa, đi vào trong phòng, tôi muốn nằm cuộn mình trên chiếc ghế bành, muốn ủ đôi bàn tay trong hơi ấm của gian phòng để hơi ấm ấy lan tỏa khắp người, tôi muốn nói chuyện, muốn mọi bạo tàn, khốc liệt và quá khứ sẽ tan chảy dưới đôi mắt yên lặng của người phụ nữ kia, và muốn bỏ chúng lại phía sau, muốn cởi bỏ chúng như cởi bỏ một bộ quần áo bẩn.” *** Trở về - là khải hoàn sau những năm chiến chinh, là đoàn tụ sau thời gian xa cách, là khoảnh khắc ấm áp của những con người đã tìm lại được nhau… Nhưng cuộc trở về của những người lính Đức sau Thế chiến I lại là hành trình khắc nghiệt của những cánh chim lạc bầy vật lộn giữa bão giông tìm đường quay lại cố hương, là gánh nặng của lửa đạn chiến tranh chết chóc, là hố thẳm ngăn cách giữa hai phần của cuộc đời. Và cả khi vượt qua tất cả để sang tới bến bờ bên kia, họ cũng chưa chắc sẽ tìm được những gì dấu yêu mình từng để lại sau lưng vào cái năm ly biệt. Đây là lần đầu tiên Đường về, tác phẩm được xem như phần hậu của Phía Tây không có gì lạ bởi sự tái xuất của một số nhân vật, ra mắt tại Việt Nam. Qua bản dịch đầy hồn lính mà vẫn đậm chất thơ của dịch giả Vũ Hương Giang, độc giả sẽ lại được gặp một Remarque rất khác, vừa khắc nghiệt lại mơ màng, trong tuyệt vọng lại hồi sinh hy vọng. *** Remarque (1898 – 1970) là nhà văn lừng danh người Đức. Ông nổi tiếng với Phía Tây không có gì lạ, một trong những tác phẩm hay nhất về Thế chiến I. Các tác phẩm tiêu biểu khác của ông như Ba người bạn, Khải hoàn môn, Đêm Lisbon…cũng góp phần không nhỏ trong việc khẳng định tài năng và danh tiếng của ông khắp năm châu. Năm 1931, ông được đề cử cả giải Nobel Văn chương và Hòa bình. Bia mộ đen (Der schwarze Obelisk – 1956) một lần nữa cho thấy thiên bẩm của Remarque trong việc nhìn ra được niềm vui, lạc quan và những điều tốt đẹp giữa khổ đau, tuyệt vọng và xấu xí. Nhận xét về tác phẩm này, cây bút F.T. Marsh của tờ New York Herald Tribune từng viết: “Dí dỏm nhưng đượm buồn, vừa nghiêm túc lại có chút giang hồ, tuyệt diệu trong từng câu chữ nhưng vẫn khó nắm bắt vô vùng”. Những tác phẩm tiêu biểu: Phía Tây không có gì lạ; Khải hoàn môn; Ba Người Bạn Đường về; Tia lửa sống; Bia mộ đen; Chiến Hữu Bản Du Ca Cuối Cùng Lửa Yêu Thương Lửa Ngục Tù Một Thời Để Yêu Và Một Thời Để Chết *** Đám lính còn sót lại của trung đội hai nằm nửa thức nửa ngủ trong chiến hào tan nát vì đạn pháo sau tuyến lửa. "Trái phá gì mà kỳ quái!" Jupp nói. "Sao cơ?" Ferdinand Kosole nhổm lên hỏi. "Thử nghe đi!" Jupp đáp. Kosole khum tay lên tai nghe ngóng. Và cả lũ chúng tôi cùng lắng tai vào màn đêm. Nhưng chẳng nghe thấy gì ngoài tiếng nổ ì ầm của đại bác và tiếng rít của trái phá. Từ phía bên phải chỉ còn vọng đến tiếng súng máy tạch tạch và thi thoảng một tiếng kêu đơn độc. Nhưng chúng tôi đã quen với tất cả những thứ này từ nhiều năm nay, nên làm quái gì mà phải há hốc mồm ra như thế. Kosole nhìn Jupp ngờ vực. "Nó vừa dừng tức thì rồi," anh chàng kia lúng túng phân bua. Kosole nhìn bạn lần nữa đầy dò xét. Nhưng vì Jupp vẫn tỉnh bơ, anh quay đi càu nhàu: "Có mà bụng cậu sôi réo, chứ trái phá mẹ gì. Cứ ngủ đẫy mắt đi có hơn không." Vừa nói Kosole vừa vỗ vỗ đất thành hình cái gối và thận trọng nằm duỗi dài sao cho đôi ủng không thể tuột xuống nước. "Khỉ thật, trong khi ở nhà mình có hẳn một cô vợ và một cái giường đôi," anh làu bàu, mắt đã díp lại.   "Sẽ có một gã nào đó nằm ghé tí,' Jupp nói chõ ra trong xó của mình. Kosole hé một mắt, ném cho Jupp cái nhìn sắc lạnh. Có vẻ như anh định chồm dậy. Nhưng anh chỉ gầm gừ: "Tao chẳng khuyên cô ta làm vậy, cái đồ cú vọ nhà mày!" Liền sau đó anh đã cất tiếng ngáy. Jupp ra hiệu cho tôi qua chỗ anh ta. Tôi bò qua đôi ủng của Adolf Bethke và ngồi xuống bên Jupp. Cẩn thận ngó chừng anh chàng đang ngáy ngon lành, Jupp nói vẻ cay độc: "Cái ngữ ấy chả có tí học thức nào, nói để cậu biết." Trước chiến tranh Jupp từng làm thư ký cho một luật sư ở Köln. Mặc dù đi lính đã ba năm, anh ta vẫn giữ một tâm hồn nhạy cảm; và vẫn rất xem trọng việc tỏ ra là người có học thức ngoài chiến trường. Điều ấy thực sự có nghĩa gì, cố nhiên chính Jupp cũng chả rõ, nhưng trong tất cả những thứ trước kia anh ta đà từng nghe thì riêng cái từ "học thức" lại bắt rễ trong đầu anh ta, và anh ta bám chặt lấy nó như chết đuối vớ được cọc. Thật ra ai ở đây cũng có thứ gì đó đại loại như vậy: người này là vợ, người kia là cửa hiệu, kẻ nọ lại là đôi ủng, với Valentin Laher là rượu, còn với Tjaden đó là ước muốn được một lần nữa chén đẫy bụng món đậu nấu mỡ muối. Ngược lại, Kosole bao giờ cũng dị ứng với từ "học thức", với anh cái từ đó luôn liên quan đến lũ mặc áo cổ cồn, mà thế là quá đủ. Nên lúc này dù đang ngủ anh vẫn cáu tiết. Vừa ngáy anh vừa văng ra cộc lốc: "Rõ cái đống phân sặc mùi thư lại!" Jupp lắc đầu vẻ nhẫn nhịn và cao thượng. Chúng tôi im lặng ngồi sát bên nhau hồi lâu để sưởi ấm. Đêm lạnh và ẩm ướt, mây mù bao phủ, đôi lúc có mưa. Khi mưa, chúng tôi lôi những tấm vải bạt đang lót dưới người lên che đầu. Chân trời lóa sáng ánh lửa đạn. cảm giác dường như ở đó không lạnh như nơi đây, trông vui mắt dễ chịu thế cơ mà. Những trái phá bay vút lên trên những loạt pháo sáng, tựa những bông hoa sặc sỡ lấp lánh ánh bạc. Mặt trăng khổng lồ, đỏ ối lững lờ trôi trong sương mù bên trên những đống đổ nát của một nông trại. "Cậu có nghĩ là bọn mình sẽ về nhà không?" Jupp thì thầm. Tôi nhún vai. "Thì nghe nói thế..." Jupp thở dài. "Một căn phòng ấm áp, có ghế sofa, buổi tối đi chơi... Cậu còn hình dung nổi hay không?" "Lần về phép gần đây nhất, em đã thử lại những bộ thường phục của mình," tôi trầm ngâm nói, "nhưng đều chật quá rồi. Có lẽ sẽ phải sắm quần áo mới." Những từ: thường phục, sofa, buổi tối... vang lên nơi đây nghe sao lạ lẫm thế chứ. Những ý nghĩ kỳ quái nảy ra trong đầu... Giống như thứ cà phê đen đôi khi nặng vị thiếc và gỉ sắt đến nỗi vừa uống vào sẽ lập tức ọe ra nóng rẫy. Jupp mơ màng ngoáy mũi. "Ui chao, những quầy hàng... những quán cà phê... và đàn bà..." ... Mời các bạn đón đọc Đường Về của tác giả Erich Maria Remarque.
Người Bí Ẩn Khoác Áo Hồng Y
"Người bí ẩn khoác áo Hồng y là tác phẩm được nhà văn Alexandre Dumas viết vào giai đoạn cuối cùng của văn nghiệp. Tác phẩm kể về chuyện xảy ra ở triều đại Louis XIII, vào thời điểm nối tiếp sau câu chuyện về những nhân vật có lẽ chẳng còn xa lạ với độc giả: hiệp sĩ d'Artagnan cùng ba người bạn thân của chàng, Athos,vPorthos và Aramis. Lẽ cố nhiên, bạn đọc sẽ không tìm thấy những chàng hiệp sĩ ấy ở truyện này nữa, tuy vẫn còn đó hai con người quan trọng: Hồng y De Richelieu và Quốc vương Louis XIII. Khung cảnh của chuyện cũng hoàn toàn đổi khác, thay cho bầu không khí sôi nổi của những người cầm kiếm là chuỗi màn đấu trí gay cấn giữa những người mưu sâu kế hiểm. Trong truyện này, bạn đọc sẽ gặp gỡ Bá tước Moret, chàng hoàng tử hào hoa, lãng mạn, một nhân vật mà thời lượng nhà văn dành cho chàng là bằng ngang với Hồng y De Richelieu. Tác phẩm này, vì vậy, ở những lần xuất bản khác nhau tại Pháp cũng được biết đến với tựa đề Bá tước Moret. Là tác phẩm tiểu thuyết lịch sử, đa phần nhân vật trong truyện đều là những tên tuổi có thật thời bấy giờ, được hư cấu tài tình vào cốt truyện đậm tính hấp dẫn, sống động và khôi hài đặc trưng của nhà văn Dumas. “‘NGƯỜI BÍ ẨN KHOÁC ÁO HỒNG Y’ quả là một tuyệt tác! Vô số âm mưu hiểm độc và những màn lật ngược tình thế, những cuộc đấu tay đôi, niềm đam mê, lãng mạn, yêu thương và thù hận, đầy chất thơ và cũng không kém phần gay cấn. Chưa bao giờ người đọc lại cảm thấy dễ bị cuốn hút đến như vậy.” - Trang đánh giá Historical Novels Review “‘NGƯỜI BÍ ẨN KHOÁC ÁO HỒNG Y’ như được phủ lên mình một sức sống mới và tỏa sáng lộng lẫy trong phiên bản này. Những màn tranh đấu kịch tính đi kèm với sự hóm hỉnh nhưng cũng đầy châm biếm sâu cay. Phiên bản mới sẽ khiến người đọc phải thay đổi cách nhìn về nó: Một tuyệt tác cũ nay đã được nâng lên một tầm cao hoàn toàn mới.” - Tổ chức tin tức Quốc tế Christian Science Monitor" *** Lời giới thiệu Độc giả yêu văn học chẳng mấy ai chưa từng biết đến đại văn hào người Pháp Alexandre Dumas cùng những tác phẩm để đời của ông, Bá tước Monte Cristo và Ba chàng lính ngự lâm. Hẳn bạn đã đọc Ba chàng lính ngự lâm hay chí ít cũng đã xem qua một trong nhiều phiên bản của truyện này phỏng dựng thành phim điện ảnh hoặc phim truyền hình, và rất đỗi quen thuộc với chàng d’Artagnan dũng cảm cùng những vị bằng hữu: Athos, Porthos, và Aramis. Có lẽ bạn biết rằng bộ truyện ấy đã đưa đến sự ra đời của biết bao chuyện kể tiếp nối theo sau, mà đỉnh cao là tác phẩm lừng danh nhất từ trước đến nay, truyện Người đàn ông mang mặt nạ sắt, một tác phẩm đã được chuyển thể thành phim khá nhiều lần. Vậy thì, lý do gì mãi tận ngày nay bạn vẫn chưa hề nghe đến cái tên ‘Người bí ẩn khoác áo Hồng y’, nhất là vào khi nó được cho là “câu chuyện nối dài của Ba chàng lính ngự lâm” như những gì đã quảng cáo? Để tôi kể bạn nghe một chuyện. Nhân vật chính trong chuyện của chúng ta là một người đàn ông có sức sống mãnh liệt và tài năng xuất chúng, một nhân vật mà tầm vóc và sự nghiệp của ông đã vang danh trên thế giới. Ông sống hào hoa và yêu không giới hạn, dồn dập mang về của cải rồi ném cả vào nhà hát và nhà xuất bản, phí hoài cho lâu đài và cho cả mỹ nữ nhân tình, hân hoan trong cuộc đời đầy biến đổi, đắm chìm vào thú ẩm thực xa hoa, và say sưa làm chính trị. Tên của ông, tất nhiên rồi, là Alexandre Dumas. Bắt đầu sự nghiệp cầm bút vào cuối những năm 1820, chàng trai trẻ Dumas khi ấy vừa là thi sĩ vừa là kịch tác gia; vở kịch Melo đầu tay của ông sáng tác vào năm 1829 đã gây hiệu ứng đủ mạnh giúp ông dấn bước hẳn vào con đường văn nghiệp, để rồi suốt những năm 1830 ông sáng tác hết vở kịch này sang vở kịch khác, vở sau bao giờ cũng gây bất ngờ và tỏa sức hấp dẫn át hẳn vở trước. Ban đầu, kịch của ông lấy bối cảnh đương đại, nhưng sau đó ông chuyển sang dùng các nguồn sử liệu để sáng tác, và đến cuối thập niên 30 ông lại đổi hướng thành văn xuôi. Thời bấy giờ, những tập san phát hành tiểu thuyết dài kỳ đã bước vào giai đoạn thịnh hành, và hình thức viết theo kết cấu chương hồi là mảnh đất màu mỡ để kẻ vốn điêu luyện với văn phong biên kịch như Dumas thỏa sức sáng tạo nên những khung cảnh sống động, được điểm tô bằng lời thoại ngắn gọn mà hàm chứa ý tưởng dồi dào. Sau vài thành công khiêm tốn với truyện văn xuôi dài kỳ, năm 1844 ông cho ra đời tuyệt tác Ba chàng lính ngự lâm, và năm sau đó là Bá tước Monte Cristo. Cả hai tác phẩm này đã gây tiếng vang rộng khắp trên thế giới, và suốt mười lăm năm tiếp theo ông đều đặn hái quả ngọt từ sức sáng tác không hề biết đến sự mệt mỏi; ông viết truyện sau tiếp lấy thành công từ truyện trước, trong đó phải kể đến những tiểu thuyết lừng danh như Huynh đệ người Corsica, Cuộc chiến giữa những người đàn bà, Chuỗi hạt của vương hậu, Hoa tulip đen, bộ ba tác phẩm về dòng họ Valois, và một truyện mang tựa đề Bóng chim câu, viết về Bá tước Moret, người em chung nửa huyết thống của Quốc vương Louis XIII. Những tác phẩm này đã được dịch ra hàng chục thứ tiếng và được độc giả ở mọi thị trường xuất bản mến mộ, gồm cả Vương quốc Anh và đặc biệt là Hoa Kỳ. Nhưng Dumas là người giao du rộng rãi ngoài xã hội, kẻ không sao ngăn được mình đừng dính líu vào đời sống chính trị; và tài nói chuyện hài hước vừa sắc sảo vừa không kiêng dè khiến ông chuốc lấy thù oán với nhiều người. Năm 1851, người đỡ đầu của ông là Vua Louis-Philippe bị truất ngôi bởi Louis-Napoléon Bonaparte; mà vị tân Tổng tài này của nước Pháp thì không có thiện cảm với Dumas, nên nhà văn tính chuyện tốt nhất là rời bỏ đất nước để tìm sang xứ khác. Ông sang sinh sống ở nước Bỉ, rồi lại lạc bước đến nước Nga, và cuối cùng là nước Ý, nơi đây ông lại xía vào bầu không khí náo nhiệt của phong trào độc lập Italia. Ông không hề ngừng viết, có điều sản phẩm của ông được đón nhận càng ngày càng ít đi, thậm chí tại nước Pháp doanh thu từ sách của ông đã suy giảm đến mức chỉ còn nhỏ giọt. Ở đất nước quê hương, kẻ một thuở danh nổi như cồn nay đã trở thành… một gã lỗi thời. Năm 1864, ông trở về Paris, lòng quyết tâm tìm lại tiếng tăm và sự giàu có. Bấy giờ tuy đang viết về những cuộc hành trình đến nước Nga và nước Ý, ông vẫn cho rằng mình nên quay lại những câu chuyện phiêu lưu lịch sử, vốn là nguồn thành công lớn nhất của ông. Năm 1865, chủ bút tuần báo Les Nouvelles là Jules Noriac ướm hỏi Dumas về một bộ truyện dài kỳ thăm lại bối cảnh trong tác phẩm hút khách đầu tay của ông là Ba chàng lính ngự lâm. Dumas, còn chưa nguôi niềm mê say với vương triều Louis XIII cùng vị Hồng y Tể tướng Richelieu, nghe vậy liền sốt sắng nhận lời. Thế là ra đời một thiên truyện nhiều kỳ với nhan đề Bá tước Moret, một câu chuyện phiêu lưu kể về Quốc vương Louis, về người em cùng cha khác mẹ và ưa thích phiêu bồng của ông là Moret, về người tình Isabelle de Lautrec của chàng Moret, và về vị chính khách lỗi lạc là Hồng y Richelieu. Đặc biệt là Hồng y Richelieu; nhân vật được cuốn tiểu thuyết đề cập ở mật độ ngang bằng với mật độ dành cho Bá tước Moret, và cuối cùng thì tác phẩm này được người ta biết đến nhiều hơn với cái tên là Người bí ẩn khoác áo Hồng y. Sự chú ý được dồn vào vị Hồng y lý giải vì sao ở truyện này Dumas từ chối đưa vào sự hiện diện của d’Artagnan cùng ba vị ngự lâm quân bạn thân của chàng, khi mà họ rõ ràng chẳng có gì để lưu luyến với cốt truyện nơi đây. Vả chăng, Dumas đã sáng tác dễ đến cả triệu từ về d’Artagnan cùng đồng đội, ông đâu cần phải nói đi nói lại những gì mình đã viết cả rồi. Thế là Dumas trở lại thời của triều đình Louis XIII và bắt tay vào viết. Cảm hứng tuôn trào, qua sáu tháng ông đã nặn ra một truyện về phiêu lưu, chính trị luận và tình cảm lãng mạn mang phong cách cổ điển nhưng thời gian qua nhiều chục năm đã trở thành gánh nặng tuổi tác, người văn sĩ nay là kẻ đau ốm già nua, còn tờ Les Nouvelles thì số ra như nấc cụt rồi dừng hẳn. Câu chuyện bấy giờ cũng vậy: sau khi viết được chín phần mười, Dumas không bao giờ xong nốt phần còn lại. Người đời sẽ cho rằng sau biết bao khắc khoải, và sau quá nhiều thành công lẽ ra Dumas đã có thể tập trung nỗ lực để hoàn tất bộ truyện ngõ hầu giúp nó tìm đến sự xuất bản, giống như rất nhiều tác phẩm trước đó. Song ông chỉ đơn giản là mãi mãi không tìm ra một cái kết cho truyện này. Đó là sự suy đoán nhìn từ góc độ của người làm công việc biên tập cuốn sách đang nằm trên tay bạn, nhưng riêng tôi thì cho rằng mình biết được một lý do hấp dẫn lý giải vì sao. Theo cách nghĩ của tôi thì vấn đề ấy Dumas vốn đã giải quyết từ lâu, khi ông viết truyện Bóng chim câu vào mười lăm năm trước đó. Trong truyện kể riêng lẻ, hoàn chỉnh ấy, ông đã trình bày phần kết cho câu chuyện về Richelieu, về Bá tước Moret cùng người tình Isabelle de Lautrec của chàng. Bóng chim câu, tuy ít người biết đến vì dung lượng truyện quá ngắn nên khó lòng được xuất bản, song đã mang đến cho số phận của Moret và Isabelle một cái kết có hậu. Vậy thì ông đã làm xong điều ấy. Tại sao ông phải lặp lại những gì mình vốn đã viết ra? Trong ấn bản này, lần đầu tiên độc giả có thể tìm thấy thiên tiểu thuyết vĩ đại cuối đời của Alexandre Dumas, Người bí ẩn khoác áo Hồng y trở nên trọn vẹn và hoàn chỉnh hơn khi có thêm phần ngoại truyện Bóng chim câu. Chắc chắn bạn đọc sẽ hứng thú với truyện này. *** Lời người dịch Người bí ẩn khoác áo Hồng y là tác phẩm được nhà văn Alexandre Dumas viết vào giai đoạn cuối cùng của văn nghiệp. Tác phẩm kể về chuyện xảy ra ở triều đại Louis XIII, vào thời điểm nối tiếp sau câu chuyện về những nhân vật có lẽ chẳng còn xa lạ với độc giả: hiệp sĩ d’Artagnan cùng ba người bạn thân của chàng, Athos, Porthos và Aramis. Lẽ cố nhiên, bạn đọc sẽ không tìm thấy những chàng hiệp sĩ ấy ở truyện này nữa, tuy vẫn còn đó hai con người quan trọng: Hồng y De Richelieu và Quốc vương Louis XIII. Khung cảnh của chuyện cũng hoàn toàn đổi khác, thay cho bầu không khí sôi nổi của những người cầm kiếm là chuỗi màn đấu trí gay cấn giữa những người mưu sâu kế hiểm. Trong truyện này, bạn đọc sẽ gặp gỡ Bá tước Moret, chàng hoàng tử hào hoa, lãng mạn, một nhân vật mà thời lượng nhà văn dành cho chàng là bằng ngang với Hồng y De Richelieu. Tác phẩm này, vì vậy, những lần xuất bản khác nhau tại Pháp cũng được biết đến với tựa đề Bá tước Moret. Là tác phẩm tiểu thuyết lịch sử, đa phần nhân vật trong truyện đều là những tên tuổi có thật thời bấy giờ, được hư cấu tài tình vào cốt truyện đậm tính hấp dẫn, sống động và khôi hài đặc trưng của nhà văn Dumas. Người bí ẩn khoác áo Hồng Y, nguyên bản tiếng Pháp, được xuất bản lần đầu vào những năm 1860 dưới dạng tiểu thuyết đăng báo dài kỳ. Sau này, người ta tìm thấy bản hoàn chỉnh trong một căn gác nhỏ sau khi tác giả qua đời. Trên tay độc giả là bản Việt dịch từ bản Anh ngữ của phiên bản ấy. Với mong mỏi mang đến với bạn đọc một tác phẩm giá trị và đặc sắc của văn hào mà tên tuổi của ông đã quá thân thuộc ở rất nhiều quốc gia trên thế giới, dịch giả cố gắng chuyển tải một cách tốt nhất ý văn của tác giả thông qua bản Anh ngữ, đối chiếu với bản gốc Pháp ngữ cho những điểm quan trọng, giữ nguyên một số thán từ bằng tiếng Pháp như chúng vốn vậy ở bản tiếng Anh, và sử dụng các đại từ đã được Việt hóa theo thời gian, nay tuy đã là từ cũ, nhưng xét thấy phù hợp cho câu chuyện thuộc khung cảnh của những năm 1600. Một bản dịch qua hai lần ngôn ngữ thì thiếu sót khách quan lẫn chủ quan hẳn nhiên là điều không tránh khỏi. Rất mong bạn đọc lượng thứ và góp ý cho một bản dịch tốt hơn sau này. Trân trọng, Nguyễn Đăng Thuần Dịch giả Mời bạn đón đọc Người Bí Ẩn Khoác Áo Hồng Y của tác giả  Alexandre Dumas & Nguyễn Đăng Thuần (dịch).
Pollyanna (Tiếng Việt)
Pollyanna là một tiểu thuyết bán chạy nhất năm 1913 của Eleanor H. Porter mà ngày nay được xem là kinh điển của văn học thiếu nhi, với tên nhân vật chính đã thành một thuật ngữ phổ biến trong tiếng Anh để chỉ người lạc quan quá mức, ngoài ra, sự thiên lệch tiềm thức theo hướng tích cực thường được mô tả là nguyên tắc Pollyanna. Cuốn sách này đã thành công đến mức Porter sớm sáng tác phần tiếp theo, Pollyanna Grown Up (1915). Mười một phần tiếp theo Pollyanna, được gọi là "Glad Book", sau đó đã được công bố, hầu hết trong số này được viết bởi Elizabeth Borton hoặc Harriet Lummis Smith. Và có các phần tiếp theo nữa, bao gồm Pollyanna Plays the Game bởi Colleen L. Reece, xuất bản năm 1997. Pollyanna đã được chuyển thể thành phim nhiều lần. Một trong những phim phổ biến nhất là phiên bản 1960 với sự tham gia diễn viên trẻ Disney Hayley Mills, người đã giành một giải Oscar đặc biệt cho vai diễn, và phiên bản 1920 với diễn viên chính Marry Pickford.   Pollyanna trưởng thành, truyện tiếp theo bà viết năm 1915, nhân vật Pollyanna đã trở thành anh hùng của châu Âu. Bên cạnh đó Pollyanna phải đối mặt với nhiều rào cản trong cuộc sống, tưởng chừng như không thể vượt qua nổi. Năm 1920, Eleanor H.Porter mới viết xong đoạn kết cuốn truyện Pollyanna. Ngày 21 tháng 5 năm 1920, bà mất tại nhà ở Cambridge, Massachusetts, và được mai táng ở nghĩa trang Mount Auburn thuộc quận Middlesex, bang Massachusetts. Những tác phẩm của bà, đặc biệt là Pollyanna đã mang niềm vui đến cho hàng triệu độc giả khắp hành tinh. *** Eleanor Hodgman Porter (1868 - 1920), tác giả người Mỹ, sinh ngày 19 tháng 12 năm 1868 tại Littleton, tiểu bang New Hampshire. Là con gái của Francis Fletcher Hodgman và Llewella Woolson. Sau khi tốt nghiệp nhạc viện New England ở Boston, bà trở thành ca sĩ nổi tiếng. Ngày 03 tháng 05 năm 1892, bà kết hôn với John Lyman Porter và khởi nghiệp ở New England với truyện ngắn cùng những bài viết đăng trên báo, tạp chí mang tính đại chúng như: Bạn của nhà nội trợ, Harper’s Weekly. Vượt dòng, sáng tác năm 1907 của bà là cuốn tiểu thuyết đầu tiên được xuất bản. Tiếp theo là Hướng thủy triều (1908) và Chuyện về Marco viết năm 1911. Cô Billy cũng xuất bản trong năm 1911, là cuốn sách thành công nhất về mặt thương mại. Nhưng cuốn truyện Pollyanna bà sáng tác năm 1913 mới thực sự chinh phục độc giả thế giới. Với câu nói nổi tiếng: “Chỉ hít thở thôi thì không thể gọi là sống được!” cô bé mồ côi Pollyanna Whittier làm xúc động nhiều trẻ em bởi tính cách hồn nhiên trong sáng và lạc quan yêu đời. Khi các câu lạc bộ giải trí xuất hiện, Pollyanna đã được chuyển thể phục vụ sân khấu và phim ảnh. Mary Pickford đã thành công trong phim câm năm 1920, Hayley Mills thành công với kịch bản năm 1960. *** Kính gửi dì Polly và ông Tom, Cháu đi được rồi! Cháu đã có thể đi được rồi! Hôm nay cháu đã bước được sáu bước từ giường tới cửa sổ. Đôi chân cháu đang dần hồi phục dì ạ. Cảm giác đi lại được trên đôi chân của chính mình thích lắm dì ạ! Các bác sĩ đứng chung quanh mỉm cười khích lệ cháu, còn các cô y tá reo lên mừng rỡ, có người còn sụt sùi khóc. Một bệnh nhân ở phòng bên đã đi lại được từ tuần trước lén nhìn cháu qua cánh cửa hé mở. Một bà bệnh nhân nữa đang hy vọng tháng sau có thể đi lại được. Bà này cũng được các bác sĩ mời tới dự liên hoan chung vui cùng cháu. Bà nằm trên giường bệnh, vỗ tay chúc mừng cháu. Ngay cả chị Black Tilly, người cọ rửa sàn cũng nhìn qua cửa sổ mái hiên và thốt lên: “Em bé đáng yêu của chị!” rồi bỗng khóc òa lên. Cháu mến chị ấy lắm dì ạ. Cháu thì chẳng hiểu sao mọi người cứ khóc suốt vậy. Lúc này, cháu chỉ muốn reo lên vì vui sướng. Ôi, thật tuyệt diệu! Rồi đây, cháu sẽ được đi lại, được chạy nhảy như xưa. Dù có ở bệnh viện ngót mười tháng trời cũng có sao đâu, dì nhỉ, vì cháu sắp bình phục rồi. Hơn thế nữa, cháu cũng chẳng bỏ lỡ đám cưới của người thân yêu nhất với cháu trên đời cơ mà. Dì cùng bác Chilton đã đến tận đây tổ chức dám cưới để cháu có thể nhìn thấy hai người. Dì của cháu luôn nghĩ ra những điều tuyệt vời nhất! Các bác sĩ nói không lâu nữa cháu sẽ được về với dì. Ngày mai cháu sẽ cố đi tám bước. Cháu vui đến nỗi ước gì có thể đi bộ một mạch từ đây về nhà ấy chứ! Không cần phải đi xe lửa nữa, tự đi lại trên đôi chân của mình thú vị hơn nhiều dì ạ. Giá mà dì biết được lúc này cháu đang vui thế nào. Giờ nghĩ lại về vụ tai nạn, cháu lại thấy mừng. Người ta nào biết được sự quý giá của đôi chân cho tới khi mất chúng. Dì cho cháu gửi tới các bác, các cô và Nancy muôn vàn tình yêu thương trìu mến. Pollyanna Mời các bạn đón đọc Pollyanna của tác giả Eleanor H. Porter.
Màu Tím - Bao'er Jinna
“... Tôi thừa nhận có lúc đặt bút xuống viết bỗng thấy tuyệt vọng trào dâng, nhưng nhìn một cách tổng thể thì bao trùm lên vẫn là niềm lạc quan bao la rộng khắp. Không có những ngôn từ hoa lệ, cũng không muốn hoa trang thật mỹ miều, chỉ muốn gắng sức để làm sao lột tả một cách chân thành nhất, sâu sắc nhất cuộc sống thực của thế hệ chúng tôi ngày ấy. Đẹp đẽ cũng được, thô tục cũng được, đau xót cũng được, tuyệt vọng cũng được... cái mà tôi muốn nói tồn tại chính là sự hợp lý và nét chân thực... đó mới là đáng quý!” “(Trích lời tác giả - Bao’er Jinna) Khắc hoạ lên quãng đường của cả một thế hệ bằng một thứ ngôn ngữ sắc bén nhưng vô cùng chân thật, có sức hút mạnh mẽ. Không phải tác giả trẻ nào cũng dồn nén được quá nhiều những xúc cảm vào ngòi bút như Bao’er Jinna. *** Vẫn là buổi tối hôm đó, hai mươi ba giờ mười lăm phút. Nửa tiếng đồng hồ trước đã ép buộc bản thân phải lên giường đi ngủ, nhưng Tử Minh vẫn đang mở to mắt nhìn ánh trăng chiếu ngoài cửa sổ. Trăng hôm nay trông có vẻ không được tròn trịa cho lắm và do bị sương giăng mây phủ nên tỏa ra một cảm giác trầm lắng mông lung. Mỗi khi ngắm trăng, Tử Minh lại thường cảm thấy phiền lòng thay cho chị Hằng Nga. Ngày ngày ở trên đó cùng với một chú thỏ ngọc và một anh chàng Cuội ngốc nghếch, chị ấy làm sao có thể chịu đựng được qua mấy nghìn năm như thế nhỉ? So sánh với cuộc sống của Hằng Nga, cuộc sống của mình quả là hạnh phúc. Ở bên cạnh luôn có những người yêu mình, thương mình, và mình cũng yêu quý họ. Ngày mai, ngày mốt, rồi tới tận một ngày xa xôi nào đó nữa, ít nhất ngày nào cũng được như vậy. Đang chống cằm với vẻ hốt hoảng thì tiếng điện thoại trong chăn rung lên ầm ĩ. Tử Minh mở ra xem, là tin nhắn của Nhan Thu. - Bây giờ hãy đi ra ban công. Tử Minh giật mình kinh ngạc, nhảy vụt từ trên giường xuống, vừa ôm đầu gối bị đau vừa bay nhanh ra ban công nhà. Từ ban công tầng ba nhìn xuống, dưới ánh trăng trải dài như thác nước, Nhan Thu đang đứng ôm đóa hồng trắng trong tay ngẩng đầu ngước mắt nhìn. Mặc dù vừa chia tay có vài tiếng đồng hồ trước thôi, nhưng không còn nghi ngờ gì nữa, Tử Minh lúc này vẫn hoàn toàn thẫn thờ. Sau khi bước vào thời kỳ dậy thì, cô bé đã xem rất nhiều phim tình cảm xúc động, cũng bắt gặp rất nhiều mối tình đẹp lãng mạn nhưng không có bất kỳ một cảnh nào trong một bộ phim nào lại đẹp hơn cảnh tượng đang diễn ra trước mắt bây giờ. Cũng không có bất kỳ một câu nói romantic nào có thể khiến cho linh hồn cô bé xao động như nụ cười lặng lẽ của Nhan Thu lúc này. Tại thời khắc đó, trong đầu Tử Minh bỗng nảy sinh ra một ảo giác, hoặc cũng có thể nó vốn dĩ đã diễn ra như vậy: Tất cả vạn vật bên ngoài ban công nơi cô bé đứng đều nhanh chóng bị đẩy ra xa, rơi xuống một sân khấu to lớn. Màn đêm dệt thành một tấm màn màu xanh, ánh trăng biến thành một chiếc đèn chùm từ trên trời chụp xuống, lan tỏa lên khắp cơ thể của nam nhân vật chính, chiếu rọi vào cặp mắt chan chứa tình cảm và đóa hồng trắng trên tay làm cho chúng càng trở nên long lanh óng ánh. Mời các bạn đón đọc Màu Tím của tác giả Bao'er Jinna.