Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Hơn Nửa Đời Hư

Hiểu theo trong Nam Hơn nửa đời hư, có nghĩa là hơn phân nửa đời người, chưa làm gì nên thân. Giọng hàng tôm, giặm mắm muối, rõ ràng hơn; đã quá nửa đời người, hổng nên thân gì ráo trọi! Hơn nửa đời, biết làm sao mà định? Bốn mươi năm mươi cũng được, quá sáu bảy mươi cũng biết đâu chừng? Thôi thì để đó, khi đập nắp quan sẽ hiểu. Chuyện tôi viết, bắt đầu từ năm sanh (1902) đến năm đi dạy học ở Huế về (1967), thấy nhộn quá nên ở nhà, chớ dư sức hoạt động. Con đường đã trải, cũng dài khá bộn, kể tuổi đầu cho đến nay đã trên bảy mươi, như vậy lẽ đáng nên gọi, nếu mai nầy chết, là “trọn một đời hư”, mới phải. Như con bạc trúng một canh bài về khuya, đủ gỡ vốn lời, vì “nên” được vào mấy ngày chót vậy xin cho tôi ghi “Hơn nửa đời hư” làm nhan sách. Tưởng “viết để lại cho con là Bảo” nhưng nay in thành sách có nhiều mắt cùng xem, như vậy “Hơn nửa đời hư” là phải. Ngoài trời mưa, đêm vẫn lạnh. Gió mướt tỉ tê, mắt già mi ướt. Tôi chuốc đôi hài nhung, mặc thêm một lớp áo ấm, lại ngồi bàn viết: “Đêm nay gió bấc mưa dầm, Đèn khuya một bóng, bóng lầm với đêm” Dưới Mái Tây, ngọn đèn điện cứ reo vui với mấy con thiêu thân tự sát. Song cửa mở sương che mất khu phố mấy từng cao. Con mèo tam thể đi ăn vụng bị hàng xóm chém tét móng chân trước, đang nằm rên hì hì trên đầu tủ sách. Vừa viết đến đây, tôi đọc lớn. Con mèo nhướng mắt tưởng tôi ngỏ lời an ủi, nên hoà âm mấy tiếng hừ hừ, tợ chiếc ấm gần sôi. Bỗng tôi đổi sang giọng lớn, không mấy êm tai, tôi thấy vành tai con miêu đang xụ lại vành lên, trán con miêu nhăn nhăn, tam thể tựa hồ bụng bảo dạ: “Lão Vương nầy chướng, chúng cho về hưu cũng phải: Lão lai nhai những gì rỗng tuếch, chẳng bù má Năm, nói những lời đáng giá, hứa cho ăn thì no bụng đến phát ách, hăm đánh đòn thù nhừ tử nên thân; Bữa nay lão viết giống gì nữa đây, chỉ hại tốn giấy?” Ấy đó, trên bảy mươi mà còn bị chó mèo xài xể, hỏi phải hư chưa? Lúc nhỏ vì mê đọc văn Anatole France nên vướng cái nghiệp của lão già Ba Tri nầy. Tuy không hiểu hết những câu sâu sắc của lão, nhưng lại thích cái giọng trịch thượng nửa đùa nửa thật, hơi cay một tí thôi, vừa nhẹ vừa thâm, hiểu được mớ nào, thấm ý đánh đùi cái chát? Thú vị nhứt, đọc mãi không chán là bộ “Le crime de Sylvestre Bonnard”, và đoạn ly kỳ nhứt trong sách là chỗ diễn tả cách báo ân đáp nghĩa của chị ả huê khôi, nửa đời tài sắc trước nghèo xơ xác đến nỗi phải trú ngụ trên gác thượng của lão hàn lâm nầy, rồi sau đụng một ông hoàng giàu sang không mấy hồi, trực nhớ ơn xưa lão hàn tặng một chén xúp khi đói lạnh, nay biết lão ham sách bèn sai con ôm đến nhà đêm No-en dâng cho lão một cuốn sách quí đựng trong bộng một khúc gỗ củi chuyện đọc thật là khoái trá. Chương trong sách tựa là “La buche de Noel”, ai muốn thường thức hãy tìm mà đọc. Nay tôi mượn ý viết tập nầy mở đầu truyện “Anh Vương tự thuật”. “Dừng chén ngoảnh lại trời non nước, Một mảnh tình riêng: ta với ta”. (Thơ Bà huyện Thanh Quan “Qua Đèo Ngang”) Đêm nay, cớ sao hai câu thơ trên như thôi miên tôi, như vương vấn tâm hồn, ngâm đi ngâm lại mãi không biết chán. Buổi đầu hôm ăn mừng sinh nhựt, lễ trung thọ thất thập tam tuế, Năm dâng chén rượu mừng khiến cảm động, đóc giọng còn cay. Nếu đời quen lấy trăm năm làm hạn, thì kiếp sống mình kể đã hơn nửa độ đường, trời cho thêm được ngày nào, kể như là lãi. Phần còn lại, không nên tham nhiều. Ô hay! Lên chói đỉnh tự hồi nào? Và sẽ lần dốc xuống triền được bao lâu nữa? Thật là không sao nhớ xiết Và xiết bao bồi hồi. Lên đến chót đỉnh tất đã đăng cao. Lên cao rồi phải hạ. Mai nầy cất bước dò lần đường xuống. Tức nhiên câu thơ tức cảnh Đèo Ngang bà Thanh Quan làm sẵn mà nó phù hợp với cảnh ngộ của mình làm sao? Ám ảnh là phải. Đêm đã về khuya, tư bề lặng lẽ; rất phải dịp cho mình chiêm nghiệm việc đời. Thử bỏ bàn toán tính sổ: lỗ hay lời, trước giờ gác đầu về núi, ta phải biết để mà lo liệu. Nhà hiện thời đang ở, truyền đến tôi đã hơn ba đời. Thế mà mình vẫn tưởng là một dịch đình tạm, dừng chén đêm nay để mai nầy trẩy bước. Nơi phòng bên cạnh, mẹ con chúng đang ngon giấc. Hơi thở đều đều của một mớ tóc bông của người hiền phụ và làn môi son của trẻ. Nhớ đến trẻ, cục máu thâm tình duy nhứt, đứa con muộn màng mà cũng là cái mốc ăn chịu với đời của tôi. Bao nhiêu tình yêu buổi thanh xuân đã như giọt sương buổi sáng bao nhiêu người thương cũ đã rớt rơi hoặc nằm yên nơi bên kia triền dốc: mẹ tôi mất năm 1913, tôi biết khóc tiếc người hiền mẫu khi tuổi độ vừa mười một. Năm tản cư 1946 khi hồi cư về nhà thì chịu tang cậu tôi. Nhưng chưa thảm bằng năm ấy mất đứa em trai mười chín tuổi, Vương Hiển Vinh, tuy khác mẹ nhưng xem dường ruột thịt. Làm thanh niên tiền phong, lánh giặc Tây rút chân theo đồng chí, đang cữ rét hành, trốn lính Tây nhảy vào bụi ô rô, Tây đi mất là tử thần vội đến, Vinh thở hơi cuối cùng, nay nắm xương lạc loài còn vùi đâu đó nơi cù lao Dung lạnh lẽo, chưa được mang về. Thời gian mãi như vầy, khi hết chiến tranh, dễ gì tìm thấy xác. Ba tôi tám mươi sáu tuổi, mất năm 1961, là người thân yêu khoá tạm cuốn sổ nầy. Hồn mẹ có linh, phách Ba dầu hiển, lại với mấy dì và mười đứa em trai sanh chưa kịp đặt tên đã trở về âm cảnh, bao nhiêu ấy là cốt nhục tình thâm nay gom lại làm mười mấy núm mộ nằm lúp xúp trên đất nhà ở Sốc Trăng, xin hãy về cùng tôi đêm nay nhấp chén mừng trung thọ. Nhưng xin đừng làm động giấc ngủ ngây thơ phòng bên cạnh. Hiền thê và Bảo con, hãy ngủ cho ngon, mai nầy chúng mình sẽ trẩy một khúc đường mới lạ còn dài lắm. Tôi khoác thêm áo ấm, kéo ghế tránh bóng đèn, đêm nay nguyện thức viết cho thật nhiều, kể lại cuộc đời đã qua, lưu lại cho vợ hiền con thơ được biết. Ô hô? Tuổi chẳng chờ ta... Tôi nghe nhiều người phàn nàn, cho rằng không hơi đâu nhắc lại chuyện cũ. Cái gì đã qua, hãy để cho nó qua. Hãy nhìn tới tương lai mới phải. Tương lai! Tương lai! Cách nay ba chục năm, tôi cũng say mê về tương lai, về ngày mai sẽ đến. Nhưng trải qua nhiều biến cố, từ năm 1945 cho đến nay, tuổi mòn chồng chất, tuy chưa đến độ chồn chân mỏi gối, tuy vẫn còn đi bộ hàng cây số không mệt, ngồi đánh máy suốt ngày không đau lưng, nhưng quay đầu ngó lại buổi đã qua, mới thấy cái hay của dĩ vãng. Đời vẫn không cay nghiệt gì với tôi. Tôi phải biết ghi ân rằng đời đã dành riêng cho tôi khá nhiều hạnh phúc. Nhưng khi ai kia nhắc đến buổi tương lai, bỗng khiến tôi lại bùi ngùi lo sợ. Bất giác tôi lại hồi tường tới chuyện đâu đâu. Tôi đã hết trông cậy vào tương lai, và nếu phải ước mong, hoạ là gởi hết vào cái đầu non và mớ tóc xanh của trẻ đang say giấc nồng bên cạnh. Xin ơn trên ban tôi thêm vài tuổi, có thì giờ đủ thấy đứa trẻ nên người.     2. Kiếng họ Vương ở Sóc Trăng     Lai lịch Họ Vương của chúng tôi, chỉ ở Sốc Trăng, vốn xuất thân từ tay trắng. Xét cho kỹ, không làm gì có gia phả để lại. Sự ấy cũng dễ hiểu:       a) Ông tổ của chúng tôi, - chỉ biết được đến đời ông sơ, tức không hơn năm đời - từ Trung Quốc sang đất Miên rồi đất Việt một khi tách bước ra đi trên con đường vô định - nói ra không sợ xấu đã dấn thân trên đường lưu lạc, phiêu lưu, đi tha hương cầu thực, đi để tìm lẽ sống mà tại nơi nhau rúm không sao tìm thấy, nói thẳng ra, đi hoang làm vậy, thì cần gì đem theo gia phả? Giắt lưng cái tờ tộc phái ấy chỉ thêm bận chân vướng cẳng, ích gì? Và thương thay cho những người lang thang trên bước giang hồ,       b) Đến đời ông nội chúng tôi, sẵn tánh bần bạch kiêu nhân, dám đứng làm tùa-hia (đại ca) của chi nhánh Thiên Địa Hội tại Sốc Trăng, thì càng không nên cất giữ gia phả trong nhà. Nơi xứ lạ quê người, thù nhiều bạn ít, đã quyết chí chống triều đình Mãn Thanh, thì dẫu có bao nhiêu gia phả cũng phải thủ tiêu, để tránh liên luỵ gia đình thê tử.       c) Họ Vương, tiếng rằng sang, kêu lắm, giòn lấm, nhưng có giàu chăng là giàu hai chữ “thanh bần”. Từ ông sơ xuống đến ông cố, lang bạt kỳ hồ, làm miễn đủ ăn là đủ mừng, đèo bòng chi cái gia phả, chúng cười: “sang không phải chỗ”,       d) Thuở đó, trước đây một thế kỷ, sống trên đất lạ, vùng Sốc Trăng vừa mới phát, việc khai hoang chưa hoàn thành, ở chung đụng với người Miên người Thổ, họ quen dùng bùa ngải tà thuật, khi thư da trâu vô đầy bụng mà chết, khi trù ẻo dùng thiên linh cái bắt hồn, để tránh các tai hoạ dữ kia, muốn sống yên lành vô sự, tất nhiên phải giấu tên giấu họ, mai danh ẩn tích là hơn. Cho nên nói chung, tại Miền Nam chúng tôi không có tục lập gia phả, vì xét rằng tờ tộc phái có ghi tên họ năm sanh năm tử của ông bà để lại rủi lọt vào tay kẻ thù muốn hại mình thì quả là lợi ít hại nhiều, nên không lập. Tờ gia phả xét kỹ ra, chỉ dành cho các dòng họ lớn nào sống nơi thái bình yên định, không gặp cảnh loạn ly. Tuy vậy không phải người miền Nam không biết quý trọng tổ tiên, duy không chép ra thành sách. Người tộc trưởng của một họ thường thuộc nằm lòng để truyền khẩu giữa con cháu hoặc kỹ hơn, dùng thẻ giữ kín ghi những ngày kỵ huý giỗ quải, và ít khi bằng lòng lấy ra cho người ngoại tộc xem. Sau đây, tôi xin tóm tắt những gì tôi từng nghe phụ thân tôi thuật lại về chi họ Vương ớ Sốc Trăng, dòng ông Vương Thoại là ông cố của chúng tôi.      a) Kể về chi lớn, thì được biết vẫn ở tại Phước Kiến (Trung Hoa), và có thể nói, gồm trong mười lăm chữ: “Phước kiến tỉnh, Tuyền Châu phủ, Đồng Ân huyện, Lâm Mễ thôn, Quan Khảo lý”. Như vậy, không phải bất cứ người nào hễ sanh tại Phước Kiến và cùng một họ Vương là một dòng với chúng tôi. Phải sanh từ Lâm Mễ thôn, từ Quan Khảo lý mới đủ điều kiện. Bây giờ thử hỏi: Một người như tôi, máu Hoa pha máu Việt đã bốn đời, không nói được tiếng Phước Kiến, giá thử có dịp qua bên ấy, vậy chớ có nhìn đồng tông đồng tánh với người bên ấy được chăng? Giấy tờ chứng minh không có, nói miệng tài ai tin vả lại nhìn bà con ở xa mút bên Tàu để làm gì? Khi đã xa cách nhau suốt nhiều đời, dẫu tình đậm cũng hoá lợt; thêm vấn đề ngôn ngữ bất đồng, phong tục cách ăn thói ở không giống, “y ăn xì-dầu, tôi húp nước mắm”, lại nữa tỉnh Phước Kiến là đất tiêm nhiễm lâu năm chủ nghĩa khác với tôi. Vương nầy Vương kia, tôi tưởng gặp nhau e không dám ngó ngay mặt chớ đừng nói chi chuyện bất tay nhau nhìn một họ một dòng. Gặp nhau, câu thi Học Lạc ngâm suông: “Hoá An-nam, lữ khách trú”... rồi huề. Không nói thêm được nửa lời. Không phải cốt ý để khoe khoang, nhưng Ba tôi có thuật lại rằng xưa kia kiếng họ Vương ở Phước Kiến vốn có địa vị khá. Giữa triều Thanh đang thịnh cũng không bị bạc đãi. Một chi tiết nhỏ: Thuở ấy, cặp lồng đèn giấy treo trước cửa, được phép kẻ một chữ Vương duy nhất, thay vì các họ khác phải viết kèm chữ “phủ”, tỷ dụ Phạm phủ, Trần phủ, Quách phủ, v.v... Và đó là đặc ân dường như do bà Tây Thái Hậu ban ra, vì bà cho rằng hễ Vương thì ở phủ là cố nhiên, hà tất viết dư chữ “phủ”. Một giai thoại khác thuật luôn là cũng bà Tây Hậu khi sắp hạng những mười tám tỉnh dâng lễ khánh thọ cho bà, thì tỉnh Phước Kiến được sắp đứng đầu vì chữ “Phước” không thể sắp sau chữ khác. Một đặc ân khác dành cho chi họ Vương quán ở Quan Khảo lý, là được dùng bốn chữ “Khai Mân đệ nhứt” là biển treo nhà, vì tương truyền họ nầy xưa kia có công khai phá mở mang đất Mân (Phước Kiến), biến hoang địa thành lương điền. Nói để nghe chơi chớ không dám vẽ viên nhiều, bằng sắc đâu có hòng chứng minh, khoác lác là tội. Không nên “thấy người sang, bắt quàng làm họ”,       b) Nay nói về chi thứ là chi xuất dương, vốn cùng một đầu ông sơ. Hiện biết có ba chi ở ba chỗ khác nhau: chi Nam Vang, chi Gia Định, chi Sốc Trăng. Nhưng đã tản lạc, chưa thấy ngày trùng phùng.      1) Ông sơ (?-?) . Khuyết danh, khuyết ngày sanh, ngày tử. Giỗ chung với bà sơ, huý nhựt: ngày hai mươi lăm tháng chạp âm lịch. Theo Ba tôi kể lại, ban đầu ông sang ngụ đất Nam Vang, nhưng kể từ năm nào không rõ. Về sau, chi nầy tách ra một nhánh xuống định cư ở đất Gia Định. Hiện chi nầy ở đâu? Khi lên viếng Sài Gòn độ năm 1901, Ba tôi có gặp, hai đàng nhìn nhau mừng mừng tủi tủi rồi cũng chia tay từ đó rồi bặt vô âm tín, cũng không biết địa chỉ để liên lạc, nay kể như thất lạc, mất còn chẳng hay. Từ ngày tôi lên ở Gia Định, tôi cố gắng hỏi thăm nhưng chưa gặp một ai chỉ bảo. Ông sơ chúng tôi ở Nam Vang một thời gian không biết bao nhiêu lâu, bỗng nhớ chén cơm lưu lạc động gót giang hồ, lại một gói một xách, một thân một mình, cất bước lên đường một phen nữa. Có lẽ nghe lời đồn đãi nên chuyến nầy, ông xuống Miền Ba Thắc (nay có miếu thờ ở Chợ Cũ Bãi Xàu), Thổ gọi Sroc Bassac, hoặc sroc khléang, là tên cũ xứ Sốc Trăng (nay là Khánh Hưng, Ba Xuyên). Thuở đó, vừa hơn một thế kỷ, vùng nầy là một đồng ruộng mênh mông, người thưa rừng nhiều, đất tốt “làm không hết” cá tôm, thịt rừng khỏi mua mạnh ai nấy bắt, đời sống dễ dãi như cảnh thiên đàng, khiến ông lưa gót lại đây, lập thêm một gia đình nữa với bà sơ chúng tôi. Ở như vậy bao lâu không biết, rồi đến lúc tuổi già sức yếu, biết đã gần ngày quay đầu về núi, ông bèn “qui cố hương” rồi mất luôn bên ấy. Có nên trách ông hai lần tạo lập gia đình rồi bỏ về chết ở bên Tàu không? Xin đáp rằng không. Ông vả chăng là người Phước Kiến. Tháp cánh bay xa để thử sức, khi sức kiệt thì bay về ổ cũ. “Phú quý không về làng thì khác nào áo gấm mặc đêm”. Người Âu khi xưa đĩ lập Tân thế giới cũng thế. Nếu đã trót để lại hai nơi hai giọt máu tươi, thì may thay trời sanh trời dưỡng, hai giọt ấy hoa đơm kết trái cháu chất nối dòng, bổn phận kẻ sau phải nhớ câu “mộc bổn thuý nguyên”. Dẫu tôi quá hư, cũng không dám buộc tội ông, duy dám hỏi “Sao ông không nói cũng không để lại dấu tích nào?” Họ tên để khuyết, vậy xin giỗ ông chung với bà. Mộ ông ở bên Tàu, có còn hay đã san bằng lấy chỗ trồng rau cỏ? Mộ có người giữ gìn ấm cúng hay đã xiêu lạc mồ hoang? Ông hãy yên giấc ngàn thu. Tại Sốc Trăng, chúng tôi vẫn giữ nhang khói đều đều và giỗ quải không sơ sót. Bà sơ (?-?) - Cũng không biết họ tên và không biết luôn năm sanh năm tử, duy nghe dặn lại ngày giỗ là ngày hai mươi lăm tháng chạp. Nhờ một chi tiết nhỏ có thể truy nguyên năm mất là Ba tôi có nói bà từ trần đúng năm ông nội chúng tôi được mười lăm tuổi đầu. Vả chăng ông nội tôi sanh năm 1848. Cộng thêm mười lăm năm nữa là năm 1863. Ba tôi kể lại lịch sử của bà chỉ có chạy giặc: hết giặc Thổ dậy đến giặc Tây qua lấy nước. Việc nầy trùng hợp, vì năm Tây xâm chiếm ba tỉnh Miền Tây đúng là năm 1862. Tội nghiệp bà chạy mãi thở chưa hết mệt, kế bà gặp một trận bão to bồi tiếp. Thân già sức mòn, tài nào chịu nổi? Phần thì lạnh, phần thì sợ, phần thiếu thuốc men, thiếu săn sóc, nên bà sơ chúng tôi tất hơi thở trong cảnh hãi hùng, duy bà khỏi thấy nước nhà mất độc lập, lọt vào tay Tây. Chị em bà cả thảy bốn người: bà là chị cả, kế là mẹ vợ ông Châu Đức, kế nữa là mẹ ông Lưu Hỷ, và út chót là mẹ vợ xã Sức. Con của Số là xã Kóln, người nầy có lập một gánh hát dù kê tức hát cải lương Khmer. Như vậy chi ngoại nầy có một nhánh trở về nguồn, trở lại Khmer. Đó là những gì Ba tôi thuật lại về bốn chị em của bà sơ chúng tôi, còn họ tên là gì, Ba tôi cũng không biết. Nay mộ của bà vẫn nằm lên sở đất của mẹ vợ ông Châu Đức. Cuộc đất giồng (cương) nầy, Thổ gọi sốc Phno Tin, cách xa chợ Sốc Trăng độ bảy tám cây số ngàn. Phải chăng đây là vị trí xóm xưa bà ở? Phải chăng đây là quê ngoại của ông nội chúng tôi? Năm trước đây, nhơn dịp lễ Thanh Minh, tôi có về tảo mộ thì thấy thì thấy cuộc đất nầy đã thay đổi chủ. Con cháu ông Châu Đức đã sang nhượng cho một Huê kiều tên là Xiều (Thiều). Ông nầy lập nơi đây một sanh phần vĩ đại, may sao ngôi mộ lúp xúp của bà sơ chúng tôi không án, nên được chủ đất mới để nằm yên chỗ cũ. Không như các mộ tổ tiên khác chôn nơi Trường đua, vốn là đất nghĩa địa thí, nhưng đến năm 1964, chánh quyền cần mở rộng sân phi trường và ra lịnh sung công, buộc lòng chúng tôi phải hốt cốt đem về đất nhà nơi miếng rẫy sau chùa bà Tu Định, đường cũ đi Bạc Liêu, an táng lại. Phen nầy cầu xin nằm đó được vĩnh viễn. Mời các bạn đón đọc Hơn Nửa Đời Hư của tác giả Vương Hồng Sển.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Cuốn Sách Và Tôi
Quyển “Thú chơi sách” của nhà văn – học giả Vương Hồng Sển được in năm 1960 và cái tên sách đó đã trở nên quen thuộc với nhiều người, nhiều thế hệ. Ngày hôm nay, tức đúng 50 năm sau lần in đầu của “Thú chơi sách” - khi mà cụ Vương cũng đã ra người thiên cổ từ lâu - một di cảo đặc biệt của ông được xem như “Thú chơi sách, quyển 2”, với nhan đề Cuốn sách và tôi được xuất bản. Có lẽ điều này cũng gây nên một cảm xúc đặc biệt đối những độc giả mong đợi nó từ lâu. Còn với những bạn đọc trẻ, cuốn sách này chắc hẳn là một “món ăn tinh thần” mới lạ, bổ ích.       Cụ Vương Hồng Sển viết Cuốn sách và tôi trong năm 1984, như là một sự “tỏ bày cảm tình riêng với sách” - trút hết nỗi lòng, kinh nghiệm viết và đọc sách; một chút tiếc nuối cho những cuốn sách có số phận long đong, cũng như cho bản thân ông không còn nhiều thời giờ để lang thang trong thế giới bao la khôn cùng của sách... Những ghi chép của ông về thú chơi sách bao giờ cũng gắn với một kỷ niệm nào đó trong quá khứ, chuyện riêng tư lẫn câu chuyện chung của thời cuộc (như chuyện “thu gom sách” vốn gây tranh luận một thời), dẫu đã xa xôi nhưng khi đọc lại vẫn khiến chúng ta bâng khuâng không ít... Với cụ Vương Hồng Sển, chơi sách cũng như những thú chơi khác, vẫn thường có những lúc thăng trầm, và người chơi tùy cảnh tùy thời phải biết cách giữ cho lửa say mê không tắt, và với một người chơi có lòng đam mê thực thụ thì cho dù hoàn cảnh nào họ vẫn tìm thấy được lạc thú. Cũng vì cái tình yêu sâu đậm đó, mà qua thời gian, thú chơi sách của cụ Vương đã được nâng lên thành một nghệ thuật, với tất cả sự sâu thẳm của nó. Trong nghệ thuật chơi sách của ông, có thể thấy được sự hòa trộn của tính tài tử (chơi sách) và tính bác học (đọc sách). Ông thường đánh máy những đoạn văn, những sử liệu từ nhiều loại sách đông tây kim cổ, lưu lại phòng khi sách bị mất hay thất lạc; lúc rỗi rảnh, ông lại dịch ra tiếng Việt, vừa thỏa cái thú văn chương, vừa để nhẩn nha thưởng thức...; nhờ vậy mà chúng ta lại có cơ hội đọc được những bài tuyệt hay chứng tỏ trong lĩnh vực dịch thuật ông cũng là một bậc thầy. Với Cuốn sách và tôi, cụ Vương Hồng Sển không chỉ dâng hiến sự hiểu biết của mình về nhiều mặt của đời sống, mà còn mang theo những hương xưa độc đáo, tràn trề xúc cảm qua từng trang viết - văn chương của ông giản dị, tự nhiên mà lôi cuốn vô cùng, - một lối hành văn duyên dáng lạ lùng và luôn luôn gây bất ngờ. Trước khi xuất bản tác phẩm này, chúng tôi đã làm việc rất cẩn trọng nhằm giữ lại hầu như nguyên văn di cảo của cụ Vương, từ văn phong rất riêng biệt cho tới những từ ngữ xưa mà ngày nay ít người dùng đến, thiết nghĩ đó cũng là một cách để bảo tồn những vốn quý (phong vị cũ) của tiếng nói Việt Nam. Chúng tôi xin trân trọng giới thiệu tập di cảo Cuốn sách và tôi với mong ước chia sẻ cùng bạn đọc một phần nhỏ di sản tinh thần mà cụ Vương Hồng Sển để lại. Tháng 3 năm 2010 *** Vương Hồng Sển (1902 - 1996), tên thật là Vương Hồng Thạnh hay Vương Hồng Thịnh (khi làm giấy khai sinh bị viết nhầm là Sển, vì đọc theo cách phát âm tiếng Triều Châu của người Quảng Đông, Trung Quốc). Ông sinh tại Sóc Trăng, mang dòng máu Việt, Hoa, Khmer, là một nhà văn, học giả, nhà sưu tập đồ cổ nổi tiếng; được xem là người có hiểu biết sâu rộng về miền Nam và rất được kính trọng trong giới sử học và khảo cổ ở Việt Nam. Thời học sinh, ông học tại trường Collège Chasseloup Laubat (nay là trường Phổ thông trung học Lê Quý Đôn). Sau khi đậu bằng Brevet Elémentaire, ông làm công chức ngạch thư ký và phục vụ nhiều nơi từ năm 1923 đến năm 1943, trong đó có dinh Thống đốc Nam Kỳ (1939-1943). Từ năm 1948, ông làm Quyền quản thủ Viện Bảo tàng Quốc gia Việt Nam tại Sài Gòn cho đến khi về hưu vào năm 1964. Thuở nhỏ ông thích tìm hiểu về đồ cổ. Sau khi về hưu, ông chuyên sưu tập các loại sứ gốm cổ, khảo cổ về hát bội, cải lương và cộng tác với đài Phát thanh Sài Gòn. Ngoài ra, ông còn khảo cứu về các trò chơi cổ truyền: đá dế, chọi gà, chọi cá, chơi chim, trồng kiểng, nghệ thuật chơi cổ ngoạn, nghiên cứu về chuyện tiếu lâm. Những ai muốn nghiên cứu về lịch sử miền Nam thế kỷ XX chắc hẳn sẽ tìm thấy trong các tác phẩm của ông những nguồn tài liệu bổ ích. Một số tác phẩm có giá trị của ông có thể kể đến: Thú chơi sách (1960); Sài Gòn năm xưa (tập I, II 1960, III 1992); Hồi ký 50 năm mê hát (1968); Phong lưu cũ mới (1970); Thú xem chuyện Tàu (1970);  Thú chơi cổ ngoạn (1971); Chuyện cười cố nhân (1971); Khảo về đồ sứ cổ Trung Hoa (1972); Cảnh Ðức trấn đào lục (1972);... (1993); Tạp bút năm Quý Dậu (1993); Tự vị tiếng Việt miền Nam (1994); Nửa đời còn lại (1995); ... Mời các bạn đón đọc Cuốn Sách Và Tôi của tác giả Vương Hồng Sển.
Tạp Bút Năm Quí Dậu 1993
Ông Vương Hồng Sển sống từ đầu thế kỷ 20 là người rất hiếu học, là người sinh trưởng ở SÓc Trăng mà dân số ở miền quê hầu như cô lập, tự túc tự cấp lại may mắn là gia đình tương đối khá giả, thêm học giỏi nên lần hồi học ở Sài Gòn - bấy giờ là chuyện lớn, một tỉnh có mấy người được như vậy, nhất là trường Bổn quốc Chasseloup-Laubat (nay là Lê Quí Đôn) dành cho người Pháp, Pháp tịch hoặc người Việt có thân thế. Buổi ấy, phải là giáo sư giỏi như Diệp Văn Cương, Nguyễn Văn Mai…; và học sinh có y phục riêng. Ra trường, ông S. kiếm sở làm thật nhanh, thường là làm thơ ký “có máu mặt”, làm trực tiếp với một trưởng phòng người Pháp. Ông nói tiếng Pháp dòn dã, sau nầy ở Sài Gòn ông đã hưu, ông vẫn nói thao thao bất tuyệt cho cử tọa người Pháp nghe về phong tục Á Đông và Việt Nam… Những bài ngắn trong quyển nầy quá đa dạng, khó đúc kết nhưng ta có thể tạm kết luận rằng ông là người có cá tính rất mạnh khỏe: giữ ý kiến mình tận cùng. Vì thích sưu tầm đồ cổ mà ông gọi là “cổ ngoạn”, ông theo dõi sâu sắc nhiều vấn đề chuyên môn mà giới nghiên cứu người Âu lắm khi cho là tủn mủn nhưng khá quan trọng đối với người Việt Nam. Tạp Bút Năm Quý Dậu 1993 được cụ Vương Hồng Sển viết như trăng trối, có khi chỉ là những chuyện lụn vụn, “tào lao”, “loạn xà ngầu”, nhưng với người đến sau, nó mang một giá trị to lớn, chất chứa những niềm say mê, và quyến rũ… bởi đó là những âm thanh của cuộc biến động ngoài xã hội được vọng lại, dồn nén, rồi bật ra thành lời… Là một người rất khoa học trong tổ chức công việc, cụ Vương Hồng Sển ghi chép vào sổ tay những số liệu của đời sống riêng và chung, từ chi tiết lặt vặt như giá mua một bộ đồ trà, cho đến những chuyện lớn như Nguyễn Du đi sứ năm nào và Truyện Kiều ra đời vào năm nào… Những chi tiết được xâu chuỗi tài tình khiến người đọc như bị thôi miên và thỉnh thoảng giựt mình vì những khám phá mới lạ. Ông cũng là một nghệ sĩ tài hoa và dày dạn kinh nghiệm (với cả một chút cực đoan) trong việc thể hiện cảm xúc lên trang giấy. Điều này đã làm nên một phong cách rất đặc biệt, có thể nói là “độc nhất”. Cái lối viết vừa ngang tàng, vừa say sưa, vừa mềm mại uyển chuyển, luôn hút mắt người đọc! *** Vương Hồng Sển (1902 - 1996), tên thật là Vương Hồng Thạnh hay Vương Hồng Thịnh (khi làm giấy khai sinh bị viết nhầm là Sển, vì đọc theo cách phát âm tiếng Triều Châu của người Quảng Đông, Trung Quốc). Ông sinh tại Sóc Trăng, mang dòng máu Việt, Hoa, Khmer, là một nhà văn, học giả, nhà sưu tập đồ cổ nổi tiếng; được xem là người có hiểu biết sâu rộng về miền Nam và rất được kính trọng trong giới sử học và khảo cổ ở Việt Nam. Thời học sinh, ông học tại trường Collège Chasseloup Laubat (nay là trường Phổ thông trung học Lê Quý Đôn). Sau khi đậu bằng Brevet Elémentaire, ông làm công chức ngạch thư ký và phục vụ nhiều nơi từ năm 1923 đến năm 1943, trong đó có dinh Thống đốc Nam Kỳ (1939-1943). Từ năm 1948, ông làm Quyền quản thủ Viện Bảo tàng Quốc gia Việt Nam tại Sài Gòn cho đến khi về hưu vào năm 1964. Thuở nhỏ ông thích tìm hiểu về đồ cổ. Sau khi về hưu, ông chuyên sưu tập các loại sứ gốm cổ, khảo cổ về hát bội, cải lương và cộng tác với đài Phát thanh Sài Gòn. Ngoài ra, ông còn khảo cứu về các trò chơi cổ truyền: đá dế, chọi gà, chọi cá, chơi chim, trồng kiểng, nghệ thuật chơi cổ ngoạn, nghiên cứu về chuyện tiếu lâm. Những ai muốn nghiên cứu về lịch sử miền Nam thế kỷ XX chắc hẳn sẽ tìm thấy trong các tác phẩm của ông những nguồn tài liệu bổ ích. Một số tác phẩm có giá trị của ông có thể kể đến: Thú chơi sách (1960); Sài Gòn năm xưa (tập I, II 1960, III 1992); Hồi ký 50 năm mê hát (1968); Phong lưu cũ mới (1970); Thú xem chuyện Tàu (1970);  Thú chơi cổ ngoạn (1971); Chuyện cười cố nhân (1971); Khảo về đồ sứ cổ Trung Hoa (1972); Cảnh Ðức trấn đào lục (1972);... (1993); Tạp bút năm Quý Dậu (1993); Tự vị tiếng Việt miền Nam (1994); Nửa đời còn lại (1995); ... Mời các bạn đón đọc Tạp Bút Năm Quí Dậu 1993 của tác giả Vương Hồng Sển.
Dỡ Mắm
Trong cuốn sách này, Vương Hồng Sển viết về nhiều sự kiện và con người - kéo dài từ thời Pháp thuộc cho đến thời điểm 1983. Các nhân vật “có máu mặt” như các quân vương, toàn quyền, thống đốc, các kỹ nữ, ngôi sao màn bạc, các thường nhân của dĩ vãng hiện lên sống động qua hồi ức và tư liệu mà tác giả lưu giữ được. "Ngồi buồn dở mắm nhau ra Mắm ông thì thúi mắm bà không thơm Tục đã sẵn câu: "Mắm ngon chi lắm cũng có giòi". biết kinh nghiệm, chịu khó vớt giòi ra là ăn được rồi. Thuở nay, ai chết không thành giòi? Giòi là hậu kiếp của con người, sạch hay dơ đều hóa giòi một thứ. Trước sau cũng phải thành giòi thì há dám lời nào? Nhưng tập này, dặn lại, khi chết rồi mới được in hay làm gì thì làm. Vậy, mạnh dạn cứ viết. Có người nào khi đọc không bằng lòng, dẫu trách cứ, S. vẫn không nghe, vì còn ở đây đâu nữa mà nghe!" (Vương Hồng Sển) *** Vương Hồng Sển (1902 - 1996), tên thật là Vương Hồng Thạnh hay Vương Hồng Thịnh (khi làm giấy khai sinh bị viết nhầm là Sển, vì đọc theo cách phát âm tiếng Triều Châu của người Quảng Đông, Trung Quốc). Ông sinh tại Sóc Trăng, mang dòng máu Việt, Hoa, Khmer, là một nhà văn, học giả, nhà sưu tập đồ cổ nổi tiếng; được xem là người có hiểu biết sâu rộng về miền Nam và rất được kính trọng trong giới sử học và khảo cổ ở Việt Nam. Thời học sinh, ông học tại trường Collège Chasseloup Laubat (nay là trường Phổ thông trung học Lê Quý Đôn). Sau khi đậu bằng Brevet Elémentaire, ông làm công chức ngạch thư ký và phục vụ nhiều nơi từ năm 1923 đến năm 1943, trong đó có dinh Thống đốc Nam Kỳ (1939-1943). Từ năm 1948, ông làm Quyền quản thủ Viện Bảo tàng Quốc gia Việt Nam tại Sài Gòn cho đến khi về hưu vào năm 1964. Thuở nhỏ ông thích tìm hiểu về đồ cổ. Sau khi về hưu, ông chuyên sưu tập các loại sứ gốm cổ, khảo cổ về hát bội, cải lương và cộng tác với đài Phát thanh Sài Gòn. Ngoài ra, ông còn khảo cứu về các trò chơi cổ truyền: đá dế, chọi gà, chọi cá, chơi chim, trồng kiểng, nghệ thuật chơi cổ ngoạn, nghiên cứu về chuyện tiếu lâm. Những ai muốn nghiên cứu về lịch sử miền Nam thế kỷ XX chắc hẳn sẽ tìm thấy trong các tác phẩm của ông những nguồn tài liệu bổ ích. Một số tác phẩm có giá trị của ông có thể kể đến: Thú chơi sách (1960); Sài Gòn năm xưa (tập I, II 1960, III 1992); Hồi ký 50 năm mê hát (1968); Phong lưu cũ mới (1970); Thú xem chuyện Tàu (1970);  Thú chơi cổ ngoạn (1971); Chuyện cười cố nhân (1971); Khảo về đồ sứ cổ Trung Hoa (1972); Cảnh Ðức trấn đào lục (1972);... (1993); Tạp bút năm Quý Dậu (1993); Tự vị tiếng Việt miền Nam (1994); Nửa đời còn lại (1995); ... Mời các bạn đón đọc Dỡ Mắm của tác giả Vương Hồng Sển.
Chuyến Đi Bắc Kỳ Năm Ất Hợi 1876
Trong sự nghiệp trứ tác của Trương Vĩnh Ký, Chuyến đi Bắc Kỳ năm Ất Hợi (1876)[4] là tác phẩm có ý nghĩa đặc biệt hơn cả. Cuốn sách này được ông xuất bản vào năm 1881, sau chuyến ra Bắc trước đó 5 năm; một chuyến đi gây nhiều hệ lụy cho (thanh danh) họ Trương và làm hao tổn không biết bao nhiêu giấy mực của giới nghiên cứu. Trong khối sách đồ sộ của ông, gồm đủ chủng loại (sáng tác, biên khảo, dịch thuật…) bằng nhiều ngôn ngữ (Việt, Hán, Bồ, Pháp…), quy mô tác phẩm này rất khiêm tốn, chỉ hơn ba chục trang in; những nhân vật, sự việc được nhắc đến trong sách cũng rất rõ ràng; đại để nội dung nói chuyện thăm viếng thường tình… Ấy thế mà nó lại là điểm xuất phát (và cũng là bằng cứ) cho những cuộc tranh cãi bất phân thắng bại kéo dài từ đầu thế kỷ XX cho đến tận ngày nay. Có một thực tế là lâu nay, khi tìm hiểu về cuộc đời và sự nghiệp của Trương Vĩnh Ký, giới nghiên cứu luôn gặp phải tình cảnh trớ trêu mà như có người nói, là bị một thứ “sương mù” bao phủ lên, làm nhòe mờ đi. Ông luôn bị người đời nhìn nhận bằng một thái độ nghi ngại, dè dặt. Thư tịch, tài liệu nghiên cứu về ông không hiếm, thế nhưng sự thật trong đó thường không mấy đảm bảo; khá nhiều thông tin liên quan đến Trương Vĩnh Ký bị khúc xạ theo một hướng nào đó. Chuyến đi Bắc Kỳ năm Ất Hợi (1876) là một trường hợp như thế. Tác phẩm này, thậm chí còn được trưng dẫn để chứng minh cho hành vi làm “Việt gian” của họ Trương. Vấn đề đặt ra ở đây là, Chuyến đi Bắc Kỳ năm Ất Hợi (1876) cần được hiểu như thế nào? Giá trị đích thực của tác phẩm này là gì? Theo dõi những cuộc tranh luận về Trương Vĩnh Ký lâu nay, dễ dàng nhận ra một điều: ảnh hưởng của các loại thiên kiến (thậm chí là định kiến), đã chi phối rất nhiều đến nhận thức của nhà nghiên cứu về đối tượng. Mà điều này lại liên quan mật thiết đến cái gọi là “điểm nhìn” (point of view) của nhà khoa học. Rút cuộc, điểm mấu chốt trong sự khác biệt giữa các loại ý kiến khi đánh giá về danh nhân Trương Vĩnh Ký nói chung, Chuyến đi Bắc Kỳ năm Ất Hợi (1876) nói riêng, lại xuất phát từ quan điểm tiếp cận. Khi tìm hiểu các công trình, bài viết liên quan đến Chuyến đi Bắc Kỳ năm Ất Hợi (1876), chúng tôi rất ngạc nhiên khi nhận thấy hầu như chưa bao giờ người ta coi đó là một tác phẩm văn học đúng nghĩa; trong khi nó lại là một cột mốc thực sự của lịch sử văn học, xét trên phương diện thể tài. Đây chính là đóng góp quan trọng nhất, thể hiện vị thế của một nhà văn lớn trong quá trình hiện đại hóa văn xuôi – báo chí quốc ngữ. *** Trước tiên, hãy nói về thể tài du ký với tư cách thuật ngữ nghiên cứu văn học. Trong lịch sử văn học – báo chí Việt Nam từ đầu thế kỷ XX trở về trước, những tác phẩm được gọi đích danh là du ký vốn rất hiếm hoi. Có vẻ như Nguyễn Bá Trác [2] là người đầu tiên đã dùng nó một cách tự giác, với dụng ý nhấn mạnh đặc điểm của chủ đề, lối văn trong một tác phẩm được gọi là Hạn mạn du ký. Nguyễn Bá Trác, trong vai một nhà báo, đã thuật lại những gì mình trải nghiệm được từ những chuyến du lịch đến nhiều xứ sở. Thiên bút ký trường thiên này được đăng trên Nam phong tạp chí từ tháng 8 năm 1920 đến tháng 1 năm 1921 với 6 kỳ liên tục. Từ du ký (游 記), theo nghĩa từ nguyên, là ghi chép về “sự đi”, sự xê dịch, thưởng ngoạn cảnh quan xứ lạ. Thế nhưng nội hàm của khái niệm du ký  - một thể tài văn học - thì lại khá phức tạp. Chứng cớ là ngoại trừ bài của Nguyễn Bá Trác ra thì lại có nhiều tác phẩm dù không được gọi du ký nhưng xét về bản chất chúng rất gần gũi nhau. Chẳng hạn, những tập văn xuôi chữ Hán như Thượng kinh ký sự  của Lê Hữu Trác[5]; Bắc hành tùng ký của Lê Quýnh[3]; Tây hành kiến văn kỷ lược của Lý Văn Phức[3]… hoặc những tập văn xuôi quốc ngữ như Sách sổ sang chép các việc của Philipphê Bỉnh[1]; Pháp du hành trình nhật ký, Thuật truyện du lịch Paris, Du lịch xứ Lào của Phạm Quỳnh[2] …Thậm chí, ngay cả đối với Chuyến đi Bắc Kỳ năm Ất Hợi (1876) thì Trương Vĩnh Ký cũng gọi tác phẩm của mình là “truyện” (trang bìa sách tác giả đề Tự thuật vãng Bắc Kỳ truyện - 自 述 往 北 圻 傳). Như vậy, chúng ta dễ dàng nhận ra điểm chung rất quan trọng giữa chúng: lối văn ghi chép từ những chuyến đi. Nếu đối chiếu với văn học Phương Tây, thì thấy rằng trên đại thể, chúng cũng chẳng khác mấy so với lối bút ký lữ hành (travelling notes) một thể văn xuôi tự sự rất thông dụng ở nhiều nước. Nhưng nói thế không có nghĩa mọi tác phẩm viết về lữ hành đều giống hệt nhau. Nếu xét kỹ về phương thức thể hiện thì lại thấy trong cái khối chung này, có nhiều nhóm, loại với những nét đặc thù. Chẳng hạn, đều là “hành trình ký sự” song hình thức lại rất khác nhau; có những văn bản ghi chép tỉ mỉ bằng lối văn xuôi nhật dụng về chuyến đi theo một lịch trình cụ thể (được gọi là “nhật ký”, “nhật trình”); lại cũng có khi tác phẩm được thể hiện dưới dạng thơ trường thiên (Như Tây nhật trình của Trương Minh Ký là một “câu chuyện” dài tới 2000 câu thơ); có trường hợp ghi chép chuyến đi qua hồi ức, một dạng “hồi ký” (Bắc hành tùng ký của Lê Quýnh); lại có cuốn được thể hiện dưới dạng “du khảo” -  thiên về giới thiệu “kiến văn” (Tây hành kiến văn kỷ lược của Lý Văn Phức, Giá Viên biệt lục của Phạm Phú Thứ)[3] … . Nói cách khác, ngay trong bản thân cái gọi là du ký cũng rất đa dạng, không hề thuần nhất chút nào. Như vậy, du ký với tư cách một thể tài văn học, bao hàm trong đó những kiểu dạng tác phẩm có hình thái rất khác nhau. Nét đặc thù của những tác phẩm thuộc thể tài du ký chính là nhận thức của bản thân người viết qua các cuộc viễn du, là sự trải nghiệm lữ hành. Khác với văn học nhiều nước Phương Tây, thể tài du ký ở ta xuất hiện muộn và cũng ít được chú ý. Có nhiều lý do liên quan đến hiện tượng này, nhưng chung quy có lẽ là bởi người Việt vốn e ngại sự di chuyển, chỉ lên đường khi chẳng đặng đừng. Trong quá khứ, không kể hạng người bình dân, ngay đối với các bậc phong lưu cũng thế. Người nông dân phải nhọc nhằn vật lộn mưu sinh, bị ràng níu bởi trăm thứ hữu hình, vô hình, nên không thể có điều kiện để du ngọan đã đành; cả đến văn nhân cũng ít có điều kiện (kể cả nhu cầu) để du ngoạn đúng nghĩa. Cho đến đầu thế kỷ XX mà những người “mê” đi, “có gan” đi như Tản Đà, Nguyễn Tuân… chỉ là hạn hữu. Mà đã ít người đi, ít kẻ dám dấn bước phiêu lãng thì mạch văn chương du ký hạn hẹp, thưa thớt cũng là chuyện dễ hiểu. Trong bối cảnh đó, Chuyến đi Bắc Kỳ năm Ất Hợi (1876) có giá trị vượt hẳn tính chất của một tác phẩm du ký thông thường; nó đánh dấu cho quá trình hiện đại hóa một thể tài, góp phần làm nên bước tiến mạnh mẽ của văn học dân tộc nói chung trên con đường hiện đại hóa chặng cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. *** Tính hiện đại của Chuyến đi Bắc Kỳ năm Ất Hợi (1876) thể hiện qua hai điểm cốt yếu: cảm hứng lữ hành của tác giả và lối văn xuôi rất mới mẻ trong tác phẩm.             Với thiên ký sự này, lần đầu tiên trong mạch văn chương quốc ngữ xuất hiện một tác phẩm thuộc thể tài du ký đúng nghĩa. Nói như vậy là muốn nhấn mạnh đến tính chất của tác phẩm chứ không thuần xét về thời điểm xuất hiện. Bởi nếu so ra thì tác phẩm của Trương Vĩnh Ký không phải sớm nhất; Sách sổ sang chép các việc của Philipphê Bỉnh còn xuất hiện trước đó rất lâu (từ năm 1822). Nhưng dù vậy, dù ra đời sớm hơn nửa thế kỷ, tôi cho rằng cuốn của Philipphe Bỉnh chưa phải là một thiên du ký theo nghĩa hiện đại bởi tính chất du hý, thưởng lãm chưa trở thành ý vị chính yếu của sự đi; nó vẫn thiên về kê biên (sang chép) tư liệu; cái “tôi” lữ khách chưa thực sự nổi bật. Trong khi du ký hiện đại chủ yếu phải là những cái được “sáng tạo” (compose), là câu chuyện của chính du khách (họ là nhân vật chính, nhân vật trung tâm của cuốn sách). Mặc dù so với truyền thống tự sự trong văn chương Việt, cách mở đầu tác phẩm của Philipphe Bỉnh đáng được ghi nhận là một biệt lệ. Ông viết: “Tôi là thầy cả Philip Bỉnh…” – một lối nhập đề rất mới lạ, có thay đổi so với các tác giả trung đại, song bóng dáng của người du khách vẫn rất mờ nhạt, bị khuất hẳn đi sau tư liệu (các việc). Bởi ở đây, “Tôi” cũng không phải “nhân vật” chính, “chuyến đi” cũng không phải đối tượng chính; cái chính ở đây là “việc”. Trương Vĩnh Ký bắt đầu thiên du ký một cách thật giản dị: “Năm Ất Hợi (1876), bái trưởng tham biện vừa xong, vùng tính đi ra Bắc chơi một chuyến cho biết. Trong bụng muốn cũng đã lâu; nên xin với quan trên, nhơn dịp chiếc tàu Duchaffaud đi mà đi. Về sắm hòm rương áo quần. Rủ thầy Ba Hớn với ông Sáu Thìn, nguyên một người ở tỉnh Bắc Ninh, một người ở Sơn Tây mà vào trong Nam Kỳ đã lâu, đi theo trước là cho có bạn, sau nữa là cho họ về thăm quê quán.”. Cái lý do của chuyến đi đơn giản và rõ ràng hết sức: đi cho biết Bắc Kỳ. Mục đích đi để khám phá, tìm hiểu “xứ lạ” của chủ thể ở đây rất khác so với trạng thái bị động của phần đa kẻ lữ hành trong các thiên hành trình ký sự trước đó. Một lối khởi hành mang tính chất lãng tử, tài tử khác hẳn với những chuyến đăng trình rềnh rang nghi thức, tâm trạng ngổn ngang. Cần nhớ chuyến đi được khởi hành vào mùng mười tám tháng Chạp, là lúc đã “năm cùng tháng tận”, sắp cận kề một cái Tết cổ truyền. Thế mà vẫn háo hức lên đường. Sức hút của chuyến đi lấn át hết những vướng bận thường nhật khác. Cái tâm thế phiêu lưu này được bộc lộ rất rõ vào thời điểm tác giả đã hoàn tất chuyến đi theo dự kiến, xuống Hải Phòng để đáp tàu vào Gia Định. Rủi là bị trễ chuyến: “Lỡ dịp đi, buồn bực quá. Nhưng mà cũng chẳng qua là bởi đâu xây khiến cho được biết đất Bắc rõ hơn. (…) Vì vậy qua mồng 3 tháng 2, mới tính ở mà đợi lóng nhóng đó cũng mất công vô ích; chi bằng hồi ngữ về ngã Hương Cảng đi, để chờ dịp tàu sau về ngay Nam Kỳ. Mà bởi không biết chắc ngày nào tàu ra, mới tính đi rông ít ngày qua Nam Định, Ninh Bình, Thanh Hóa, Hưng Yên cho biết xứ ”. Rõ ràng qua đây, cái gọi là “cảm hứng lữ hành” ở họ Trương rất nổi bật; nó được đưa vào trong tác phẩm một cách nguyên vẹn. Cần đặc biệt lưu ý tới cái tâm thế, cảm hứng lữ hành hiện đại này bởi nó sẽ ảnh hưởng rất lớn đến cái gọi là “nhãn quan nghệ thuật” trong tác phẩm. Cái cách nhìn, lối cảm nhận về thế giới thực tại của lữ khách phụ thuộc rất nhiều vào tâm trạng, tâm lý cũng như cái đích nhắm đến của chuyến đi. Bởi vì cảm quan ngoại giới của một du khách sẽ rất khác với cách cảm nhận của một kẻ bộ hành với mục đích mưu sinh, hay một hành nhân tị nạn, hoặc của một kẻ bị lưu đày… Nói khác đi, tâm thế này sẽ ảnh hưởng đến việc lữ khách nhìn thấy cái gì (?), cảm thấy điều gì (?), thu nhận được ý nghĩa gì từ chuyến đi. Đối với Trương Vĩnh Ký, mục đích chuyến du hành này là để thỏa ý thích được đi; và chính đó là tâm thế của “kẻ lữ hành hiện đại”. Thích được trải nghiệm thông qua cảm giác xê dịch là một trong những đặc điểm tâm lý của chủ nghĩa cá nhân (individualism). Bởi đối với con người cá nhân cá thể  hiện đại, đi là để nhận biết và để khẳng định. Câu nói trứ danh của Paul Morand: “Ta muốn sau khi ta chết đi, có người thuộc da ta làm chiếc va li” không chỉ là tuyên ngôn của tín đồ thuộc “giáo phái xê dịch”, mà còn là một nét tâm thức thời đại. Với tâm thế chủ động của kẻ lên đường vì chính “sự đi”, Trương Vĩnh Ký đã thu nhận được nhiều điều lý thú và đưa vào trong thiên du ký. Trong đó, ông đặc biệt chú ý tiếp cận và ký chép kỹ càng về những cuộc tiếp xúc với các nhân vật ở địa phương, các phong tục tập quán và các danh lam thắng tích… đã được tận mắt chứng kiến. Dường như đây cũng chính là những dạng du lịch phổ biến nhất của lữ hành đương đại; được khái quát thành các thuật ngữ có tính chất chuyên ngành như tham quan học tập (study tour), du lịch văn hóa (cultural travel), du lịch sinh thái (ecology travel). Cách tiếp cận đối tượng, cách hành xử trong từng tình huống cụ thể của họ Trương gợi ý cho ta nhiều điều thú vị. *** Trương Vĩnh Ký kể lại trong Chuyến đi Bắc Kỳ năm Ất Hợi (1876) một cách ngắn gọn song khá đầy đủ về những cuộc tiếp xúc với rất nhiều nhân vật ở Bắc Kỳ. Mật độ các cuộc thù tiếp dày đặc. Đối tượng rất phong phú, thuộc nhiều “tip” người khác nhau, sang hèn đủ kiểu dạng. Trong số này, có 3 nhóm người được ông thuật lại khá tỉ mỉ: giới chức người Pháp, quan lại Nam triều, chức sắc nhà thờ. Điều oái oăm là, chính những cuộc tiếp xúc này đã dẫn đến những rắc rối cho ông; dư luận phán xét về hành vi này của ông khá nặng nề; nhiều nghi vấn về mục đích thực sự của chuyến đi Bắc Kỳ được đặt ra. Những đồn đoán về hành tích họ Trương kéo dài dai dẳng lâu nay một phần cũng từ đây mà ra. Nhiều ý kiến cho rằng chuyến ra Bắc của ông, du lịch chỉ là cái cớ, cái vỏ che đậy một sứ mạng chính trị quan trọng. Sứ mạng đó là gì thì chưa ai chứng minh được; thế nhưng người ta cho rằng với những cuộc tiếp kiến bất kể ngày đêm diễn ra liên tục trong suốt thời gian ông ở Bắc Kỳ, và nhất là với hầu hết những nhân vật quan yếu của chính quyền lẫn nhà thờ thì hẳn nhiên nó phải bất thường. Tất nhiên, bàn luận thị phi là quyền của dư luận. Song có một thực tế là cho đến bây giờ, cái điều bí mật được che đậy từ chuyến ra Bắc của Trương Vĩnh Ký là gì vẫn là một câu hỏi. Phải chăng dư luận đã quá khắt khe với ông? Và con người này có đáng bị trùm cho một cái nghi án mơ hồ như thế không? Thực ra, cái sự khác thường ở đây nếu có chăng, chỉ là chỗ các nhân vật mà họ Trương tiếp xúc đều thuộc diện “kẻ sang”; và quả thực, có gì đó như là một sự hâm mộ, trọng thị (đôi khi hơi quá đáng) mà người xứ Bắc dành cho ông. Nhưng nếu ngẫm kỹ, cũng chả có gì đáng gọi là bất thường ở đây. Trương Vĩnh Ký vốn là người tiếng tăm lừng lẫy, quảng giao, lại từng trải ở những vị thế đặc biệt (giám đốc trường thông ngôn, chủ bút Gia Định báo…); uy danh của ông đâu chỉ vang dội trong xứ Annam(!). Vậy thì việc họ Trương - một danh sĩ đến từ Xứ Nam Kỳ vào dịp tống cựu nghênh tân này rất đáng được coi là sự kiện lớn; rộn ràng thù tạc cũng chả có gì khác thường cả. Vả chăng, nhìn vào lịch trình thăm viếng của ông kể cũng khó chỉ ra chỗ ám muội. Ngoại trừ hai cuộc viếng thăm lãnh sự Pháp ở Hải Phòng, Hà Nội (tác giả dùng chữ “thăm”, không rõ có liên quan gì đến bổn phận của một công dân khác xứ không), còn lại đều là những cuộc tiếp kiến đầy ngẫu hứng, không hẹn trước. Và Trương Vĩnh Ký tỏ ra rất hứng thú với những cuộc hàn huyên, đàm đạo này. Ngay cuộc tiếp kiến các đức thầy, cha cố, chức dịch nhà thờ… cũng là những cuộc gặp ngẫu nhiên của một du khách ưa giao du, muốn học hỏi. *** Phần chủ yếu trong cuốn sách, Trương Vĩnh Ký dành để ghi chép về những điều trải nghiệm được từ thực tế. Danh sách những thắng tích, cảnh quan Bắc Hà ở đây thật phong phú: Chùa Nguyễn Đăng Giai, Hồ Hoàn Gươm, Đền Kính Thiên, Cột cờ, Đền Công, Ông Thánh Đồng Đen, Chùa Một Cột, Hồ Tây, Văn Thánh Miếu… Có điều lý thú là với thói quen cố hữu của một nhà khoa học, ông tiếp cận cảnh vật theo cách riêng của mình; quan sát và ghi chép như một nhà khảo cứu đang tiếp cận tư liệu hơn là một du khách. Những con số, lời bình, chú giải về địa danh, địa bạ, lịch sử… của họ Trương rõ là thao tác của một nhà nghiên cứu chuyên nghiệp. Đây là một đọan ghi chép về Thổ sản đất Hà Nội: “Lúa: lúa dê (duy), lúa thông, lúa dự, lúa lem bông, lúa trĩ, lúa hương, lúa thầy đường, lúa bạch canh. Nếp: nếp bông vàng, nếp răng ngựa, nếp ruồng, nếp cau, nếp trái vải, nếp đuôi chồn, nếp ngọc thục… Tơ, bông cán, hàng đoạn bông (phường Thọ Xương, kiên liên dệt), trừu bông (Từ Liêm), hàng lượt, lãnh bóng, lượt bùng, the rây, lụa bông, lụa trắng, thao, vải trắng, the làn, xuyến, láng gốc… Cây hội (giấy viết sắc), các thứ giấy, quạt trúc, nón nan; ngói gạch, nồi đất (đồ gốm); trà, muối diêm, mật ui, đường hạ; vôi đá, bánh phục linh, trôi nước, xôi bông đường, bánh mì khoai, rượu trắng; khoai lang mộng, khoai sáp, khoai mài, khoai tím, khoai ngọt; củ sắn, củ đậu ,củ nần, củ huỳnh tinh, xoài, mít, nhãn, hồng thơm, hồng đỏ….” Quả là không dễ để có thể kê biên một cách chi li từng giống lúa khoai, loại lụa là, thức dùng… với hàng chục tên gọi khác nhau như thế nếu không có con mắt và cái trí của nhà bác học, ham hiểu biết, rất lịch lãm. Trong cái cách kể lể, liệt kê này, ta dễ nhận thấy trạng thái háo hức, mê đắm, tập trung của Trương Vĩnh Ký. Một cái nhìn hờ hững, một sự phân tâm của chủ thể không bao giờ tạo tác được những trang tư liệu về phong thổ như vậy. Một đoạn ghi chép về phong tục xứ Bắc chứng tỏ cái nhìn hết sức tỉ mỉ, từng trải của tác giả: “Trong tứ dân đều có chuyên nghề cả, mà nông thì hội hơn. Chốn Thiềng Thị thì công thương tụ, có lộn Ngỏ Khách. Đàn ông còn trai hay ngồi quán ngồi lều trà rượu ăn chơi, còn việc cày cấy thì nhờ đàn bà con gái làm. Đàn ông ăn mặc cũng thường, diêu áo vấn tới đầu gối, đầu hay đội nón ngựa, bịt khăn đen. Đàn bà mặc áo có thắt lưng làm bìu (bọc), yếm đỏ, không gài nút nịt, nút vai thả không ra mà thôi, đầu đội nón giàu (ba tầm), lớn gần bàng cái nia, hai bên có hai quai tụi vấn toòng teng, đầu vấn ngang, lấy lượt nhiễu vấn tóc mà khoanh vấn theo đầu. (có một làng Kẻ Lòi có đàn bà bới tóc); Dưới mặc váy, chân đi dép sơn; nước da mịn màng trắng trẻo, má hồng, da ửng, gót son, phốp pháp người; răng nhuộm đen cánh gián. Thói trật áo thắt lưng là nhơn bởi trời đông thiên rét lạnh; đàn bà có con, cho bú một lần phải mở nhiều áo khó lòng, nên để luôn như vầy. Còn thắt lưng thì cũng là vì lạnh; con gái thấy vậy cũng bắt chước làm theo, mùa nào mùa nấy cũng để luôn như vậy mà thành tục.” Điều thú vị trong phần nói về phong tục không chỉ ở những thông tin mà còn ở lời nhận xét, bình luận. Quan sát, ghi nhận và bình phẩm, giải thích về các phong tục tập quán một cách tinh tế nhưng cũng rất hóm hỉnh là một đặc điểm nổi trội trong thiên du ký này. *** Chuyến đi Bắc Kỳ năm Ất Hợi (1876) được xuất bản vào năm 1881, thời điểm văn xuôi quốc ngữ đang ở chặng thử nghiệm, thế mà lạ thay, nó lại mang một dáng vẻ hiện đại đến khó tin. Chả cần phải đối sánh với những truyện thơ Nôm, văn xuôi chữ Hán cùng thời, hãy cứ so với phần lớn những tác phẩm văn xuôi quốc ngữ ra đời mấy chục năm sau nữa nhưng vẫn chưa thoát khỏi giọng biền ngẫu, đăng đối cổ kính… sẽ thấy văn Trương Vĩnh Ký hiện đại thế nào. Dưới đây là đọan kể chuyến du ngọan Động Từ Thức ở Thanh Hóa, đọan văn có lẽ là hay nhất trong toàn bộ tác phẩm: “Hang Từ Thức ở tại xã Trị Nội, tổng Kiều Vịnh, huyện Nga Sơn, phủ Hà Trung. Đi đến đó phải đi qua cái đèo, rồi đi vòng lại bên tả mới tới miệng hang. Chỗ ấy kêu là Từ Thức động hay là Bích Đào động. Ở ngoài có cái miễu nhỏ nhỏ, nơi cửa động có chữ đề khắc vô đá. Vào trong phải có đuốc, vô trong nó rung rinh, có chỗ có đường như cột đá; dưới chân, chỗ thì có đá viên tròn vo bằng viên đạn cũng nhiều, nhỏ hơn nữa cũng nhiều, có chỗ thì đầy những đá đen cục hòn mà thành hình như trái mảng cầu khô; còn có chỗ lại có đá ra hình bàn ghế, mòn trơn có vân có hoa như chạm trổ vậy. Trên đầu ngó lên thấy thạch nhũ như là màn treo có thể bỏ xuống, trong đá coi nhấp nháng sáng ngời như kim sa. Hết bùng binh nầy tới bùng binh khác. Sau hết xuống tới cổ kiềng là cái miệng xuống hang dưới nữa, nó như miệng giếng, phải nghiêng mình lận theo thì xuống mới đặng; dưới đáy hết thì có cái như cái ao bèo cám lênh láng. Đi hồi giờ thứ 6 đến giờ thứ 8 rưỡi mới tới nơi.” Đoạn văn trần thuật rất sinh động; lời dẫn rất tự nhiên, nhưng không dễ dãi mà chừng mực; đủ để bao quát hết được các hành vi. Khả năng làm chủ ngôn từ của họ Trương rất đáng nể. Các từ dùng mô tả rất chính xác, gợi liên tưởng. Đây đúng là lối văn “như lời nói thường”, bằng thứ tiếng “Annam ròng” mà họ Trương từng ao ước; một lối văn thoát ra khỏi cái trường ước lệ của thi ca, cái khuôn sáo của văn chức năng, nhật dụng. Có rất nhiều đọan, người đọc bị cuốn hút không chỉ vì được đồng hành, dõi theo quá trình thưởng lãm các cảnh trí, mà còn lây cái hóm hỉnh, vui nhộn trong cách diễn đạt của tác giả. Đây là đọan ở Ninh Bình :  “Đến đó xuống cáng để đi chân mà coi chơi cho biết, cho cáng đi không. Qua khỏi Tam Điệp rồi tới quán Cháo, ra tới quán Gành vừa tối, nên ở lại quán ngủ đó một đêm. Giờ thứ tư sáng ở quán Gành cất ra đi, khỏi quán Sanh, Ba Vuông rồi mới tới tỉnh Ninh Bình. Dọc đường đi ngó thấy tại đất bàng có nhiều cái hòn núi nhỏ riêng nhau ra từng cái, dường như núi cảnh, như non bộ đất vậy. Đi riết giờ thứ 8 rưỡi tới tỉnh vào trọ nhà bà Phó Vàng là người có đạo ở gần tỉnh. Nghỉ ngơi, cơm nước đó một lát, kế lấy trong tỉnh quan tuần phủ tên là Đặng Xuân Toán cho ông lãnh binh ra mời vô thành chơi, (giờ thứ 41). Xách dù đi có đem ông Kỳ đi theo vào thành, thiên hạ nghe tiếng người Gia định rùng rùng kéo nhau đi coi, lớp kia lớp nọ đông nức. Vào thành rồi, nó còn làm hỗn leo trèo mà coi, thì quan lãnh binh phải đóng cửa thành lại. Thăm ông tuần rồi, có quan án đó (Đồng Sĩ Vịnh) lại mời luôn về dinh. Khi từ giã ra về, người có đem tiễn chân 2 bình trà với 20 quan tiền.” Đúng thật là lối ngao du tùy hứng; không câu nệ, chả cần lịch trình; gặp gỡ, nghỉ ngơi theo ý thích. Và ngẫm ra kiểu đi “phượt”, “du lịch bụi” ngày nay của giới trẻ, cũng như cái dòng mạch văn chương du khảo đang phát triển rầm rộ trong văn học Việt thời gian gần đây không phải là không thừa hưởng được chút gì từ chuyến đi năm ấy của Trương Vĩnh Ký. *** Chuyến đi Bắc Kỳ năm Ất Hợi (1876) của Trương Vĩnh Ký là cuốn sách có nhiều giá trị. Nó không chỉ là một tài liệu quý báu trong lĩnh vực nghiên cứu quốc học, tìm hiểu về đất nước, con người, văn hóa Việt mà còn chứa đựng những thông tin đáng tin cậy để nghiên cứu về chính cuộc đời và sự nghiệp, tư tưởng chính trị và học thuật của Trương Vĩnh Ký, một danh nhân văn hóa tầm cỡ thế giới. Xét trên bình diện văn học, Chuyến đi Bắc Kỳ năm Ất Hợi (1876) cũng là một tác phẩm rất đáng chú ý của Trương Vĩnh Ký. Tính chất hiện đại, mới mẻ được bộc lộ rất rõ ràng thông qua cảm quan, giọng điệu, ngôn từ, cấu trúc của tác phẩm. Đây là dấu mốc quan trọng đánh dấu sự phát triển của thể tài du ký hiện đại trong văn học Việt Nam. Thiên du ký này là bằng chứng cụ thể về những đóng góp hữu ích của ông cho quá trình hiện đại hóa văn học dân tộc. ---------------------------- TÀI LIỆU THAM KHẢO [1]. Philipphê Bỉnh (1968, Thanh Lãng soạn, giới thiệu), Sách sổ sang chép các việc, Học viện Đà Lạt xuất bản. [2]. Du ký Việt Nam - tạp chí Nam Phong, 1917-1934 (2007, Nguyễn Hữu Sơn sưu tầm, giới thiệu), Nxb Trẻ, TP Hồ Chí Minh. [3]. Nguyễn Đăng Na (2001), Văn xuôi tự sự Việt Nam thời trung đại, tập II, NXB Giáo dục, Hà Nội. [4]. Trương Vĩnh Ký (1881), Chuyến đi Bắc kỳ năm Ất Hợi (1876), Bản in Nhà hàng C. GUILLAND ET MARTINON, SAIGON. [5]. Lê Hữu Trác (1971, Phan Võ dịch), Thượng kinh ký sự, NXB Văn học, Hà Nội. ................................... (*)  Nguyễn Phong Nam: PGS-TS. Đại học Đà nẵng - Thành viên Ban điều hành Nhóm Văn học Việt. *** I. CHUYẾN ĐI BẮC-KỲ NĂM ẤT-HỢI Năm ất hợi (1876), bãi trường tham-biện vừa xong, vùng tính đi ra Bắc chơi một chuyến cho biết. Trong bụng muốn cũng đã lâu ; nên xin với quan trên, nhơn diệp chiếc tàu Duchaffaud đi mà đi. Về sấm hòm-rương áo-quần. Rủ thầy ba Hớn với ông sáu Thìn, nguyên một nguời ở tỉnh Bắc-ninh, một người ở Sơn-tây mà vào trong Nam-kỳ đã lâu, đi theo trước là cho có bạn, sau nữa là cho họ về thăm quê-quán. Qua ngày 18 tháng chạp đề-huề xuống tàu. Sớm mai giờ thứ 9 rưỡi nhổ neo. Vợ con đi đưa, ngồi xe đi rảo trên bờ cho đến tàu quày trở rồi riu-ríu chạy xuống đồn Cá-trê, mới về. Xế giờ thứ hai ra cửa Cần-giờ, chỉ mũi chạy ra mũi Né. TỚI CỬA HÀN Ngày 21 vô vũng Hàn vừa giờ thứ 5 chiều. Vô đó mà đưa ông, Nguyễn-hữu-Độ, là quan triều sai vô, lên mà về kinh. Đậu ngủ đó một đêm. Chạy hai ngày rưỡi nữa, vô thân trong Cát-Bà đậu lại đó (ngày 25 hồi giờ thứ 10). Đến giờ thứ nhứt rưởi qua tàu Aspic mà lên Hải-phòng (đồn Ninh-hải). TỚI HẢI-PHÒNG Lên bờ đi thăm quan lãnh-sự (M. Turc), rồi qua bên kia sông tới trọ nhà chú Khách Wan-sing. Sáng bữa sau lại qua ăn cơm nơi quan lãnh-sự, rồi đi thăm các thầy làm việc ở đó cho luôn. LÊN HẢI-DƯƠNG Tối lại, đi theo thuyền ông thương-biện Lương quen khi đi sứ bên Tây năm 1863 mà lên tỉnh Hải dương, 27 tới tỉnh. Vào thành ra mắt quan lớn là ông Phạm phú-Thứ làm Thương-chánh đại-thần kiêm tổng-đốc tỉnh Hải-dương và tỉnh Quảng-yên, có quen thuở đi sứ bên Tây. Người mầng-rở lắm. Nội ngày cũng tới viếng ông tuần-phủ Nguyễn-Doãn, nguyên trước có quen khi người vô giao-hòa lần sau tại Gia-định. ĐI LÊN HÀ-NỘI Các quan cầm ở lại đó chơi, ăn tết rồi hãy lên Hà-nội, khi ấy là mùa đông, trời rét lạnh nên ăn ngon cơm lắm. Mấy bữa ấy, hội các quan lớn nhỏ cả tỉnh đủ mặt ; khi ăn khi uống chuyện-vản cả đêm cả ngày. Quan đại lại bày làm rạp hát cho ba bữa luôn, coi hát bội cho no, rồi lại hát nhà-trò. Vui-vầy với nhau thế ấy cho tới mồng 6 tết, chiều giờ thứ nhứt mời lên võng lên cáng mà đi đường bộ lên thành Hà-nội. Trước hết nghĩ chơn tại cái chùa kia. Qua cung sau, nghỉ Ngạt-kéo, mặt trời chen lặn tới huyện Cẩm-giàng. Ông huyện tên là Dương-Xuân ra rước vô nhà ngủ đó. Sáng, cơm nước rồi giờ thứ 8 từ-giã ra đi. TỚI HÀ-NỘI Từ Cẩm-giàng lên cho tới Hà-nội nghỉ bốn chặng : - Quán Cầu-đất (giờ thứ 10). - Tại Đồng-súng (giờ thứ 12 trưa). - Ngả-tư-Dầu (giờ thứ nhứt rưỡi). - Chợ Bún (giờ thứ 3 rưỡi). Giờ thứ tư rưỡi chiều ra tới bờ đê, đi trên đường quai xuống mé sông Bồ-đề, mướn đò đưa qua cửa Phố-mới. Giờ thứ 8 tối tới nhà Hương-công là khách-thương Gia-định ra mua hoa-chi nha-phiến đó. Mời các bạn đón đọc Chuyến Đi Bắc Kỳ Năm Ất Hợi 1876 của tác giả J. B. Trương Vĩnh Ký.