Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Balzac Và Cô Bé Thợ May Trung Hoa - Đới Tư Kiệt

Tại vùng núi "Thiên Phụng" hoang vu, có hai trí thức trẻ được đưa về cải tạo trong cuộc đại cách mạng văn hóa. Giữa những người dân lần đầu nhìn thấy vĩ cầm hay một chiếc đồng hồ có con gà trống sặc sỡ, họ tìm thấy một người bạn-người tình xinh đẹp: cô thợ may Trung Hoa, giữa những tháng ngày tăm tối và vô vọng, họ tình cờ có được những tác phẩm nổi tiếng của văn học phương tây. Vậy là đủ cho những cuộc phiêu lưu! Mặc kệ những ngày lao động cực nhọc, mặc kệ những thành kiến, mặc kệ những âu lo về tương lai mờ mịt... họ đắm mình trong cảm giác yêu đương hoang dại mới mẻ, đắm mình trong những tác phẩm cổ điển của Balzac, Duyma. Có thể nói, văn chương đã cứu vớt, an ủi, xoa dịu tâm hồn hai chàng trai trẻ, đưa họ tới gần hơn cô bé thợ may xinh đẹp, nhưng cũng chính văn chương đã đưa cô rời xa họ, bởi những tác phẩm của Balzac đã làm cô hiểu ra "sắc đẹp của người đàn bà là một kho tàng vô giá". Sức hấp dẫn của Balzac và cô bé thợ may Trung Hoa đến từ những trang viết sinh động, hài hước và cay đắng về hiện thực cải tạo của cả một thế hệ thanh niên Trung Hoa trong cuộc đại Cách mạng văn hóa, từ văn phong đẹp, từ những chi tiết đặc sắc giàu tính điện ảnh của nhà văn-đạo diễn Đới Tư Kiệt, và đặc biệt, từ cái kết bất ngờ làm người đọc phải ồ lên ngỡ ngàng vì tác động nhiều chiều của văn chương. Tất cả đã đem lại cho Balzac và cô bé thợ may Trung Hoa nét riêng bên những tác phẩm cùng viết về thân phận con người trong một giai đoạn lịch sử Trung Quốc đầy biến động.  Nhận định về tác phẩm:   "Có rất ít cuốn sách làm tôi xúc động như cuốn này. Tôi đánh giá nó rất cao. Bản thân tôi cũng bí mật làm quen với văn hóa phương Tây nhờ văn học trong Cách mạng Văn hóa khi tôi lần đầu tiên được đọc bản chép tay bản dịch tiếng Trung cuốn Jane Eyre của Bronte. Đới Tư Kiệt đã trình bày kinh nghiệm này một cách tuyệt vời. Bất cứ ai muốn hiểu văn học nghệ thuật phương Tây ảnh hưởng thế nào đến Trung Quốc đều nên đọc sách này " - Anchee Min - nhà văn, tác giả Đỗ quyên đỏ, Làm vợ Mao "Một câu chuyện như thôi miên, cổ điển và hiện đại, một chủ nghĩa hiện thực vừa ngụ ngôn vừa bạo dạn, đầy chi tiết quý giá, lay động sâu xa đến trí tưởng tượng và trái tim tôi" - Amy Tan-nhà văn, tác giả Phúc Lạc Hội, Con gái thầy lang "Một câu chuyện đơn giản, với lối kể quyến rũ...Điều khiến truyện nổi bật chính là cách nó đề cập và khơi dậy vẻ đẹp của những trải nghiệm nhân tính vượt khỏi khung cảnh một vùng đồi núi ở miền tây Trung Quốc" - Justin Hill, Times Literary Supplement "...Một tiểu thuyết vui vẻ, cảm động, tinh quái và trên hết là làm ta say mê...Dù thấm đẫm sự dí dỏm và hài hước, "Balzac và cô bé thợ may Trung Hoa" vẫn là một khúc lãng mạn, một  tiểu thuyết về sức mạnh của nghệ thuật trong việc mở rộng cánh cửa của trí tưởng tượng, dù hoàn cảnh có thế nào đi nữa... " - Micheal Dirda - The Washington Post Book World *** Nếu bạn từng đọc “Rừng Na Uy” hoặc xem bộ phim cùng tên thì tác phẩm của Đới Tư Kiệt sẽ làm bạn cảm thấy có nhiều nét tương đồng hoặc ngược lại. Đọc “Rừng Na Uy” ta gặp nhiều “người quen” trong “Balzac và cô bé thợ may Trung Hoa”.   Thứ nhất là mật độ của sex khá dày, thứ hai là không khí chán chường bế tắc của thanh niên. Bởi Đới Tư Kiệt chọn bối cảnh Trung Quốc thời kì cách mạng văn hóa để đưa vào câu chuyện của mình. Câu chuyện hồi tưởng của nhân vật xưng tôi về khoảng thời gian khi chưa tới tuổi 20,  và một người khác tên Lạc, được đưa đến để "tự cải tạo" năm 1971. Ở đó, cô bé thợ may hiện ra trước họ tựa "nàng công chúa của núi Thiên Phụng đi đôi giày màu hồng nhạt bằng vải mềm". Cô tự học viết, học đọc từ người cha thợ may của mình và viết bức thư đầu tiên gửi Lạc.   Và Lạc - mang cơn sốt rét, cùng "căn bệnh ma quỷ" từ hầm mỏ tìm đến nhà cô. Cô chạy ra suối hái một loại thảo dược có bông từa tựa cánh hoa đào để chữa bệnh cho anh. Đêm đến, những sơn dân tận cùng miền sơn cước Trung Hoa lẳng lặng đến nhà cô thợ may để nghe Lạc kể chuyện.   Anh kể rất hay. Đến nỗi khi kết thúc truyện Cô hàng hoa bé nhỏ, tất cả đều thút thít, khóc vì xúc động, gió núi dường cũng xao xuyến, thổi tắt ngọn đèn duy nhất, để trong bóng tối, cô bé thợ may cúi xuống trao cho Lạc một nụ hôn. Về sau, hai người đã thành thân và âu yếm nhau như vợ chồng, dưới cây bạch quả to lớn, đẹp lộng lẫy, trồng ở cuối thung lũng phía đông ngôi làng của cô bé, nơi mà Lạc gọi là: Thung lũng Tình yêu. Nơi ấy, họ lén đọc những dòng nên thơ trong tiểu thuyết Balzac chép trên mặt áo da cừu và trải những ngày thắm thiết, bay bổng khỏi vòng cấm kỵ... Ở một thời kì bị cấm đoán ngặt nghèo, thanh niên thành phố bị đưa về vùng quê để cải tạo vụng trộm từ việc đọc những tác phẩm của Balzac cho tới ngắm trộm người đẹp ở bên sông. Nếu đọc một lần, bạn sẽ hơi bực mình và nghĩ sex trong truyện là thứ đưa vào để câu khách rẻ tiền. Nhưng ngẫm hơn một chút, ta nhận ra đó sự tàn nhẫn. Tàn nhẫn khi đưa những thanh niên chưa trưởng thành về vùng quê khi họ còn mờ tịt các vấn đề giới tính, mọi hành động chỉ ở dạng bản năng từ việc thủ dâm cho tới làm tình với một cô gái còn ở tuổi vị thành niên.   Đới Tư Kiệt đã chọn vẻ đẹp thuần khiết của diễn viên Châu Tấn cho vai cô bé thợ may. "Cô bé thợ may có đôi mắt đẹp nhất huyện Vĩnh Cảnh sống trong một thôn nghèo heo hút, cheo leo, trên đỉnh Thiên Phụng".   Trần Khôn được chọn vào vai Lạc trong bộ phim được chuyển thể từ tác phẩm ăn khách của ông. Nhưng Trần Khôn lại phong trần hơn so với vai diễn của thanh niên tuổi ngoài 20 với đầy sự tò mò về cuộc sống xung quanh, sự bất mãn khi bị kìm kẹp bởi luật lệ cứng nhắc. Bằng giọng kể trần thuật ngắn gọn, xúc tích, Đới Tư Kiệt mang tới cho người đọc một câu truyện mang tính nhân văn sâu sắc gói gọn trong cuốn sách mỏng.   Những hình ảnh được miêu tả sống động từ vẻ đẹp cơ thể của những thanh niên mới lớn cho tới thiên nhiên của vùng quê thanh bình nhưng đầy rẫy sự biến động bên trong. Ngôn ngữ đa nghĩa của Trung Quốc được truyền tải hoản hảo bằng tiếng Pháp, thứ ngôn ngữ mang nhiều sự châm biếm, tinh thâm của phương Tây.   Một cuốn sách thực sự có chiều sâu giữa rất nhiều tác phẩm mì ăn liền do văn học mạng Trung Quốc tạo ra. *** Đới Tư Kiệt sinh năm 1954 tại Trung Hoa. Từ 1971 tới 1974 ông bị đi học tập cải tạo như mọi thanh niên khác trong thời Cách mạng Văn hoá. Ông rời Trung Hoa sang Pháp năm 1984 và sống ở đó cho tới nay. Balzac et la Petite Tailleuse chinoise là tiểu thuyết đầu tay của ông, do Gallimard xuất bản năm 2000 tại Pháp, và trở thành tác phẩm bán chạy nhất trong năm với 5 giải thưởng, và đã được quay thành phim do chính ông đạo diễn. Bản tiếng Việt Balzac và Cô Bé Thợ May Trung Hoa sau đây dịch theo bản tiếng Anh, Balzac and the Little Chinese Seamstress, của Ina Rilke, Alfred A. Knopf xuất bản năm 2001 tại New York.   Mời các bạn đón đọc Balzac Và Cô Bé Thợ May Trung Hoa của tác giả Đới Tư Kiệt

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Vẽ Em Bằng Màu Nỗi Nhớ - Tâm Phạm
Câu chuyện là hồi ký của nhân vật Khanh trong khoảng thời gian quay trở lại Việt Nam đan xen cùng những ký ức của 6 năm trước đó. Tại Sài Gòn, Khanh đã gặp lại Linh - người con gái của miền ký ức và Miu - cô gái tưởng như xa lạ mà thân quen. Độc giả có thể tò mò về Miu, nhân vật xuất hiện ngay từ đầu câu chuyện nhưng luôn mang theo một điều bí ẩn về thân phận và cách ứng xử lạ lùng. Chỉ bởi Khanh không nhận ra cô sau 6 năm gặp lại mà Miu đã quyết tâm lên kế hoạch khiến Khanh nhận ra con người và tình cảm của mình. Cùng với đó là sự xuất hiện của Linh, người con gái gắn liền với ký ức về khoảng thời gian 3 năm trước khi rời Việt Nam của Khanh. Yêu và dành trọn tình cảm cho Linh, nhưng Khanh nhận lại chỉ là tình cảm bạn bè và một trái tim tan nát bởi trong lòng Linh luôn có hình bóng của người con trai khác. Sau khi Khanh ra đi trong đau đớn thì Linh đã nhận ra tình cảm thực sự của mình. Khoảng thời gian 6 năm đã thay đổi nhiều thứ, Khanh giờ đây đã là một kỹ sư trưởng thành và chững chạc hơn xưa. Đối mặt với một Linh tình cảm nồng nàn đợi chờ và một Miu bí ẩn luôn quan tâm, chăm sóc, Khanh vẫn luôn giữ đúng chừng mực. Điều bất ngờ xảy ra trong ngày sinh nhật của Linh và Miu, như giọt nước làm tràn ly, Miu đã khiến Khanh tự nhận ra thân phận thật của mình là cô bé Trinh thân thuộc và bộc lộ tình cảm bấy lâu dành cho Khanh. Sự thật này làm cho Khanh phải bất ngờ không chỉ bởi sự thay đổi về ngoại hình của Trinh mà Khanh còn phát hiện ra rằng tình cảm từ trước đến nay dành cho ai. Tuy nhiên, quyết định cuối cùng của Khanh đều khiến mọi người phải ngỡ ngàng. Câu chuyện xoay quanh cuộc sống thường ngày của những thanh niên trẻ trung và năng động, về tình yêu, tình bạn, tình cô trò và tình thân gia đình với nhiều cung bậc cảm xúc từ hài hước đến tò mò, đôi khi là những giọt nước mắt đầy xúc động. *** - Cho con một tô đặc biệt nhe cô. Sau bao nhiêu năm trở lại đây, mọi thứ vẫn không hề thay đổi gì nhiều. Vẫn con đường nhỏ vào khu chợ Việt Kiều, vẫn dòng người qua lại mua bán tấp nập, lũ trẻ trong xóm vui đùa cùng nhau một cách hồn nhiên. Tôi đang ngồi trong một quán hủ tiếu nhỏ, cái nơi mà nó đã từng gắn liền với tuổi thơ. Là những lúc phải ăn hủ tiếu vì chán cơm thèm phở theo đúng nghĩa đen của nó, là những lúc không cơm nhà vì mẹ bận, là những lúc hội hợp bạn bè và …là những lúc mà cái quán nhỏ này trở thành nơi để lại trong tôi nhiều kỷ niệm vui buồn về tình yêu đầu của tuổi học trò. Vừa ăn vừa hổi tưởng lại nhưng ký ức đã qua, thoáng chốc mà đã gần hết tô hủ tiếu. Cái hương vị của bò viên hòa quyện vào nước lèo thật đậm đà khó tả. Tôi đã từng tìm đến rất nhiều nhà hang ẩm thực Việt tại các tiểu bang Hoa Kỳ chỉ để có được cái hương vị này, hương vị món ăn của quê hương. Đang say sưa với tô hủ tiếu thân yêu, bỗng ngoài cửa, một người con gái xuất hiện. Sẽ chẳng có gì lạ khi một đứa con gái bước vào một quán hủ tiếu. Điều khiến tất cả các gã đàn ông trong quán phải ngưng đũa và ngoái nhìn là vì cô ấy quá nổi bật, một vẻ đẹp kiêu kỳ hút mọi ánh nhìn, ở cô ấy toát lên một sự cuốn hút kỳ lạ. Cùng với chiếc váy trắng bó sát và giày cao gót, làm tôn lên một thân hình hoàn hảo với ba vòng cân. Nước da trắng hồng cùng mái tóc dài được búi cao lên, đúng là người con gái trong mơ của bất cứ gã đàn ông nào. Tôi nghĩ thầm trong bụng, có lẽ em là diễn viên hay người mẫu gì đây. Chả trách nhìn khuôn mặt rất quen, cứ như từng đóng trong một bộ phim nào đó mà tôi đã xem dù vẫn còn đó cặp kính đen trên đôi mắt. Bỗng định thần lại, tôi quay lại với tô hủ tiếu đã sắp nguội của mình và tiếp tục ăn ngon lành. Thình lình có tiếng kéo ghế, một ai đó vừa ngồi vào bàn của tôi theo hướng đối diện. Ngước mặt lên thì chính là cô ấy, tôi nhìn cô ấy và tỏ vẻ hơi bất ngờ vì trong quán vẫn còn nhiều bàn trống mà. Và nếu là một người lịch sự thì ít nhất cũng nên hỏi tôi một tiếng xem có thể ngồi cùng bàn hay không chứ. Nhưng thôi, tôi cũng không quan tâm lắm và tiếp tục sự nghiệp ăn uống của mình. Lâu lâu tôi lại ngước lên thì thấy cô ấy vẫn lặng yên ở đó và nhìn về phía tôi, thật ra thì tôi cũng không dám chắc là sau cặp kính đen ấy, cô ấy đáng nhìn về phía nào. Tự nhiên cảm thấy một chút bối rối và hơi bất an. - Cho con một ly cafe sữa đá nhe dì! – Một giọng nói thánh thoát từ cái miệng nhỏ xinh phát ra, cô ấy thao kính đen, tay vẫy gọi bà chủ quán. Cặp mắt long lanh ấy thật đẹp, nhin rất cuốn hút và vô cùng thân quen. Bây giờ thì tôi có thể tin rằng mình đã từng thấy cô ấy ở đâu đó trên tivi. Thở phào một cái và tiếp tục với tô hủ tiếu của mình, không khí nghiêm trọng nãy giờ mới được giải phong bớt khi cô ấy đặt chiếc kính lên bàn. Nhưng tính tôi khá khó chịu khi phải ngồi ăn chung bàn với một người không quen biết, vì đôi lúc tôi ngước nhin lên ngắm cảnh vật xung quanh thì lại đối mặt với người ngồi đối diện. Ngày xưa, vào những trường hợp thế này tôi thường cắm cuối ăn cho nhanh rồi tính tiền ra về, không thể ngồi lâu thưởng thức món ăn và ngắm nhìn cảnh vật phố phường. Nhưng hôm nay thì khác, có lẽ là một ngoại lệ. Đối diện tôi là một cô gái với vẽ đẹp sắc sảo, lạnh lung, không để ý đên một ai xung quanh. Thể loại này thường bị cho là chảnh, cũng đúng thôi, người ta đẹp thì người ta có quyền mà. - Nước của con đây. – Bà chủ quan nói với cô ây. ... Mời các bạn đón đọc Vẽ Em Bằng Màu Nỗi Nhớ của tác giả Tâm Phạm.
Cố Đô - Yasunari Kawabata
Tác phẩm xuất sắc nhất của Kawabata, tiểu thuyết Cố đô kể về cô gái trẻ Chieko, một đứa trẻ bị cha mẹ nghèo xơ xác bỏ rơi và được gia đình thương gia Takichiro nhận nuôi, ở đây cô được nuôi nấng dạy dỗ theo những nguyên tắc truyền thống của Nhật Bản. Chieko là một cô bé nhạy cảm, trung thành, nhưng thầm ấp ủ câu hỏi về thân thế của mình. Ở Nhật Bản, người ta cho rằng một đứa trẻ bị bỏ rơi sẽ khổ ải với tai ương suốt đời, thêm vào đó, theo một quan điểm hết sức lạ lùng của Nhật Bản, trẻ sinh đôi còn chịu sự nhục nhã đáng xấu hổ. Một ngày nọ tình cờ cô gặp một cô gái lao động xinh đẹp trong rừng tuyết tùng gần thành phố và phát hiện ra rằng cô là người em song sinh của mình. Họ gắn kết sâu sắc với nhau vượt qua hàng rào giai cấp xã hội - cô gái thô kệch, làm việc nặng nhọc Naeko và cô gái thanh nhã, luôn được bảo vệ cẩn mật Chieko, nhưng sự giống nhau lạ lùng giữa họ đã mau chóng làm phát sinh rắc rối, phiền toái. Toàn bộ câu chuyện được đặt trong bối cảnh năm lễ hội tôn giáo ở Kyoto từ mùa xuân anh đào nở rộ đến mùa đông lấp lánh tuyết. Cố đô là một trong ba tác phẩm của Yasunari Kawabata được Ủy Ban Giải Thưởng Nobel dẫn chứng khi tặng giải, có cốt truyện phức tạp liên quan tới một cặp chị em song sinh, đã bị chia cách từ lúc mới chào đời nhưng các yếu tố khiến cho các nhân viên cứu xét Giải Thưởng Nobel phải quan tâm, là do tác phẩm đã nói lên các vẻ đẹp của Thành Phố Kyoto và các truyền thống cổ, với các phụ nữ Kyoto còn giữ các vẻ duyên dáng, không bị nền văn hóa phương Tây làm biến chất. Cùng với phần lớn du khách, Kawabata ước muốn rằng lối sống cổ truyền Nhật Bản vẫn được duy trì. Bản thân thành phố thật sự là một nhân vật quan trọng, thủ đô của vương quốc xưa, từng là nơi đóng đô của Thiên hoàng và triều đình, sau hàng ngàn năm vẫn là một thánh địa lãng mạn, quê hương của mỹ thuật và hàng thủ công trang nhã, ngày nay tuy bị khai thác cho du lịch nhưng vẫn là địa điểm thăm viếng được ưa chuộng. Với các chùa chiền phật giáo và các đền thờ Thần đạo, khu thủ công xưa và vườn thực vật, nơi này mang trong nó chất thơ mà Kawabata thể hiện bằng một phong cách dịu dàng, nhã nhặn, không ủy mị mà tự nhiên như một sự hấp dẫn đầy xúc động. Ông đã sống qua thất bại nặng nề của đất nước và nhận thức chắc chắn rằng tương lai đòi hỏi những gì về tinh thần cầu tiến, nhịp điệu và sức sống công nghiệp. Nhưng trong làn sóng hậu chiến của sự Mỹ hóa mạnh mẽ, tiểu thuyết của ông là lời nhắc nhở nhẹ nhàng về sự cần thiết cứu lấy một cái gì đó trong vẻ đẹp và cá tính của Nhật Bản xưa cho một nước Nhật Bản mới. Ông mô tả những lễ nghi tôn giáo ở Kyoto một cách tỉ mỉ như thể chọn mẫu hoa văn trên khăn thắt lưng truyền thống trong trang phục phụ nữ. Những khía cạnh này trong tiểu thuyết có thể có giá trị tài liệu, nhưng độc giả thích thú với những đoạn mô tả sâu sắc như vậy như đoạn tả nhóm người trung lưu của thành phố thăm viếng vườn thực vật - vốn bị đóng cửa một thời gian dài vì lính Mỹ chiếm đóng lập doanh trại ở đó - để nhìn xem những con đường đáng yêu với hàng cây long não có còn nguyên và có thể làm vui sướng những con mắt thành thạo hay không. Với Kawabata, lần đầu tiên Nhật Bản bước vào thế giới những người đoạt giải Nobel văn chương. Điều cốt yếu dẫn đến quyết định này là, với tư cách nhà văn, ông đã truyền đạt một nhận thức văn hóa có tính thẩm mỹ và đạo đức cao (moral-esthetic cultural awareness) bằng một phong cách nghệ thuật độc đáo, do đó đóng góp vào cầu nối tinh thần Đông Tây theo cách của ông. *** Chieko để ý thấy những đóa hoa tím đã nở trên cây phong. - Ôi cả năm nay nữa chúng cũng nở kìa? - Hơi thở mùa xuân mơn trớn thoảng vào Chieko. Trong khu vườn nhỏ bé cây phong hóa ra đồ sộ, thân nó to ngang hơn chính Chieko nhiều lắm. Nhưng lẽ nào có thể đem cái thân cây đầy rêu, phủ lớp vỏ chai sần, nứt nẻ, sánh với thân hình con gái của Chieko... Vừa đúng ngang tầm eo lưng, cây phong hơi vẹo về bên phải, rồi đến đoạn cao hơn đầu nàng lại thoắt vươn sang phải thành một vòng cung mà chính từ khúc cong này cành tỏa ra mọi phía, che phủ cả khu vườn. Những cành dài trĩu xuống vì sức nặng bản thân chúng, chạm đầu cành tới đất. Dưới chỗ thân cây đột ngột uốn cong một chút là hai hốc lõm con con, nơi những cây hoa tím mọc. Cứ xuân sang chúng lại trổ hoa. Trong chừng mực mà Chieko còn nhớ được thì trên thân cây vốn bao giờ cũng có hai khóm hoa. Khóm trên cách khóm dưới một khoảng trọn một xiaku 1. Khi đã là cô gái trưởng thành, Chieko thường hay tư lự: liệu có khi nào hai cây hoa tím trên dưới gặp được nhau không? Liệu chúng có biết đến sự tồn tại của nhau không? Nhưng với chúng thì các chữ "gặp", "biết" mang được ý nghĩa gì kia chứ?... Hoa nở không nhiều - thấy chỉ ba đến năm vành hoa nhỏ là cùng. Nhưng dù sao cứ xuân sang, trong hai hốc nhỏ bé trên thân cây phong, chồi mới lại nhú lên, hoa lại nở. Chieko thường ngắm hoa từ chỗ lối đi, hoặc khi đứng trước gốc cây. Nàng nhìn chúng, mắt ngước từ khóm dưới lên khóm trên mà lòng bồi hồi, lúc lấy làm ngạc nhiên cho "kiếp sống" khác thường ấy của loài hoa tím, lúc cảm thấy một cảm giác cô đơn đôi khi đến lạ. - Chính đây là nơi chúng đã lớn lên...Rồi sống...- nàng thầm thì. Khách khứa đến cửa hàng vẫn tỏ vẻ thán phục cây phong nhưng hầu như chả có ai để ý thấy những cây hoa tím đang khiêm nhường trổ hoa. Cái cây cổ thụ làm người ta kinh ngạc bằng sức mạnh của mình, mà khúc thân mọc điểm rêu xanh gợi ra sự nể trọng và tạo thêm cho cây phong một nét mỹ cảm riêng. Hai khóm hoa tím nhỏ nhoi, nương náu trên đó, dường như lu mờ hẳn trong khúc ngợi ca sự hùng vĩ và vẻ đẹp kia. Mời các bạn đón đọc Cố Đô của tác giả Yasunari Kawabata.
Những Người Đàn Ông và Những Người Đàn Bà - Nguyễn Đức Thiện
NGƯỜI ĐÀN BÀ VIẾT: .Viển vông quá phải không anh. Ngày mai em có thể chắng còn gặp anh nữa. Ngày mai có thể anh, có thể em sẽ là người của thiên cổ (Cũng sắp rồi còn gì). Ngày mai, có thể sẽ ngưng lại tất cả chấm dứt vòng quay trái đất… Thì em cũng cảm ơn anh đã trả cho em một chút tuổi trẻ. Cũng như anh đã từng cảm ơn em cho anh biết lại một thời nồng nàn. Chỉ nên thế thôi, cho ngày mai còn có mơ ước. Dẫu có muộn màng Đừng hôn em nữa, đủ rồi" NGƯỜI ĐÀN ÔNG NGHĨ: Nhưng không có sự đam mê của người thì sao? Ta sẽ đam mê một mình. Ta cứ mê ta. Một mình thôi, để chẳng làm phiền ai, và cũng chẳng ai làm phiền mình. Có vậy thì ta mới sống. Hãy cứ tin ở ta cái đã. NGƯỜI ĐÀN BÀ VIẾT: Nghe chuyện người ta đã khóc. Khóc vì một nỗi bất hạnh. Người đàn bà cô đơn, yêu cho đến chết một người không bản lĩnh. Giống như ta, đã một thời như thế. Người đàn ông ấy chỉ dám yêu mình không dám làm gì, chẳng dám vượt qua một chút trở ngại của cuộc đời. Họ sống hạnh phúc bên vợ và yêu hạnh phúc một người đàn bà khác. Họ lãng mạn và yếu hèn. Người đàn ông ấy hiền lành và không xứng đáng với một nửa trái tim ta. Bất chợt từ cõi lòng ta một nỗi chán chường đến kinh khủng, ta muốn từ bỏ hết thảy mọi người. Đừng ai yêu ta. Lũ đàn ông rồi sẽ phản bội. Ta thích một mình...)​ *** Bây giờ thì ông chỉ còn có một mình. Một mình trong căn nhà bé như cái hộp diêm quẹt. Bà ấy không đến, và ông cũng không đi tìm bà. Giữa hai người đã một lần, và chỉ có một lần bừng cuộn lên, nhưng rồi lại lắng xuống một hòn đá làm cho nó cuộn lên, nhưng khi những vòng tròn xoáy nước khép lại, thì mặt ao lại phẳng lặng như tờ. Lâu lâu có ngọn gió thổi qua, mặt ao dềnh lên chút ít nhưng cũng đủ gợn lên những con sóng, nhấp nhô, nhấp nhô. Ông thắp nhang lên bàn thờ. Mỗi ngày ông thắp một nén, loại nhang thơm. Không biết có khi nào ông có thể quên thắp nhang không. Nhưng đã thành quen rồi, đêm khi đi ngủ ông không thể thiếu mùi nhang toả ra từ trên bàn thờ. Có những lúc ông nghĩ, ông đang thắp nhang cho chính mình. Lại có lúc ông tưởng như thắp nhang cho một mối tình tưởng còn mà mất, tưởng mất mà còn và tưởng có mà không. Một đời người chỉ thế thôi ư. Ngày nào còn tươi trẻ là thế, nay đã nắng quá chiều hôm. Gắt gao đấy nhưng ngày đang tàn dần. Ông nhớ bà, nhưng hình như cái nhớ nó cũng khác ngày xưa khi còn trẻ. Khi còn trẻ, nhớ ai thì nhớ cồn cào, da diết và chỉ có nhớ người đó mà thôi. Nay nỗi nhớ cứ bị xen vào bởi những suy nghĩ khác. Nhớ mà chẳng đắm đuối chút nào. Nó cứ vẩn vẩn, vơ vơ, không như thời trai trẻ. Thèm gặp đấy nhưng rồi chợt nghĩ đến chuyện khác thế là lại quyên. Nhớ cũng vô tình mà nhớ, và quên cũng vô tình quên. Khi không lúc này mà còn gặp nhau. Trời sắp đặt đấy. Chớ cái tuổi ăn phải cái gì cưng cứng là phải trệu qua, trạo lại, mấy ai còn nghĩ đến chuyện yêu đương. Vây mà yêu đương mới lạ. Bữa đó, ông buồn, ông cô đơn. Đâu có phải đến khi đó ông mới buồn, mới cô đơn. Lần cuối cùng ông có gia đình cách nay đã hơn mười năm. Sau một cuộc cãi lộn vối người đàn bà mà ông để gần hết một đời người cung phụng, ông đã ra đi. Cuộc cãi lộn không lớn nhưng ông bị xúc phạm. Người ta biểu rằng ông chỉ là thứ người vô tích sự. Người ta biểu ông không lo toan được gì cho gia đình, cả một đời ăn bám. Ông đã ra đi sau một đêm trằn trọc. Và cuối cùng thì người ta ném vào mặt ông một câu: ông bây giờ thừa ra rồi. thì ông đi, ông tự cắt bỏ sự thừa thãi là mình, ra khỏi cái nơi một thời ông gắn bó, giống như người ta tự nguyện lên bàn mổ, cắt đi khúc ruột dư ra khỏi cơ thể mình. Không lẽ ngồi để mà kể ra với người đàn ông đã làm ra những cái gì cho gia đình tồn tại ngần ấy năm trời. Đi với hai bàn tay gần như trống trơn. Bạn bè chỉ cho ông một căn phòng nhỏ, vốn là nhà tập thể ở một cơ quan nào đó. Ông bỏ những đồng tiền cuối cùng để mua căn phòng và làm lại từ đầu trong căn phòng chỉ có mười sáu mét vuông kia. Làm lại từ đầu cho riêng mình thôi, chớ chẳng dại dột gì mà kháp với người đàn bà khác. Đàn bà họ có thế mạnh của họ. Thường trong những cuộc tình, lúc ban đầu thì quến rũ là của đàn ông, quyến rũ xong, quyền chủ động bắt đầu chuyển sang cho đàn bà. Người đàn bà muốn sờ mó đến từng công việc dù là rất nhỏ của của người đàn ông. Họ cho họ cái quyền như vậy. Anh đi đâu? Anh làm gì ở chỗ nào? Lương anh có bao nhiêu. Anh mang làm gì nhiều tiền trong túi thế? Sao người ta điện cho anh ngoài cơ quan mà không thấy, giờ đó anh làm gì ở đâu?… Hằng trăm câu hỏi mỗi ngày. Trả lời kiểu nào cũng không thoả mãn được người hỏi. Khi im đừng trả lời nữa cũng không được. Người ta sẽ biểu: làm sao tôi có thể sống được trong căn nhà cứ im lặng như nhà mồ thế này. Có người mong chế ra được một sợi chỉ vô hình, cột vào chân người đàn ông, để đàn ông đi đâu, đàn bà cũng có thể tìm thấy được nhờ sợi chỉ đó. Nên ông thề cuối đời ông sẽ ở một mình, nhất định là một mình, mấy đứa con gả vợ, dựng chồng hết rồi. Một lũ cháu nội ngoại lúc nào thích thì đến thăm ông, không thích thì thôi. Nhà cửa tài sản ông đã để lại hết, không đòi cho mình cái gì, từ chối luôn phần thừa kế, khiến ông chẳng còn nợ ai và cũng chẳng bắt ai phải nợ gì. Có người khuyên ông ly hôn để để tạo dựng cuộc sống khác, ông cười: ngần này tuổi rồi, đưa nhau rồi ra toà giống con nít bày đặt chuyện làm nư quá. ... Mời các bạn đón đọc Những Người Đàn Ông và Những Người Đàn Bà của tác giả Nguyễn Đức Thiện.
Những Bí Mật Về Chiến Tranh Việt Nam - Daniel Ellsberg
Năm 1971, Daniel Ellsberg, sĩ quan Lầu Năm Góc từng tham chiến ở Việt Nam, đã cho công bố 7.000 trang tài liệu tối mật cho báo chí, tạo nên một làn sóng phản đối chiến tranh Việt Nam mạnh mẽ chưa từng có tại Mỹ. Nhận bằng tiến sĩ Kinh tế Đại học Harvard năm 1962, nhưng số phận lại đưa ông đến làm việc ở Bộ Quốc phòng và sau đó ông được phái sang chiến trường Việt Nam. Sau hơn 3 năm ở Việt Nam, làm việc cho cố vấn đặc biệt của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng và Đại sứ Mỹ tại Sài Gòn, năm 1967, Daniel trở về Mỹ, ông được phân vào nhóm nghiên cứu tối mật về hoạch định chính sách đối với Việt Nam của Bộ trưởng Quốc phòng McNamara. Tại đây, ông đã được trực tiếp tiếp xúc với các tài liệu mật của Nhà Trắng và biết rõ kế hoạch muốn leo thang chiến tranh Việt Nam của Tổng thống, mặc dù bề ngoài Nixon và bộ sậu của ông ta ra sức nói dối để bao che cho hành động leo thang và kéo dài cuộc chiến của mình. Là một người yêu chuộng hoà bình và đã từng có thời gian tham chiến tại Việt Nam, hiểu rõ bản chất phi nghĩa của cuộc chiến, Dan đã đánh cược cả cuộc đời mình, sao chụp 7.000 trang tài liệu của Hồ sơ Lầu Năm Góc. Ông bắt đầu công việc này từ năm 1969 và đến năm 1971, ông đã đi đến quyết định làm chấn động nước Mỹ, công bố toàn bộ tài liệu trên tờ Thời báo New York. Dan đã từng nói: Lẽ ra, nếu tôi có thể đưa các tài liệu đó ra từ khi tôi mới vào làm việc tại Lầu Năm Góc và Nhà Trắng, vào năm 1964-1965, thì có thể những tài liệu đó đã góp phần ngăn chặn cuộc chiến". Những bí mật về chiến tranh Việt Nam - Hồi ức về Việt Nam và Hồ sơ Lầu Năm Góc (Secrets: A Memoir of Vietnam and the Pentagon papers) là cuốn hồi ký của Daniel, xuất bản năm 2002, đã trở thành cuốn sách bán chạy nhất, gây xôn xao nước Mỹ. Cuốn sách kể lại cuộc hành trình đi tìm sự thật của Dan và phanh phui những âm mưu dối trá của Tổng thống Nixon và Lầu Năm Góc về cuộc chiến tranh Việt Nam, bắt đầu từ Sự kiện Vịnh Bắc Bộ, (tháng tám năm 1964). Tháng Ba năm 2006, Daniel trở lại thăm Việt Nam, và được trao Kỷ niệm chương "Vì hoà bình hữu nghị giữa các dân tộc", tôn vinh những cống hiến không mệt mỏi của ông đã góp phần thức tỉnh dư luận về cuộc đấu tranh chính nghĩa của nhân dân Việt Nam. Ông đã cho phép Nhà xuất bản Công an nhân dân dịch và xuất bản cuốn hồi ký của mình. Sau một thời gian làm việc, cuốn sách đã đến tay bạn đọc. Hy vọng cuốn sách sẽ giúp bạn đọc có một góc nhìn đa diện hơn về cuộc chiến và qua đó thấy rõ tâm lòng của một người ở phía bên kia chiến tuyến đối với đất nước nhỏ bé này. *** Tối ngày 1 tháng mười năm 1969, tôi rảo bước nhanh qua phòng bảo vệ của Công ty Rand[I] ở Santa Monica, tay xách một vali chứa đầy tài liệu tối mật mà tôi dự tính sẽ sao chụp trong đêm hôm đó. Số tài liệu này là một phần trong công trình nghiên cứu tối mật gồm 7.000 trang liên quan tới các quyết định của Mỹ ở Việt Nam, sau này được biết đến dưới tên gọi quen thuộc là Hồ sơ Lầu Năm Góc. Phần còn lại nằm trong két đựng tài liệu ở văn phòng của tôi. Tôi quyết định sao chụp toàn bộ và đưa ra công chúng bộ hồ sơ này, hoặc là thông qua các cuộc điều trần tại Thượng viện hoặc là qua báo chí nếu tôi thấy điều đó là cần thiết. Tôi tin rằng tôi có thể sẽ phải ngồi tù suốt đời vì việc làm này. Cuốn hồi ký này sẽ tập trung mô tả quá trình hành động công bố tài liệu của tôi. Trong 11 năm, từ giữa năm 1969 đến khi kết thúc cuộc chiến tranh vào tháng Năm năm 1975, tôi cũng như rất nhiều người Mỹ khác đặc biệt quan tâm tới sự can thiệp của Mỹ vào Việt Nam. Vào thời gian đó, thoạt tiên tôi nghĩ đó chỉ là một vấn đề, tiếp đến là một sự bế tắc, nhưng rồi sau đó là một thảm hoạ về đạo đức và chính trị và cuối cùng trở thành một tội ác. Ba phần đầu của cuốn sách tương ứng với ba giai đoạn phát triển về nhận thức của tôi. Những sai phạm và hành động sau đó của tôi đã phản ánh quá trình thay đổi nhận thức đó. Khi nhận thức cuộc xung đột chỉ là một vấn đề tôi đã cố gắng góp sức để giải quyết nó, khi nhận ra sự bế tắc, chúng ta (Nước Mỹ - ND) đã cố gắng tư giải thoát mà không gây phương hại tới lợi ích của quốc gia khác, và tôi đã nỗ vạch trần và chống lại cuộc chiến khi ý thức mách bảo nó đã trở thành một tội ác với hy vọng chấm dứt nó càng sớm càng tốt. Qua quá trình nhận thức trên, tôi đã vận dụng nhiều cách khác nhau nhằm tránh khả năng chiến tranh leo thang lên cao hơn. Nhưng gần đến giữa năm 1973, khi tôi phải ra trước Toà án liên bang vì nhũng hành động của tôi vào cuối năm 1969, tôi đã nói không ai, kể cả tôi, thành công trong mục đích và cố gắng của mình. Những nỗ lực nhằm chấm dứt cuộc xung đột - cho dù nó được nhìn nhận như là một cuộc kiểm nghiệm bị thất bại, một vũng lầy hay một sai phạm về mặt đạo lý - dường như cũng chẳng thấm vào đâu so với những cố gắng để chiến thắng trong cuộc xung đột đó. Vì sao? ... Mời các bạn đón đọc Những Bí Mật Về Chiến Tranh Việt Nam của tác giả Daniel Ellsberg.